Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

[THẢO LUẬN 8.5 ĐIỂM] Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Vận dụng tư tưởng đó của sinh viên Đại học Thương Mại vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.86 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------

BÀI THẢO LUẬN
Môn học : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Đề tài 1:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận
dụng tư tưởng đó của sinh viên trường Đại học Thương Mại vào
việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

Giáo viên hướng dẫn:Ngô Thị Minh Nguyệt
Nhóm thực hiện : 07
Lớp HP : 1968HCMI0111

1


HÀ NỘI 2019

BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ THẢO LUẬN

STT

61

Họ và tên

Nội dung công
việc


phân

Ý thức tham gia thảo luận

công,

1.2.3.2d, chương

Nộp đúng giờ, đầy đủ, nội dung
đúng ý, tìm hiểu kĩ

2
62

Làm
bản,

các

biên

1.2.2.2a,

Nộp đúng giờ, nội dung đầy đủ,
đúng và có sự đầu tư

chương 2.
63

1.2.1b,

chương 2

64

phần vận dụng chương 2 còn sơ sài

1.2.1a,
chương 2

65

Nộp muộn, nội dung đúng nhưng

Nộp muộn, nội dung đúng nhưng
chưa chất lượng

1.2.2.2b,
chương 2

Làm bài đầy đủ, nộp đúng giờ.
Nội dung sai đã sửa và bổ sung đúng
đủ.
2


66

1.2.2.2c,
chương 2


67

nội dung đúng ý nhưng chưa chất lượng

1.1, chương
2, tổng hợp word

68

1.2.3.2a,

Nộp bài đúng thời hạn ; làm đúng
yêu cầu ;nội dung khá đầy đủ, đúng ý
Nộp bài đúng hạn, đã làm và

1.2.3.2b, chương

chỉnh sửa 1 số nội dung cho đúng yêu

2

cầu, đầy đủ, đúng ý. Có sáng tạo

69

1.2.3.1,
chương 2

70


Nộp bài đúng thời hạn, đầy đủ,

phần 1.2.2.1,
chương 2

Nộp đúng giờ, đầy đủ, nội dung
đúng và có sự đầu tư
Nộp bài đúng hạn, đầy đủ, đã chỉnh
sửa và bổ sung nội dung sau khi chữa

3


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(Lần 1)
I.Thành viên tham gia
II.Mục đích cuộc họp

− Mọi người đóng góp ý kiến cho việc triển khai 2 đề tài thảo luận
− Thống nhất dàn ý triển khai: chia nhỏ nhiệm vụ cho từng cá nhân và phần vận dụng của sinh viên
cả nhóm cùng nhau góp ý tưởng

− Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ thuyết trình, làm slide và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng
thành viên
III.Nội
1.Thời

2.

dung
gian

:

Địa

từ

14h30

điểm

:

công
phút

đến

Canteen

việc

16h

Đại


ngày

học

15/10/2019.

Thương

Mại.

3.Các thành viên tham gia đóng góp ý tưởng cho đề tài từ sự chuẩn bị trước ở nhà.
4.Nhóm

trưởng

phân

công

nhiệm

vụ

tới

từng



nhân.


=> Nhóm trưởng yêu cầu các thành viên làm bài nghiêm túc để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt
nhất và hoàn thành trước 21h ngày 21/10/2019.
IV.

Đánh

giá

chung

Buổi họp diễn ra sôi nổi,mọi người tham gia đóng góp ý kiến nhiệt tình. Tất cả đều đồng ý với
nhiệm

vụ

được

giao



Nhóm trưởng

chịu

trách

nhiệm


hoàn

thành

trước

thời

hạn.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2019

4


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(Lần 2)
I. Thành viên tham gia
II.Mục
đích
cuộc
họp
- Tổng hợp lại sản phẩm của nhóm sau khi từng cá nhân đã hoàn thành.
- Mọi người tham gia ý kiến và đóng góp để đưa ra sản phẩm hoàn thiện cuối cùng.
III.Nội
dung

công
việc
1.Thời
gian:
từ
16h00
phút
đến
17h30
ngày
5/11/2019.
2.
Địa
điểm:
Sân
nhà
CD.
3.Các thành viên tổng kết lại sản phẩm và đưa ra phần tổng hợp để thống nhất các điểm
tích
cực,
tiêu
cực
của
sinh
viên
Đại
học
Thương
mại
4.

Cả
nhóm
góp
ý
về
nội
dung

thuyết
5.Cả nhóm thống nhất trước khi nhóm trưởng và thư ký đi in bài.
IV.
Đánh
giá
chung.
Buổi họp diễn ra sôi nổi. Mọi người tích cực tham gia đóng góp ý kiến và đã thống nhất
được
sản
phẩm
cuối
cùng
để
trình
bày
trước
lớp.

Nhóm trưởng
(ký, ghi rõ họ tên)

Hà Nội,ngày 3 tháng 11 năm 2019

Thư kí
(ký, ghi rõ họ tên)

5


MỤC LỤC

6


A.

MỞ ĐẦU

Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì
quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân
sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai,
địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt
Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc.
Với nhãn quan chính trị sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả cuộc
đời, Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm
về đại đoàn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng và
các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào Việt Nam ở xa
Tổ quốc

7



B. NỘI DUNG

I.

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC

1 Cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc

1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1

Quan điểm đại đoàn kết của dân tộc

Tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết, dân tộc,
đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng ngàn năm lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc tạo thành một truyền thống bền
vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là
cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân của khối đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào
cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới nhất là
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất
bại của các phong trào ấy đều được Người nghiên cứu để rút ra bài học cần thiết
cho việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân của khối đại đoàn kết
dân tộc
8



1.1.2

Quan điểm đại đoàn kết của Mác- Lênin

Cơ sở lí luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc là những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin: cách mạng là sự nghiệp quần chúng,
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải
trở thành giai cấp dân tộc, liên minh công nông là cơ sở xây dựng lực lượng cách
mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “vô sản
tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã
chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lê Nin cho rằng, sự
liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng tình
và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai
cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được.
Nhờ đó Hồ Chí Minh đã có cơ sở khoa học để thu hái những hiểu biết của
các đời trước để lại và chuyển hoá chúng thành hệ thống tư tưởng của mình về
đại đoàn kết dân tộc
1.2 Cơ sở thực tiễn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được tạo thành bởi nhiều
yếu tố trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc,
tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác Lê Nin được vận dụng,
phát triển sáng tạo phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể Việt Nam trong từng
giai đoạn cách mạng.
1.2.1

Những giá trị truyền thống, lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh cho


độc lập, tự do, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, vị tha, yêu đời, ý thức tự
lực, tự cường của dân tộc.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước những truyền thống đó đã
9


được hình thành, củng cố, đã trở thành truyền thống bền vững, tạo nên sức mạnh
của cả dân tộc để chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch hoạ. Xuyên suốt
chiều dài lịch sử, những truyền thống đó đã trở thành lẽ sống của mỗi người Việt
Nam. Nó được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian như: Nhiễu điều phủ
lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng; tình làng, nghĩa
nước; nước mất thì nhà tan; giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Những truyền thống
đó còn được các anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên thành phương
pháp đánh giặc giữ nước: “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ
một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Phương pháp tập
hợp sức dân của hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh “Dựng gậy làm cờ,
tập hợp bốn phương manh lệ”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”.
Những truyền thống đó đã sớm được Hồ Chí Minh tiếp thu, là cơ sở đầu tiên, sâu
xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.2.2

Trải qua thực tiễn tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại

của các phongtrào cách mạng Việt Nam và Thế giới.
Qua thực tiễn cách mạng Vịêt Nam. Trong gần 80 năm thực dân Pháp cai
trị, áp bức dân tộc ta, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc trở nên sôi nổi
hơn bao giờ hết, nó trở thành một làn sóng to lớn, mạnh mẽ được thể hiện bằng
hàng loạt các phong trào yêu nước của nhân dân ta dù cuối cùng tất cả các phong

trao đó đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận thấy những hạn chế trong chủ trương
tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc những đòi hỏi
khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Người đã đưa ra kết luận “vận mệnh
của đất nước đòi hỏi một lực lượng lãnh đạo mới có khả năng đề ra được đường
lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp vơí quy luật phát triển của lịch
sử và những yêu cầu của thời đại; có đủ sức quy tụ, tập hợp lực lượng của cả dân
tộc vào cuộc đấu tranh chống thực dân, đé quốc, phong kiến và xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc bền vững”
Với thực tiễn cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã nhận thức được một sự

10


thật các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của
họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa
có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chua
có tổ chức và chua biết tổ chức.
Cách mạng tháng 10 Nga đã để lại cho Hồ Chí Minh bài học kinh nghiệm
về tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo trong giành và giữ chính
quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới. Những phong trào cách mạng ở Trung
Quốc, Ấn Độ đã đem lại bài học bổ ích về việc tập hợp lực lượng yêu nước tiến
bộ để tiến hành cách mạng. Những kết luận trên đã giúp ngưòi chuẩn bị những
nhân tố cần thiết cho việc lãnh đạo nhân dân việt nam thực hiện sự nghiệp cách
mạng những năm sau này
2.

Nội dung

2.1 Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
2.1.1 Là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng
cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới;
muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực
lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư tưởng
cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược
tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn
của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù.
Tiếp đó, đại đoàn kết dân tộc còn là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy
nhiên trong từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
11


chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác
nhau.
Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chất đoàn kết như: “Đoàn
kết là sức mạnh của chúng ta”; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”;
“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”…và đặc biệt là câu nói
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm
coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân. Đồng thời, Người lưu ý
rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp,
nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân trong Mặt trận dân tộc
thống nhất. Muốn vậy, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính
sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung
của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, làm “mẫu số
chung” cho sự đoàn kết.
2.1.2 Là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, dân tộc
-Đảng Cộng sản Việt Nam- lực lượng duy nhất lãnh đạo Cách mạng Việt
Nam vì vậy đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt từ chủ trương, đường lối

tới hoạt động thực tiễn của Đảng.
-Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách
mạng.
-Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng
2.2 Lực lượng đoàn kết toàn dân tộc
2.2.1

Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

12


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân và Nhân dân vừa là một từ tập hợp đông
đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều
là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc và thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
Khái niệm đại đoàn kết rất phong phú, bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp
độ các quan hệ liên kết qua lại giữa các thanh viên, các bộ phận, các lực lượng xã
hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn , từ thấp đến cao , từ trong ra ngoài , từ trên xuống
dưới,..
Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các tôn
giáo... trong cộng đồng dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống
yêu nước nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc phải có tấm lòng khoan dung độ
lượng với con người. Người tin rằng: ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước
tiềm ẩn bên trong. Vì vậy, mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn
kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của Tổ Quốc, là cuộc sống tự do
và hạnh phúc của nhân dân.
2.2.2


Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc

a) Kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc
- Truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc được hình
thành,củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng
ngàn năm của cả dân tộc,trở thành giá trị bền vững,thấm sâu vào tư tưởng,tình
cảm,tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ
thời các Vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng,Bà Triệu,Trần Hưng Đạo,Lê
Lợi,Quang Trung,...

13


- Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô dịch để cả dân tộc chiến đấu và
chiến thắng mọi thiên tai, địch hoạ,làm cho đất nước được trường tồn,bản sắc
dân tộc được giữ vững
Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh
Truyền thống yêu nước
Sinh ra trong một vùng quê có truyền thống yêu nước, ngay từ nhỏ phải tận
mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột đến cùng cực của đồng
bào mất nước đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành đi tìm con đường cứu nước, cứu
dân. Trên hành trình đó, Người đã biết đến chủ nghĩa Mác – Lê-nin và nhận
rõ, cứu nước là sự nghiệp của quần chúng yêu nước được tổ chức và lãnh đạo
bởi đội tiền phong của giai cấp công nhân. Tại sao dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ
Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam lại thay đổi một cách thần kỳ như vậy? Câu hỏi
này đã được chính Người giải đáp: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và

lũ cướp nước”. Vấn đề đặt ra là, nhận thấy lòng yêu nước của mỗi người, rồi “kết
thành một làn sóng” và phát huy tinh thần ấy thành sức mạnh dời non, lấp biển
thì có lẽ chỉ có lãnh tụ Hồ Chí Minh mới làm được, bởi cách đánh giá về lòng
yêu nước rất biện chứng của Người:Yêu nước là thuộc tính chung của người Việt
Nam.Tinh thần yêu nước phải được khơi dậy để thực hiện mục tiêu giành độc lập
tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Yêu nước nồng nàn gắn với tinh
thần quốc tế cao cả.
Nhân nghĩa
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Bác viết năm 1947, đến nay vẫn còn tươi
nguyên giá trị. 5 đức tính “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” Bác đề cập trong tác
14


phẩm là những phẩm chất không thể thiếu của người cán bộ, đảng viên trong bất
kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào.
Trong tác phẩm, Bác dạy: “Nhân” là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ
đồng chí và đồng bào. Theo Bác “nhân” là kiên quyết chống lại những người,
những việc có hại cho Đảng, có hại với dân, sẵn lòng khổ trước mọi người, vui
sau thiên hạ, không ham giàu sang, quyền quý, chức vị, không sợ gian khổ, hy
sinh. "Nhân" còn bao hàm “Tận trung với nước, tận hiếu với dân” nhằm giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân dân, giải phóng con người…
Bác dạy: “Nghĩa” là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy,
không có việc gì phải giấu Đảng, vì theo Bác ngoài lợi ích của Đảng, không có
gì lợi ích cho riêng tư, việc gì Đảng giao phải hết sức cẩn thận, không sợ phê
bình và phê bình người khác phải đúng đắn.
Đoàn kết toàn dân tộc
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chung
chung, trừu tượng mà rất cụ thể, gắn liền với tiến trình đấu tranh giành và bảo vệ
độc lập dân tộc của đất nước. Năm 1941, để trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc, Người đã về nước, chọn Cao Bằng và vùng Việt Bắc

làm căn cứ cách mạng. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây đã hết lòng đùm
bọc, che chở cho Bác Hồ và các cơ quan lãnh đạo của cách mạng.
Năm 1941, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Để tập hợp mọi tầng lớp
nhân dân “có lòng yêu nước, thương nòi”, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên
ngôn, nêu rõ: “Việt Minh coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn
sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc
tế hay quốc gia, miễn là thành thực muốn đánh đuổi Nhật - Pháp để dựng lại một
nước Việt Nam tự do và độc lập”.

15


Với “chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân
biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị,
đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”, Mặt trận Việt Minh
đã tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân xung quanh ngọn cờ “đánh đuổi Nhật,
Pháp”. Đến năm 1942, các tổ chức cứu quốc, thành viên của Mặt trận Việt Minh
đã được thành lập và phát triển ở hầu hết các địa phương trong cả nước, như:
Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu
quốc, Tự vệ Cứu quốc. Năm 1943, Hội Văn hóa Cứu quốc, rồi tiếp đó tháng
6/1944, Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng của giới trí thức yêu nước đã được thành
lập.
Năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Đảng ta đã quyết định thành lập Mặt trận
Dân tộc Thống nhất với nội dung cốt yếu là xây dựng một sự liên minh giữa các
tầng lớp và giai cấp khác nhau của xã hội, hướng tới một chương trình hành
động thống nhất và thiết thực để hình thành một đội ngũ những người có cùng
mục tiêu đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Theo
Bác, cách mạng Việt Nam là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam, do Đảng Cộng

sản Việt Nam lãnh đạo. Để đạt được mục tiêu cuối cùng, Đảng phải tuyên truyền,
giáo dục, vận động, giúp đỡ toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc Thống
nhất, không để sót một lực lượng, một cá nhân yêu nước nào đứng ngoài đoàn
thể nhân dân trong Mặt trận. Trong tư tưởng của Bác, nguyên tắc quan trọng
nhất, bất di bất dịch khi thực hiện đại đoàn kết là nguyên tắc bảo đảm lợi ích tối
cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của toàn dân Việt Nam
.
b) Có lòng khoan dung, độ lượng với con người
Cần phải có lòng khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ
nhất ở mỗi con người . Đồng thời đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta
16


phải dùng tình nhân ái để cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại
đoàn kết tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
Để thực hiện được đoàn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật
thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Người cho rằng, trong mỗi con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều tấm
lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước đó có khi bị bụi bặm che
mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước đó lại bộc lộ
Sáng tạo của Hồ Chí Minh
Trong mỗi cá nhân cũng như cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết
điểm, mặt tối, mặt xấu,...Cho nên, vì lợi ích của cách mạng cần phải có lòng
khoan dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới
có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
Người lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn, ngón dài, nhưng cả năm
ngón đều thuộc một bài tay, để nói lên sự cần thiết phải thựuc hiện đại đoàn kết
dân tộc.
Lòng khoan dung, độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược
nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự kết nối và phát triển truyền thống nhân

ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt
đời theo đuổi.
Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không phân biệt
tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào, hãy cùng
nhau đoàn kết vì nước, vì dân. Mỗi con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều
tấm lòng yêu nước, tấm lòng yêu nước đó có khi bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm
thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước đó lại bộc lộ.
Thực tiễn những tấm gương của Hồ Chí Minh

17


Khoan dung Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương sâu sắc đối với con
người, ở cái nhìn rộng lượng đối với những giá trị khác biệt, ở sự tôn trọng niềm
tin của người khác, không áp đặt ý kiến của mình lên người khác, rất xa lạ với
mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều.
Khoan dung Hồ Chí Minh biểu hiện ở niềm tin của Người vào phần tốt đẹp,
phần thiện trong mỗi con người, dù nhất thời họ có lầm lạc, nhỏ nhen, thấp
kém... Người đã truyền cho chúng ta một cách nhìn lạc quan về con người: “Mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của người cách mạng”. Người tin rằng, với sức cảm hóa của giáo dục, những con
người nhất thời lầm lạc vẫn có thể cải tạo, vươn lên, trở thành có ích cho xã hội,
như Người quan niệm: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà
nên”.
Khoan dung Hồ Chí Minh được xây dựng trên nguyên tắc công lý, chính
nghĩa, tự do, bình đẳng, không chấp nhận thỏa hiệp vô nguyên tắc với tội ác và
bất công xã hội, với tất cả những gì chà đạp lên “quyền sống, quyền tự do và
quyền hạnh phúc” của mỗi con người và mỗi dân tộc. Khi chủ nghĩa thực dân đã
dùng bạo lực của kẻ mạnh đi xâm lược, đàn áp kẻ yếu thì không có cách nào

khác là phải dùng bạo lực cách mạng để giành và giữ lấy chủ quyền, độc lập dân
tộc.
Bởi tư tưởng khoan dung lớn lao ấy nên ngay từ khi về nước lãnh đạo cách
mạng, Người đã thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp, đoàn kết các giai cấp,
tầng lớp nhằm mục đích đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc.
Trong cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, từ tư tưởng khoan dung của
Người đã có hàng loạt các vị quan lại nổi tiếng của triều đình phong kiến đi theo
cách mạng như: Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Đổng lý Ngự tiền Phạm Khắc
Hòe, Tham tri Đặng Văn Hướng, Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Tổng đốc Vi Văn
Định…
18


Sau Cách mạng Tháng Tám, chính Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề mời cả ông
Ngô Đình Diệm tham gia chính phủ. Hãy nhìn Đông Tây kim cổ, khi cách mạng
Pháp nổ ra (1789-1799), vua Louis XVI bị giết.
Cách mạng Nga, Nga hoàng và cả gia đình đều bị giết… Và nhiều, nhiều
cuộc cách mạng khác, mà kết cục thường là đầu rơi, máu chảy. Thế nhưng, Cách
mạng Tháng Tám thành công, vua Bảo Đại thoái vị đã được mời làm cố vấn tối
cao.
c) Phải có niềm tin vào nhân dân
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh
phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao.
Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô
tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền
gốc và chủ thể của Mặt trận.
Sáng tạo của Hồ Chí Minh
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ
Chí Minh đã dạy cán bộ Đảng viên bài học “Nước lấy dân làm gốc”. “Trong
cuộc kháng chiến kiến quốc lực lượng chính là ở dân”. Vì vậy, Người đề ra

“cách làm là dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho
dân”
Tin tưởng vào lực lượng và trí tuệ của nhân dân là một trong những phẩm
chất cơ bản của người cộng sản. Trong hoàn cảnh đất nước càng gian khổ thì lại
càng phải tin vào khả năng cách mạng, tin vào lực lượng quần chúng nhân dân.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, nhà nước Việt Nam non trẻ đứng trước những
thử thách ngàn cân treo sợi tóc. Ngân quỹ quốc gia chỉ vẻn vẹn có hơn 1 triệu
đồng bạc rách, nhưng lại có rất nhiều việc phải chi tiêu, nhiều vấn đề phải giải
quyết. Chỉ còn cách duy nhất là dựa vào dân, tin vào dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
19


đã đề ra phong trào thi đua yêu nước, phát động “Tuần lễ vàng” kêu gọi sự ủng
hộ của nhân dân với chính phủ. Đáp lại niềm tin của Cụ Hồ, chỉ trong một thời
gian ngắn, với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã quyên góp vào nền tài
chính quốc gia được hơn 20 triệu đồng và hơn 370 kg vàng.
Như người xưa từng nói: “Nguy cơ lớn nhất đối với một đất nước là trong
nước có người tài mà không biết, biết mà không dùng, dùng mà không tin”. Để
kêu gọi, nhắn nhủ những người hiền tài ra giúp nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết bài “Tìm người tài đức” đăngbáo Cứu quốc, số 411, ra ngày 20/11/1946.
Người nhấn mạnh: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân
tài. Các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm
được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”.
Chính nhờ tấm lòng rộng mở, đầy khoan dung, được thừa kế từ truyền thống lâu
đời của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho tầng lớp nhân sĩ, trí thức
đem hết công sức của mình vào sự nghiệp cách mạng. Ngay các quan lại cao cấp
trong triều đình Huế, trong chính phủ Trần Trọng Kim, Phan Kế Toại, Phạm
Khắc Hòe,... cũng đã được ánh hào quang từ Người soi rọi, dẫn đường. Cụ Vũ
Đình Hòe đã viết trong Hồi ký :"tôi đã từng nghe bạn bè nói đến Nguyễn Ái
Quốc một cách cung kính, nhưng mãi đến Cách mạng tháng Tám thành công

mới được giáp mặt với Người tức thì bị chinh phục ngay bởi đôi mắt Hồ Chí
Minh". Giáo sư Tôn Thất Tùng cũng đã viết những dòng rất xúc động về Bác Hồ:
"Công ơn Bác với con thật như trời, như bể. Chính Bác là người đã thay đổi đời
con, quyết định cả sự nghiệp khoa học của con. Bác là người cha, người thầy đã
tái sinh và dạy dỗ con"...
Trong bài phát biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Lao
động Việt Nam (tổ chức tại Hà Nội từ 5 – 10 tháng 9 năm 1960), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là
sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã
tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”.
20


Những việc Người tiến hành, những vấn đề Người nêu ra để thực hiện là sự
vận dụng sáng tạo quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và phát
triển nó trong từng giai đoạn của cách mạng

2.3 Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
Là mặt trận dân tộc thống nhất
Đại đoàn kết dân tộc cần biến thành sức mạnh vật chất trở thành lực lượng
vật chất có tổ chức. Tổ chức đó là mặt trận dân tộc thống nhất.
Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu
tranh bảo vệ và xây dựng tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối
vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một
đường lối chính trị đúng đắn.
Mặt trận thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước , nơi tập
hợp mọi con dân nước Việt dù đang sống ở trong hay ngoài nước vẫn một lòng
hướng về quê hương , đất nước , Tổ Quốc.
Tùy theo từng thời kì, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương

lĩnh và điều lệ của mặt trận các dân tộc thống nhất có thể có những nét khác nhau
theo đó tên gọi cũng có thể khác nhau:
- Hội phản đế đồng minh Đông Dương- 1930
- Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương- 7/1936
- Mặt trận dân chủ Đông Dương- 3/1938
- Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương- 11/1939

21


- Mặt trận Việt Minh- 5/1941
- Mặt trận Liên Việt- 3/1951
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam- 1955
- Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam- 12/1960
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam- 1976
Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc
thống nhất
a) Phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc,
có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức ,do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh
Hồ Chí Minh viết : “ Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận thống nhất ” .
Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công – nông có mối quan hệ biện
chứng giữa dân tộc và giai cấp.Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi , sức
mạnh của khối liên minh công nông trí thức càng được tăng cường và ngược lại
Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc ,
vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn tại , phát triển và có hiệu lực trong

thực tiễn.

22


Hồ Chí Minh còn cho rằng ,sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa
mang tính nguyên tắc vừa là tất yếu đồng thời phải có điều kiện đảm bảo cho mặt
trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn.
Để lãnh đạo mặt trận , Đảng phải có chính sách mặt trận đúng đắn , phù
hợp với từng giai đoạn , từng thời kỳ cách mạng , phù hợp với quyền lợi và
nguyện vọng của đại đa số nhân dân .Trong quá trình lãnh đạo , Đảng phải đi
đúng đường lối quần chúng , không được quan liêu , mệnh lệnh và gò ép các
thành viên trong mặt trận; dùng phương pháp vận động ,giáo dục, thuyết phục
,nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hoá, khơi gợi tinh thần tự giác,
tự nguyện. Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự đại , tích cực chủ động ,
làm việc kiên nhẫn , thiết tha với công tác mặt trận .
b) Phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ
bản của các tầng lớp nhân dân
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân,
song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự
thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc những quyền lợi cơ bản của
các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là độc lập tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội... phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ
lịch sử.
c) Phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày
càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân

tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc. tôn giáo khác nhau với
23


nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất phải
theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều
phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi
đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và
ích lợi giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc thống nhất
sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện
được mục tiêu: "Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh". Đồng thời, đó
cũng là cơ sở để mở rộng khối đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào
mặt trận dân tộc thống nhất.
d) Là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ
Mặt trận là tập hợp nhiều tầng lớp, tôn giáo, giai cấp, bên cạnh cái tương
đồng có cái khác biệt. Hiệp thương dân chủ để nhân lên cái tích cực, thu hẹp
khác biệt đi đến thống nhất, đoàn kết.Để giải quyết vấn đề này Hồ Chí Minh
nhấn mạnh :
-

Phương châm “ cầu đồng tồn dị “ - lấy cái chung để hạn chế cái riêng

-

Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết.


-

Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, nhân ái.

-

Phải nêu cao tự phê bình và phê bình

24


II.

CHƯƠNG 2: Sinh viên Đại học thương mại vận dụng tư tưởng đó vào
việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

1 Sinh viên đại học thương mại học tập tấm gương cần kiệm liêm chính
chí công vô tư , đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức tính khiêm
tốn phi thường của Bác Hồ
a) SỰ TIẾT KIỆM, GIẢN DỊ VÀ THANH LIÊM

được thể hiện đậm nét trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của Bác. Ở
cương vị cao nhất của Đảng và Nhà nước nhưng không bao giờ Bác đòi hỏi mình
phải được hưởng đặc quyền, đặc lợi hơn người. Về nơi ở, khi Bác mới về nước là
một hang đá thuộc Pác Bó, Cao Bằng. Sau này, Bác ở nhà riêng nhưng rất đơn
giản. Nhà làm nhỏ, bốn bề với tay được vì tiết kiệm nguyên vật liệu. Đến năm
1954, Chính phủ chuyển về thủ đô Hà Nội, nhiều người đề nghị Bác ở Phủ Toàn
quyền Đông Dương cũ, nhưng Bác đã từ chối và chỉ chọn căn phòng nhỏ đơn sơ
bên ao cá để ở. Mãi đến 1958, Bác mới chuyển về ở ngôi Nhà sàn cho đến 1969.

Chúng ta học được từ câu chuyện nơi Bác Hồ lối sống giản dị, tiết kiệm. Dù ở
địa vị càng cao nhưng Người càng giản dị, trong sạch, cả một đời không xa xỉ, hoang
phí. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái lớn nhằm giảm bớt hao phí.

Khi mà đang ngồi trên ghế nhà trường chưa có công việc chính thức, kéo theo là
bản thân chưa kiếm được nhiều tiền, vật chất, cuộc sống còn phụ thuộc gia đình. Việc
học tập Bác không ở đâu xa mà thể hiện ở ngày những hành động cụ thể, những việc
tốt trong cuộc sống đơn giản từ nhỏ đến lớn như:
+

Tắt bớt một chiếc quạt, một cái đèn khi không cần thiết, nên tận dụng ánh sáng và
gió trời thiên nhiên bằng cách mở rèm cửa sổ.

25


×