A. SƠ YẾU LÝ LỊCH:
- Họ và tên: Phạm Ánh Ngọc
- Ngày tháng năm sinh: 25 tháng 05 năm 1985.
- Năm vào ngành: 10/09/2007
- Chức vụ: Giáo viên.
- Đơn vị công tác: Trường tiểu học Thanh Văn
- Trình độ chuyên môn: Trung cấp sư phạm Âm nhạc.
- Hệ đào tạo: Chính quy.
B - NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
I - TÊN ĐỀ TÀI :
“Một
số giải pháp nâng cao chất lượng môn Âm nhạc cho học
sinh lớp 2”.
II - LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1-Nhận thức về vai trò và nhiệm vụ của viêc dạy môn Âm Nhạc :
Âm nhạc là một trong những nội dung nằm trong chương trình giáo dục
bậc Tiểu học và quan trọng hơn, nó là một ‘‘Phương tiện giáo dục’’ hấp dẫn
mang tính đặc thù. Môn Âm Nhạc nhằm giúp học sinh học tập các môn học khác
đạt được kết quả cao hơn và cũng giúp cho học sinh thoải mái , tự tin, mạnh dạn
trong học tập. Vì là một môn học mang tính đặc thù riêng cho nên để dạy tốt môn
học này trong nhà trường Tiểu học đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ
nghiệp vụ sư phạm cao, người giáo viên phải có những suy nghĩ, sáng tạo, chủ
động tìm tòi những hình thức biện pháp để giảng dạy nội dung các bước sao cho
nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn và mang lại hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cao.
Nhiệm vụ của người giáo viên giảng dạy môn Âm nhạc là giúp cho các em
có thêm một số các bài hát,kỹ năng ca hát, kỹ năng thực hành tập đọc nhạc, giúp
cho các em nâng cao lòng ham thích nghệ thuật Âm nhạc, xây dựng và hình
thành thị hiếu thẩm mỹ Âm nhạc tốt, có thói quen ca hát từ đó tạo nên năng lực
nhạy bén trong quá trình tiếp thu sự phát triển về trí tuệ và tình cảm gần gũi thân
thiện với tất cả mọi người xung quanh.
Mặt khác tìm xem trong học sinh có năng lực về mặt nào nhiều nhất để
điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp cho sự phát triển mạnh với năng lực ấy
của học sinh. Có như vậy mới giúp được tất cả học sinh phát triển được năng lực
của mình đến mức tối đa, đảm bảo cho mọi khả năng của học sinh nắm được
công cụ quan trọng góp phần đào tạo nhân tài ngay từ trong nhà trường phổ
thông.
Vai trò của Âm nhạc đối với đời sống con người từ lâu đã được khẳng định , và
chúng ta những giáo viên Âm nhạc, hơn ai hết nhận thức rõ điều này . Nhưng chỉ
có niềm đam mê thực sự với nghề mới giúp chúng ta đem tình yêu Âm nhạc đến
với học sinh của mình . Niềm đam mê nghề nghiệp chính là “ Tài sản ’’ quý giá
mà mỗi chúng ta ai cũng trau dồi , chăm sóc cho nó trong suốt cuộc đời .
Trong bộ môn Âm nhạc thì phân môn học hát là một phân môn quan
trọng . Bởi ca hát vốn đã là một nhu cầu của con người , ca hát phù hợp với lứa
tuổi thiếu niên nhi đồng , nó còn đem đến cho các em những cảm xúc chân thực
và ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng , tình cảm của các em .
Trong những năm học qua , Trường tiểu học Thanh Văn - Thanh Oai –TP Hà Nội
có nhiều thành tích trong phong trào đổ mới phương pháp giảng dạy , đặc biệt các
tiết dạy Âm nhạc có ứng dụng công nghệ thông tin .
Từ những lí do nêu trên tôi đã chọn đề tài “ Một số giải pháp nâng cao
chất lượng dạy học phân môn hát cho học sinh lớp 2 ”
III - PHẠM VI THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1- Thời gian thực hiện đề tài ( Từ tháng 8 – 2010 đến tháng 4 – 2011 ).
2- Đối tượng nghiên cứu : Học sinh khối lớp 2.
- Địa điểm nghiên cứu :Trường tiểu học Thanh Văn - Thanh Oai – TP Hà Nội .
IV - QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1- Khảo sát thực tế
a. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài .
* Thực trạng việc dạy và học phân môn hát tại trường Tiểu học Thanh Văn.
Bước vào năm học 2010- 2011, trường Tiểu học Thanh Văn thực hiện tốt
chương trình đổi mới giáo dục Âm nhạc và thay sách giáo khoa Âm nhạc bắt đầu
từ lớp 1 kèm theo nâng cấp các phòng học.
- Giáo viên Âm nhạc của trường có lòng nhiệt huyết với nghề, yêu thương học
sinh, nhiệt tình với công việc , có giọng hát truyền cảm, đàn và đệm hát tốt , được
học sinh quí mến.
Tuy vậy , việc dạy và học môn Âm nhạc mà đặc biệt là phân môn học hát vẫn còn
bộc lộ một số tồn tại như sau:
- Từ phía giáo viên
Qua khảo sát thực tế tôi nhận thấy, các bài soạn của giáo viên đã được soạn
trên máy vi tính nhưng nội dung bài soạn vẫn còn sơ sài , chưa đi sâu vào trọng
tâm của bài giảng. Ứng dụng CNTT vào bài giảng còn hạn chế, vận dụng các
phương pháp giáo dục mới bằng CNTT cũng hạn chế, nên công tác chuyên môn
phải được đặt lên hàng đầu.
- Toàn trường có 293 học sinh , trong đó học sinh lớp 2 là 56 em .
- Đội ngũ giáo viên là 33 đồng chí . Giáo viên Âm nhạc là 2 đồng chí.
- Cơ sở vật chất của nhà trường gồm có 10 phòng học chính , không có phòng
học Âm nhạc( phòng bộ môn ) có 2 đàn phím điện tử không có đài và đầu video.
Dụng cụ học tập của học sinh chưa đầu đủ, còn thiếu sách giáo khoa và một số đồ
dùng khác.
- Từ phía học sinh.
Hạn chế lớn nhất của học sinh là thói quen thụ động trong quá trình học
tập, trong giờ học Âm nhạc cụ thể là phân môn học hát , các em chưa chủ động
tìm hiêủ bài mà chỉ trông chờ vào giáo viên để hát lại một cách máy móc. Đối với
các kí hiệu Âm nhạc ghi trên bài hát thì các em tỏ ra lúng túng trong việc ghi nhớ.
Mặc dù học sinh rất thích văn nghệ, thích nhạc, nhưng cái khó khăn đối với giáo
viên là nơi có nhiều ngôn ngữ địa phương, phát âm còn ngọng l và n .
Trong giờ học hát, có nhiều em học sinh đặc biệt là các em học sinh ở nông
thôn còn rụt rè, nhút nhát không chủ động xây dựng bài. Bên cạnh đó, giờ học hát
còn tẻ nhạt không thu hút được các em, học sinh chỉ thích giờ học hát vì sẽ được
ra chơi sớm.
Khả năng đọc của nhiều học sinh lớp 2 còn kém nên ảnh hưởng rất lớn tới
quá trình giảng dạy của giáo viên cũng như sự tiếp thu của học sinh.
- Từ phía nhà trường.
Do nhận thức của lãnh đạo nhà trường đối với ý nghĩa và vai trò của việc
giáo dục Âm nhạc và đặc biệt phân môn học hát trong nhà trường phổ thông còn
hạn chế chưa có sự đầu tư thích đáng về nguồn nhân lực và cơ sở vật chất cho
môn học này.
Một điều không thể không nhắc đến đó là Trường tiểu học Thanh Văn
không có phòng học bộ môn Âm nhạc riêng, chưa có nhiều thiết bị phục vụ dạy
môn Âm nhạc như tranh ảnh minh hoạ cho bài hát, bảng phụ , đài đĩa. Có nhiều
tiết học hát không có đồ dùng, tranh ảnh minh hoạ nên dẫn đến hiệu quả giờ dạy
chưa cao.
Mặt khác, do chương trình đào tạo hiện nay, các em phải học quá nhiều
môn học nên không có thời gian để ôn tập bài hát dẫn đến tình trạng tiết học tiếp
theo không đạt chất lượng yêu cầu. Hơn nữa, do nhận thức xã hội nhiều phụ
huynh học sinh thậm chí có cả giáo viên vẫn cho rằng , Âm nhạc chỉ là môn học
phụ nên chưa định hướng cho các em học tốt môn học này.
c. Các số liệu điều tra khảo sát .
Để đưa ra nhận định một cách chính xác nhất về chất lượng học hát ở học
sinh lớp 2. Đồng thời làm cơ sở cho việc đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức
phân môn học hát của các em, giúp giáo viên dạy Âm nhạc của trường có biện
pháp dạy thích hợp nhất với học sinh của mình, tôi đã tiến hành điều tra , khảo sát
toàn bộ học sinh lớp 2 của trường , để việc điều tra được khách quan , tôi cũng
chọn ngẫu nhiên 3 nhóm học sinh của mỗi lớp , mỗi nhóm 10 em học sinh của
lớp 2 để điều tra. Kết quả tôi xin đưa ra như sau :
* Kết quả điều tra về mức độ yêu thích phân môn học hát của học sinh khối lớp 2
trường Tiểu học Thanh Văn.
Nhóm 1
Tên
Số lượng học sinh
lớp
SLHS
23
25
15
2A
2B
2C
%
100
100
100
Học hát
SLHS
14
17
11
%
62
67
71
Kể chuyện âm nhạc
SLHS
5
10
3
%
20
40
20
2 – Những biện pháp thực hiện đề tài
Biện pháp 1 : Đổi mới phương pháp dạy
Phương pháp dạy là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong toàn
bộ quá trình giảng dạy . Đối với một người giáo viên giỏi về chuyên môn chưa
đủ mà còn cần phương pháp giảng dạy . Nếu phương pháp giảng dạy còn hạn chế
kiến thức mà người giáo viên truyền đạt cho người học sinh sẽ trở nên khó khăn
và nặng nề với các em . Ngược lại nếu người thầy có phương pháp hướng dẫn
học sinh tốt thì các em sẽ cảm thấy tiếp thu kiến thức một cách hết sức nhẹ nhàng
. Chính vì vậy, người giáo viên muốn khẳng định vị trí , vai trò của mình trong
sự nghiệp thì bản thân phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học. Quan
trọng hơn nữa đó là phần chuẩn bị soạn giáo án, đồ dùng dạy học của giáo viên
trước khi lên lớp.
TIẾT 2
HỌC BÀI : Thật
là hay
Nhạc và lời: Hoàng Lân
I. Mục tiêu:
- Biết hát theo giai điệu, lời ca.
- Biết hát kết hợp vỗ tay hoặc gõ đệm theo bài hát, theo phách.
- Biết tác giả bài hát là nhạc sĩ Hoàng Lân
II.Chuẩn bị:
1.Giáo viên: Nhạc cụ quen dùng, tranh ảnh minh hoạ, băng đĩa bài hát.
2.Học sinh: SGK, vở ghi, dụng cụ gõ đệm
III.Hoạt động dạy học
1. Ổn định tổ chức : Kiểm tra sĩ số, nhắc nhở tư thế ngồi của HS
2. Kiểm tra bài cũ : Cho lớp ôn lại 1,2 bài hát lớp 1.
3. Bài mới :
Nội dung
HĐ của GV
Hoạt động 1 :
A. Giới thiệu bài - Giới thiệu bài hát, tác giả,
nội dung bài hát
B. Hát mẫu
- Hát mẫu hoặc bật băng đĩa
bài hát cho HS nghe
C. Đọc lời ca
- Hướng dẫn HS đọc lời ca:
+ Đọc mẫu lời ca kết hợp
với tiết tấu.
+ Cho HS đọc lời ca kết
hợp tiết tấu.
HĐ của HS
- Ngồi ngay ngắn, chú ý nghe
- Nghe hát mẫu
- Tập đọc lời ca theo hướng dẫn
của GV
+ Lắng nghe
+ Đọc lời ca kết hợp tiết tấu.
D. Khởi động
giọng:
E. Dạy hát theo
lối móc xích
Hoạt động 2:
- Đàn chuỗi âm giọng C dur
cho HS la bằng âm “la”
- Thực hiện khởi động giọng
theo đàn
- Dạy hát từng câu, mỗi câu - Cả lớp thực hiện học hát
cho HS hát 2,3 lần
+ Nhắc HS ngắt nghỉ lấy hơi + Chú ý tư thế ngồi ngay ngắn.
đúng chỗ.
- Thực hiện theo hướng dẫn của
+ Sau khi tập xong bài hát
GV
cho HS hát lại nhiều lần để
+ Hát đồng thanh
thuộc lời và giai điệu.
+ Hát theo dãy
+ Cá nhân
+ Nhận xét, sửa sai
+ Lắng nghe, sửa sai
- Hướng dẫn HS hát kết hợp - HS Hát kết hợp vỗ tay hoặc sử
gõ đệm theo phách.
dụng nhạc cụ gõ đệm: Song
loan, thanh phách, trống.
- Hướng dẫn HS hát kết hợp - Từng tốp đứng hát theo hướng
vận động
dẫn của GV.
4. Củng cố, dặn dò:
a.Củng cố:
- Nhận xét chung, nhắc nhở những em chưa tập trung giờ sau cố gắng,
khen ngợi những em học tốt
b. Dặn dò :
- Nhắc nhở HS ghi nhớ giai điệu, lời ca và cách gõ đệm bài hát.
- Tập lại những động tác phụ hoạ
* Sau đây tôi xin đưa ra phương pháp thực hành thể hiện những bài hát:
Các bài hát của học sinh Tiểu học được biên soạn khá phong phú và đa
dạng, mỗi loại mang một đặc trưng nhất định liên quan đến yếu tố diễn tả Âm
nhạc. Có những bài hát mang tính chất êm dịu, nhẹ nhàng với giai điệu mênh
mang, dàn trải. Có những bài hát mang khí thế mạnh mẽ, hùng mạnh. Lại có
những bài hát sôi nổi, hóm hỉnh, vui nhộn.
- Các bài hát đó được phân chia chủ yếu ở các thể loại:
+ Bài hát hành khúc.
+ Bài hát trữ tình.
+ Bài hát nhanh vui.
Để thể hiện bài hát có chất lượng, có tình cảm phù hợp với nội dung tư
tưởng, phong cách nghệ thuật của tác phẩm, người giáo viên cần phân biệt đặc
điểm của từng thể loại có phương pháp riêng phù hợp với từng thể loại đó.
* Thể hiện bài hát hành khúc:
- Đây là loại bài hát có đặc điểm chung và ô nhịp vừa phải, hợp với bước đi khoẻ
khoắn, rắn rỏi.
- Ở lớp 2, các em được làm quen với thể loại này qua 1 bài hát : Chiến sĩ tí hon Nhạc Đinh Nhu, lời: Việt Anh.
- Được sắp xếp theo phân phối chương trình – tiết 13, trang 14 trong sách Âm
nhạc 2.
- Giáo viên cần dạy học sinh thể hiện đúng tính chất bài hát này nhưng cũng
không quá dập khuôn, cứng nhắc.
- Khi dạy bài hát này , giáo viên hướng dẫn học sinh hát thể hiện tình cảm rắn rỏi
đặc biệt tiết tấu, nhịp, và tư thế đứng vững chắc, có thể vừa hát vừa đánh nhịp
nhẹ nhàng.
- Các động tác phụ hoạ cho bài hát cũng phải đơn giản phù hợp với lứa tuổi cũng
như tính chất hành khúc. Động tác phải phù hợp với thể lực của học sinh tránh
các động tác quá mạnh mẽ, nặng nề, và khó thực hiện.
*Thể hiện bài hát trữ tình.
- Bài hát trữ tình điển hình ở giai điệu mượt mà, du dương, êm ái, sâu lắng.
- Khi dạy những bài hát mang tính chất trữ tình giáo viên nhắc các em thể hiện
đúng tính chất của bài hát.
*Thể hiện bài hát vui, linh hoạt;
- Các bài hát vui, linh hoạt, giai điệu thường có tính chất vui vẻ, rộn ràng, hài
hước , dí dỏm, châm biếm, có khi mô tả tiếng người và tiếng chim hót.
Những bài hát vui thường có tốc độ nhanh, thể hiện sự náo nhiệt, sôi nổi bằng âm
thanh trong sáng, gọn gàng, trôi chảy.
Chương trình lớp 2 có 11 bài hát ở dạng này, đó là những bài hát sau:
Thật là hay –nhạc và lời : Hoàng Lân.
Xoè hoa – Dân ca Thái ; lời mới: Phan Duy.
Múa vui- Nhạc và lời : Lưu Hữu Phước.
Chúc mừng sinh nhật- Nhạc Anh; lời mới: Đào Ngọc Dung.
Cộc cách tùng cheng- Nhạc và lời: Phan Trần Bảng.
Trên con đường đến trường- Nhạc và lời: Ngô Mạnh Thu.
Hoa lá mùa xuân- Nhạcvà lời : Hoàng Hà.
Chú chim nhỏ dễ thương- Nhạc Pháp; lời: Hoàng Anh.
Chim chích bông- Nhạc: Văn Dung; lời: Thơ Nguyễn Viết Bình.
Chú ếch con- Nhạc và lời: Phan Nhân.
Bắc kim thang- Dân ca Nam Bộ.
- Khi dạy những bài hát ở thể loại này giáo viên nhắc học sinh thể hiện vui tươi,
nhanh , náo nhiệt , sôi nổi , trong sáng.
Tiểu kết :
Nhận thức được biện pháp này là hết sức quan trọng trong cả một quá trình
giảng dạy, và trong suốt cả sự nghiệp giáo dục của mình. Vì vậy tôi đã thực hiện
và chọn sử dụng biện pháp này.
Biện pháp 2 : Phương pháp luyện thanh
Để giọng hát hay, truyền cảm cần phải thường xuyên luyện giọng . Trước
tiên cần làm quen với luyện thanh . Luyện thanh là hát giai điệu với một hoặc
một số mẫu âm nhất định hoặc hát một bài hát đã học . Luyện thanh giúp cho
giọng hát được đều, trôi chảy, rõ ràng, âm sắc âm lượng thống nhất ở tất cả các
âm khu của giọng .
* Một số mẫu luyện thanh thường dùng:
Các mẫu âm trong quãng 3.
- Bài tập số 1:
- Bài tập số 2:
- Bài tập số 3:
Các mẫu âm trong quãng 5.
- Bài tập số 1:
- Bài tập số 2:
Tiểu kết :
Khởi động giọng là một phương pháp khởi động ban đầu để chuẩn bị cho
giờ học hát. Nó làm cho giọng của người hát mở ra và giọng hát được sáng, trong
trẻo, những câu hát khó và cao có thể người hát có thể thược hiện được .
Những kiến thức chung về ca hát rất cần thiết cho mỗi giáo viên âm nhạc
đang trực tiếp giảng dạy bộ môm Âm nhạc vì vậy tôi đã thực hiện và chọn biện
pháp này.
Biện pháp 3 : Phương pháp trực quan
Đây là phương pháp tạo hiệu quả cao nhất cả về nội dung và hình thức .
Nhà sư phạm người Nga A.H.Leonchiepo đã chỉ ra rằng: “ Bản chất tâm lí của
trực quan trong giảng dạy là tạo chỗ dựa bên ngoài để hỗ trợ, tác động tiềm thức
bên trong của các em dưới sự chỉ đạo của thầy trong quá trình thu nhập kiến
thức” Điều này đủ để ta thấy tác dụng to lớn của phương pháp dạy trực quan. Các
đồ dùng mà ta thường hay sử dụng để áp dụng trong phương pháp này là : Đàn
phím điện tử, đài catsset hoặc đầu video….mục đích của việc sử dụng các giáo cụ
trực quan là tạo nên các âm thanh, hình ảnh trực tiếp, tác động vào quá trình tiếp
thu kiến thức của học sinh, giúp các em nhận thức về môn học nhẹ nhàng và đơn
giản hơn nhưng cũng không kém phần logic và hiệu quả.
Thông thường trong giờ học hát, chúng ta thường áp dụng phương pháp
truyền thống là : Giáo viên hát mẫu sau đó dạy từng câu theo lối móc xích cho
đến khi hết bài. Điều này đôi khi làm cho các em thấy nhàm chán. Vì vậy phải
cho học sinh xem băng hình trong và ngoài giờ học vì biện pháp này nhằm mục
đích gợi sự hào hứng cho học sinh, làm cho các em thích hát và thích hát được
hay như các bạn, đồng thời còn làm cho các em diễn xuất tốt hơn. Sau khi các em
học xong bài hát, giúp các em sáng tạo cho mình phong cách biểu diễn tốt, vận
dụng các động tác phụ hoạ linh hoạt và tự tin trước đám đông hơn.
Tiểu kết :
Biện pháp này tạo cho học sinh sự hứng thú và kích thích tính sáng tạo
cho các em vì vậy phương pháp trực quan không thể thiếu trong công tác giảng
dạy bộ môn Âm nhạc nói chung và các bộ môn học khác nói riêng.Vì vậy tôi đã
áp dụng và thực hiện biện pháp này trong quá trình giảng dạy của mình.
Biện pháp 4 : Giảng dạy – hệ thống liên tục
Đây là một trong 8 nguyên tắc dạy học của nhiều nhà giáo dục vĩ đại đóng
góp như Kô- men-xki, Pia-giê và nhiều nhà giáo dục khác.
Những kiến thức mà người giáo viên truyền đạt cho học sinh là một loạt
những kiến thức khác nhau nhưng phải đảm bảo sự xâu chuỗi một cách hệ thống.
Dạy học cái gì trước cái gì sau, cái dễ đến cái khó, cái đơn giản đến cái phức tạp,
cái đã biết đến cái chưa biết…. Như vậy, mới tránh lộn xộn, làm cho học sinh tiếp
thu kiến thức dễ dàng hơn.
Tiểu kết :
Biện pháp này là sự logic giữa các câu hát với nhau thành một bài hát hoàn
chỉnh. Vì vậy tôi đã chọn và sử dụng biện pháp này .
Biện pháp 5 : Đảm bảo tính vừa sức , phù hợp với từng trình độ học sinh.
Với kiến thức của người có chuyên môn( ở đây là người thầy ), thường
phong phú gấp bội so với trình độ của học sinh. Đó là điều tất nhiên, nhưng khi
lên lớp nhiều người lại dồn hết những kiến thức của mình vào bài giảng, cố nhồi
nhét cho học sinh đầy ắp cả những điều học sinh cần phải hiểu, phải biết. Điều đó
dẫn đến sự qúa tải không phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.
Cơ sở của sự “ Vừa sức” phải căn cứ vào thực tế của nhà trường, ở đây tôi
đề cập đến chính là Trường Tiểu học Thanh Văn . Nơi mà phần đa số học sinh là
con em nông thôn và gia đình buôn bán. Chưa được quan tâm đầu tư của gia
đình nhiều việc học hành và tham gia các chương trình sinh hoạt văn hoá, văn
nghệ . Chính vì vậy cũng không thể đòi hỏi quá cao ở sự tiếp thu của các em, tuy
nhiên cũng không nên hạ thấp yêu cầu của bài dạy. Vấn đề này hoàn toàn phụ
thuộc vào người thầy giáo.
Tiểu kết :
Biện pháp này có quan hệ mật thiết với việc đảm bảo tính khoa học và đánh
giá học sinh nhằm động viên, khích lệ mọi khả năng và trình độ học sinh trong
lớp cùng tiếp thu bài giảng một cách hứng khởi. Vì vậy tôi đã sử dụng ,và chọn
biện pháp này.
Biện pháp 6 : Phát huy tích cực - độc đáo sáng tạo của học sinh.
Muốn làm được điều này giáo viên phải quan tâm đến hứng thú của học sinh
và tìm cách gây hứng thú cho các em trong các giờ học. Quan hệ của thầy và trò
phải thực sự cởi mở. Nói cách khác là phải hấp dẫn, thu hút được học sinh vào
bài giảng . Đó là nghệ thuật sư phạm vô cùng tế nhị trong đó có cả việc động
viên, khen chê kịp thời….
Trong những năm gần đây, tư tưởng “ Dạy học tích cực ” hay còn gọi là
“ Tích cực hoạt động dạy học ” là một chủ trương quan trọng của ngành giáo dục
nước ta, trong đó người thầy giữ vai trò chủ đạo và học sinh chủ động trong việc
tiếp thu kiến thức, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển việc tiếp
nhận , chiếm lĩnh bài học của học sinh .
Như vậy “ Sự khéo léo ứng xử về sư phạm chính là biện pháp hữu hiệu đầu
tiên để đưa các em đến với Âm nhạc”. Đúng như K.D.Vsinxki nói “ Sự khéo léo
đối xử sư phạm , nếu không có nó thì giáo dục có nghiên cứu lý luận giáo dục
đến mức nào cũng không bao giờ trở thành nhà thực hành giáo dục tốt, về bản
chất thì không phải cái gì khác là sự khéo léo đối xử về tâm lý …”
Tiểu kết : Tôi tin tưởng biện pháp trên sẽ góp phần phát huy cao độ khả năng
sáng tạo và hoạt động tích cực của học sinh.
V.KẾT QỦA SO SÁNH ĐỐI CHỨNG.
1- Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài :
Tên
Số lượng học sinh
lớp
SLHS
23
25
15
2A
2B
2C
%
100
100
100
Học hát
SLHS
14
17
11
Kể chuyện âm nhạc
%
62
67
71
SLHS
5
10
3
%
20
40
20
- Số liệu điều tra sau khi thực hiện đề tài :
Tên
Số lượng học sinh
lớp
SLHS
23
25
15
2A
2B
2C
%
100
100
100
Học hát
SLHS
16
20
13
%
70
80
85
Kể chuyện âm nhạc
SLHS
6
11
4
%
25
42
24
Sau khi thực hiện và sử dụng các biện pháp trong “ Một số giải pháp nâng
cao chất lượng dạy học phân môn hát cho học sinh lớp 2 ” tôi thấy đây là một
thuận lợi đáng kể đối với việc giảng dạy phân môn này. Từ những số liệu khảo
sát điều tra trước và sau thực hiện đề tài cho chúng ta thấy : Việc mức độ học sinh
yêu thích phân môn học hát đã cao hơn so với trước khi thực hiện đề tài. Đây có
thể coi là một thuận lợi đáng kể đối với việc giảng dạy môn học này, từ những
biện pháp thực hiện cũng có những sai xót trong công tác giảng dạy theo phương
pháp truyền thống dẫn đến kết quả thu được sẽ không cao. Giáo viên Âm nhạc
cần nắm được đặc điểm này, để biết cách lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với
từng nhóm học sinh để được kết quả như mong muốn.
Những hệ quả của việc sử dụng đề tài này mang lại giúp các em có hứng
thú khi học hát không nhàm chán khi học hát, từ đó làm cho các em tự tin hơn khi
trình bày một ca khúc hay một tác phẩm Âm nhạc nào đó. Đặc biệt hơn giúp các
em tự tin trong giao tiếp, trong sinh hoạt hàng ngày. Chính vì vậy để nâng cao
chất lượng đào tạo của phân môn này, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp dạy
học phân môn học hát cho học sinh lớp 2 cho bản thân mình đang trực tiếp giảng
dạy môn Âm nhạc.
2- Bài học kinh nghiệm
Sau khi thực hiện đề tài tôi đã nghiên cứu và đưa ra 6 biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy học phân môn học hát. Những biện pháp nghiên cứu của tôi
có thể chưa áp dụng rộng rãi trong công tác giảng dạy bộ môn Âm nhạc nói
chung và phân môn học hát nói riêng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện và viết
sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi nhầm lẫn.Vậy rất mong được sự
quan tâm giúp đỡ của hội đồng khoa học các cấp đóng góp ý kiến cho tôi để xây
dựng bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi thêm hoàn chỉnh hơn .
Qua một số năm công tác với việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
trong việc giảng dạy tôi nhận thấy muốn nâng cao chất lượng môn học Âm nhạc
nói chung và phân môn học hát nói riêng, đặc biệt hơn muốn có học sinh hát hay,
giỏi Âm nhạc thì người giáo viên cần thường xuyên trau dồi kiến thức và luôn đổi
mới các hình thức dạy trong một tiết học để tạo niềm tin hứng thú khả năng mạnh
dạn tự tin, khuyến khích những em có năng khiếu, động viên và quan tâm những
em có năng khiếu hạn chế, học sinh phải được luyện tập và thực hành nhiều đồng
thời kết hợp với việc phát huy khả năng và sở trường cuả học sinh thì sẽ nâng
cao được các yêu cầu đặt ra của các phân môn Âm nhạc.
VI - Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
1.Đối với phòng giáo dục:
- Các cấp lãnh đạo thường xuyên tổ chức các phong trào văn nghệ.
- Phòng giáo dục cần mở nhiều các chuyên đề âm nhạc cho học sinh và giáo viên
để tôi và đồng nghiệp tiếp tục được học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn. Đồng
thời có những buổi cập nhật công nghệ thông tin ứng dụng vào giảng dạy nói
chung và ứng dụng vào giảng dạy bộ môn âm nhạc nói riêng.
- Phòng giáo dục cũng cần mở thêm nhiều chuyên đề hướng dẫn giáo viên tiếp
cận sử dụng các nhạc cụ trong nhà trường và nâng cao khả năng sử dụng các phụ
kiện âm thanh phục vụ cho âm nhạc cũng như các hoạt động tập thể trong nhà
trường.
- Đẩy mạnh hoạt động đội trong các nhà trường.
- Cấp thêm kinh phí và các trang thiết bị âm thanh, các nhạc cụ âm nhạc tạo điều
kiện cho giáo viên nâng cao khả năng sử dụng, sử lí âm thanh cho các hoạt động
của nhà trường.
2. Đối với nhà trường:
- Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tổ chức những buổi ngoại khoá âm
nhạc cũng như tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho
việc giảng dạy để có những giờ học đạt được chất lượng chuyên môn tốt nhất.
Trong năm học tới 2010-2011 tôi mong được đi dự giờ nhiều hơn các tiết dạy của
những giáo viên giỏi cấp huyện, thành phố để từ đó học tập, trau dồi những kĩ
năng, kĩ xảo vận dụng cho bản thân mình .
- Đề nghị nhà trường đặt 1 phòng bộ môn Âm nhạc và bổ xung một số trang thiết
bị như : đầu video, tranh ảnh minh hoạ , đài đĩa , bảng phụ có sẵn khuông nhạc
3. Tác dụng của đề tài:
Qua quá trình thực hiện đề tài tôi thấy có tác dụng rất lớn, thúc đẩy phong
trào giáo dục, phong trào của Đội, phong trào của địa phương. Đối với học sinh
các em có thêm những sân chơi bổ ích, phát triển cả trí tuệ và trí lực.
VII - KẾT LUẬN
Như chúng ta thấy Âm nhạc là một môn không thể thiếu trong hệ thống
giáo dục bậc tiểu học là một môn học mang tính đặc thù riêng. Đối với lứa tuổi
của các em ca hát là một hoạt động hấp dẫn , những bài hát đa dạng, phong phú
mang ý nghĩa giáo dục nó sẽ bổ xung vốn sống cho các em và là phương tiện để
các em tự giáo dục mình. Vì vậy để đáp ứng được yêu cầu ngày một nâng cao
hơn của nghành giáo dục tôi nhận thấy mỗi người giáo viên phải tự mình trau dồi
học hỏi thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm để không làm cho học sinh sự nhàm
chán khi học bộ môn của mình. Học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp bạn
để đưa phong trào bề nổi của nhà trường ngày càng phát triển đi lên.
Nhận thức được tầm quan trọng của Âm nhạc, Đảng và nhà nước ta đã thể
hiện quan điểm đó qua các kỳ Đại hội VII , VIII , IX : “ Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội ” mà nhìn ở góc độ nào Âm nhạc cũng là văn hoá.
Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa Âm nhạc vào chương trình học tập của học
sinh Tiểu học là hoàn toàn phù hợp với đường lối chiến lược phát triển con người
của Đảng và nhà nước ta. Trong bộ môn Âm nhạc thì phân môn học hát là một
phân môn quan trọng, bởi ca hát vốn đã là một nhu cầu của con người , ca hát
phù hợp với lứa tuổi thiếu niên,noa còn đem đến cho các em những cảm xúcchân
thực và ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm của các em.
Qua những năm khó khăn, hiện nay cơ sở vật chất và trình độ giáo viên của
nhà trường đã ngày càng được nâng cao, đưa chất lượng giảng dạy của nhà
trường nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên , nhận xét một cách tổng thể, với mức độ yêu
cầu của môn học thì kết quả này mới chỉ là thành công ban đầu. Qua khảo sát
thực tế , do giáo viên trẻ mới ra trường chưa có kinh nghiệm giảng dạy bộ môn
Âm nhạc dẫn tới chất lượng giờ học hát vẫn còn nhiều bất cập , các giờ học chưa
thật sự hiệu quả, phải đảm đương lượng công việc khá nhiều nên giáo viên không
còn nhiều thời gian để tìm tòi , nghiên cứu , sáng tạo những biện pháp, phương
pháp nâng cao chất lượng giảng dạy.
Xuất phát từ những thực tiễn đó, bản sáng kiến của tôi không chỉ phát hiện
những khó khăn trở ngại của giáo viên và học sinh lớp 2 Trường tiểu học Thanh
Văn. Trong việc giảng dạy và học tập phân môn học hát mà còn đề xuất một số
giải pháp để khắc phục những khó khăn trên nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học
phân môn học hát , góp phần nhỏ vào việc hình thành và phát triển nhân cách học
sinh, thay đổi nhận thức của học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh về bộ
môn Âm nhạc nói chung và phân môn học hát nói riêng.
Vì điều kiện thời gian có hạn và giới hạn phạm vi của đề tài cùng với năng lực
hạn chế của bản thân, những vấn đề đã nói ở trên chắc chắn không thể giải quyết
một cách đầy đủ và thoả đáng, đồng thời khó có thể tránh khỏi những thiếu sót.
Bởi vậy, tôi mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học nhà
trường , hội đồng khoa học của phòng giáo dục, các bạn bè đồng nghiệp , nhất là
những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Âm nhạc ở các trường trong
huyện , để tôi có thể hoàn thiện hơn bản sáng kiến này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Văn, ngày 10 tháng 04 năm 2011
NGƯỜI VIẾT
Phạm Ánh Ngọc
VIII. Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CƠ SỞ:
..................................................................................................................................
.
..................................................................................................................................
.
..................................................................................................................................
.
..................................................................................................................................
.
..................................................................................................................................
.
..................................................................................................................................
.
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.....CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(Ký tên, đóng dấu)