Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương (CPTPP) cùng những cơ hội và thách thức của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.65 KB, 27 trang )

I.

GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ

XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)
1.

Lịch sử kí kết và các bên tham gia đàm phán:
Việc CPTPP được kí kết được cho là mở ra một chương mới cho thương

mại toàn cầu.Tuy nhiên, chặng đường đi đến việc kí kết này không hề dễ dàng.
Khởi điểm từ việc đàm phán kí kết TPP: Tháng 06/2005, Hiệp định đối
tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (P4) giữa 4 nước: Singapore, Chile,
New Zealand, Brunei được ký kết và có hiệu lực vào tháng 05/2006; đến
tháng 09 và tháng 11 năm 2008, Mỹ rồi tới Australia, Peru thông báo tham gia
đàm phán P4 mở rộng, Việt Nam cũng bày tỏ sự quan tâm và từ đó P4 được
đặt lại tên thành Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); đến tháng
3/2010, vòng đàm phán TPP đầu tiên được tổ chức tại Melbourn (Australia)
với sự tham gia của P4, Hoa Kỳ, Australia, Peru, lần 2 vào tháng 06 được tiếp
tục đàm phán ở Hoa Kì và lần 3 tổ chức ở Brunei tháng 10 với sự tham gia
mới của Malaysia; đến tháng 11, Việt Nam tuyên bố tham gia đàm phán với tư
cách thành viên đầy đủ. Sau 4 lần đàm phán tại các quốc gia khác nhau vào
năm 2011, trong 2 năm tiếp theo đó, Mexico, Canada rồi Nhật Bản tham gia
nâng số thành viên của TPP lên 12. Đến tháng 05/2015, Sơ bộ TPP cấp bộ
trưởng được hoàn tất và đến tháng 02/2016 chính thức được kí kết tại New
Zealand.
Tuy nhiên sau khi lên nắm quyền, tháng 01/2017, Tổng thống Mỹ Donald
Trump đã ký lệnh rút Mỹ ra khỏi TPP, vì vậy vào tháng 05/2017, 11 nước
thành viên còn lại quyết định tái khởi động TPP và đến tháng 11/2017, 11
nước thống nhất đổi tên TPP thành CPTPP – Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Tháng 01/2018, CPTPP hoàn tất đàm phán,


dự kiến ký vào 08/03/2018 và đúng ngày đó được kí kết tại Chile.
1


2.

Tính chất Hiệp định
Về mức độ “tự do hóa” – thước đo để phân biệt Hiệp định thương mai tự

do với các Hiệp định thông thường, CPTPP là một hiệp định có những cam kết
mang tính toàn diện, tiêu chuẩn cao và cân bằng, không chỉ đề cập tới các lĩnh
vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường
dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại,… mà còn
xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm
của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước,…
Ngoài ra, Hiệp định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh
bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và
chặt chẽ. Riêng về mở cửa thị trường, các nước tham gia Hiệp định đồng ý
xóa bỏ cho nhau gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình; tự do hóa dịch
vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý
của Nhà nước; từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp và lợi ích
mới cho người tiêu dùng của các nước thành viên.
3.

Tình hình đàm phán
Chưa Hiệp định thương mại tự do nào lại có "số phận" khó

đoán định như TPP (nay là CPTPP) khi đã trải qua tới 7 năm với
hơn 40 vòng đàm phán.
- Tháng 2 năm 2016, tại Auckland, New Zealand, TPP được ký

kết.
- Tuy nhiên, chưa đầy 1 năm sau,Tổng thống Donald Trump bất
ngờ tuyên bố Mỹ - nền kinh tế lớn nhất TPP - tuyên bố rút khỏi hiệp
định.
2


- 11 quốc gia còn lại, nhất là Việt Nam và Nhật Bản quyết tâm
tiến tới TPP-11.
Riêng trong Tuần lễ Cấp cao APEC tổ chức tại Đà Nẵng vào
tháng 11/2017, đã có ít nhất 8 vòng đàm phán cả cấp trưởng đoàn và
Bộ trưởng diễn ra. Nhiều cuộc đàm phán kéo dài xuyên trưa, từ chiều
tới nửa đêm mà chưa đạt kết quả cuối cùng.Cũng tại Đà Nẵng, Thủ
tướng Canada Justin Trudeau bất ngờ không tới dự cuộc họp của các
nhà lãnh đạo TPP.
Trong khó khăn, hiệp định đã chứng kiến nỗ lực và quyết tâm
chưa từng có của hai đồng chủ trì đàm phán là Nhật Bản và Việt Nam
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ
tướng Shinzo Abe. Kết thúc Tuần lễ cấp cao APEC 2017, CPTPP đã
được các bên thống nhất cao.
- Ngày 11/11/2017, Bộ trưởng của 11 nước thành viên TPP còn
lại tuyên bố đạt được thỏa thuận mới với tên gọi là Hiệp định Đối tác
Tiến bộ và Toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
- Ngày 23/1/2018, tại Tokyo (Nhật Bản), 11 nước tham gia đàm
phán CPTPP đã nhất trí nội dung sửa đổi hiệp định này.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định
TPP (gồm 30 chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành

3



viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ để bảo đảm sự cân bằng về quyền
lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút
khỏi Hiệp định TPP.
- Ngày 21/2/2018, Công bố toàn văn CPTPP.
- Ngày 8/3/2018 (tức ngày 9/3/2018 giờ Việt Nam), Hiệp định
CPTPP đã chính thức được ký kết tại Santiago, Chile với sự tham gia
của 11 nước thành viên sáng lập gồm Australia, Brunei, Canada,
Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Singapore, New Zealand, Peru
và Việt Nam.
- Ngày 30/12/2018, Hiệp định CPTPP đã bắt đầu chính thức có
hiệu lực với Australia, Canada, Nhật Bản, Mexico, New Zealand và
Singapore - 6 quốc gia đầu tiên thông qua CPTPP .
Đối với Việt Nam, ngày 12/11/2018, tại Kỳ họp thứ VI Quốc hội
khóa XIV, với 100% các vị đại biểu Quốc hội có mặt biểu quyết tán
thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Hiệp
định CPTPP cùng các văn kiện liên quan.
4.

Phạm vi đàm phán
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định

TPP nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa
vụ (gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ

4


liên quan đến chương Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại
liên quan tới 7 chương là Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi Thương

mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính,
Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng) để
bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành
viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP.
Mặc dù không còn Hoa Kỳ nhưng Hiệp định CPTPP vẫn được
coi là Hiệp định thương mại tự do lớn nhất được kết thúc đàm phán
trong thời gian gần đây. Dự kiến, Hiệp định sẽ đem lại lợi ích cụ thể
cho tất cả các nước tham gia.
Với Việt Nam, chúng ta cũng trông đợi ở Hiệp định này các
khía cạnh như:
 Về chính trị - đối ngoại, CPTPP mới sẽ là tập hợp có ý nghĩa
của các nước trong khu vực, có khả năng đem lại các lợi ích và lợi
thế thiết thực, từ đó tác động để các nước cân nhắc tham gia CPTPP,
thúc đẩy xu hướng hợp tác trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương.
 Về kinh tế, việc tham gia CPTPP về tổng thể là có lợi cho Việt
Nam. Hiệp định sẽ góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
sang các thị trường lớn như Nhật Bản, Ốt-xtrây-lia, Ca-na-đa, Mê-hi-

5


cô cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà
Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. Phần quan trọng khác chính là
việc giúp ta cải cách thể chế trong nước, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch. Đây mới là các lợi ích mang
tính lâu dài.
 Hiệp định CPTTP có tính mở, khi có nước khác tham gia
Hiệp định thì lợi ích với Việt Nam cũng sẽ tăng lên. Là nước tham
gia từ đầu thì Việt Nam sẽ có lợi thế hơn trong việc bảo vệ các lợi
ích của mình.

5.

Một số cam kết chính của Việt Nam trong CPTPP:
- Lần đầu tiên cam kết cắt giảm gần 100% dòng thuế.
- Lần đầu tiên cam kết đối với hoạt động mua sắm công.
- Lần đầu tiên cam kết đối với lĩnh vực doanh nghiệp Nhà nước.
- Lần đầu tiên cam kết cho phép người lao động thành lập tổ

chức của người lao động không nhất thiết trực thuộc Tổng LĐLĐ
VN.
- Lần đầu tiên cam kết về vấn đề môi trường, thương mại điện
tử.
- Đồng ý cam kết bảo vệ quyền SHTT ở tiêu chuẩn TRIPS+

6


- Cam kết chọn-bỏ, nguyên tắc chỉ điều chỉnh chính sách thuận
lợi hơn (rachet) trong các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư...
6.

Sự khác biệt của hiệp định này so với các hiệp định Việt Nam đã tham

gia trước đây như WTO, BTA, AFTA,...
Trong suốt quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam đã ký kết rất
nhiều Hiệp định Thương mại. FTA sớm nhất của Việt Nam chính là
AFTA vào năm 1996, 1 năm sau khi gia nhập ASEAN – nay đã được
thay thế bằng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Tiếp đến, năm
2007, Việt Nam gia nhập trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại Thế giới (WTO) và chính thức bắt tay vào công cuộc tăng cường

hội nhập kinh tế quốc tế.
Và mới đây nhất, Việt Nam là quốc gia thứ 7 phê chuẩn Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
- một trong những hiệp định thương mại tự do chất lượng cao, toàn
diện với mức độ cam kết sâu nhất từ trước đến nay.
Về phạm vi, so với các hiệp định BTA, AFTA, và trong WTO,
CPTPP mở rộng hơn, cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch
vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn là các vấn đề phi thương
mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ
cho các DN vừa và nhỏ... Với tầm vóc như vậy, các cam kết này sâu

7


rộng hơn, toàn diện hơn, thì bấy giờ, ảnh hưởng sẽ rất lớn. Đó là
điểm khác biệt cơ bản.
Nhìn ở góc độ Việt Nam, ta là nước đang phát triển, các thành
viên còn lại là nước phát triển. Tính chất CPTPP mở ra, cho các nước
có mức độ phát triển khác nhau nhưng cố gắng có một mẫu số chung
để cùng phát triển. Mục tiêu là thế, nhưng không tạo ra các cam kết
khác biệt. các cam kết thực hiện sẽ phải bình đẳng. Các nước đang
phát triển mà tham gia CPTPP sẽ phải cố gắng để rút ngắn thời gian
thực hiện cam kết đó.
II.

CPTPP – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI THAM GIA CPTPP:

1.

Cơ hội để Việt Nam cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh:

"Những đổi mới về thể chế, những quyết tâm của Chính phủ trong vòng

2-3 năm nay đã tạo ra động lực lớn cho nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng rằng
Việt Nam đã có những bước đi rất mạnh mẽ, rất quyết liệt. Từ việc cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo lập những điều kiện cho doanh nghiệp trong
nước làm ăn, bỏ giấy phép để tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút vốn
đầu tư bên ngoài…Trong xu thế chung, CPTPP sẽ tạo thêm các chất kích
thích, làm cho nhà đầu tư cảm thấy yên tâm hơn, kỳ vọng nhiều hơn"
Việt Nam đang hướng đến một nền kinh tế mở cửa, nhưng mở cửa sẽ có
những áp lực. Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) hay CPTPP chính là
động lực quan trọng để Việt Nam thay đổi thể chế, tăng sự ứng phó và tăng
sức cạnh tranh. Cải tiến thể chế để làm sao sát với thị trường là một trong
những điều kiện bắt buộc để thích ứng với các yêu cầu mà CPTPP đã đặt ra.

8


CPTPP là hiệp định thương mại tự do lớn nhất và cũng chính là nguồn
động lực cho sự cải cách kinh tế của Việt Nam một cách sâu rộng. Dự kiến,
toàn văn Hiệp định sau công bố sẽ mang lại lợi ích cho các quốc gia để từ đó
có thể cải cách nhiều lĩnh vực và nâng cao vị thế kinh tế, chính trị.
*

Về chính trị - đối ngoại:
- CPTPP có khả năng đem lại các lợi ích và lợi thế thiết thực, từ đó thúc

đẩy xu hướng hợp tác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
*

Về kinh tế:

Việc tham gia CPTPP xét trên tổng thể là có lợi cho Việt Nam. Hiệp định

này sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn như
Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào
các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. Phần quan trọng
khác chính là việc giúp cải cách các tổ chức, tạo môi trường đầu tư, kinh
doanh thông thoáng và minh bạch.
- Tham gia Hiệp định, GDP của Việt Nam có khả năng tăng thêm 1,32%
tính đến năm 2035, trong trường hợp đồng thời cắt giảm thuế quan và tự do
hóa dịch vụ, GDP có thể tăng thêm 2,01%. Với mức độ cam kết của các nước
trong CPTPP, các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam như nông,
thủy sản, điện, điện tử đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng thêm 4,04% và nhập khẩu
tăng thêm 3,8% vào năm 2035; tổng số việc làm tăng thêm hàng năm từ
20.000 đến 26.000 lao động.
- Ngoài ra, việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp Việt Nam
có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn, từ đó
giúp Việt Nam nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế.

9


- Tham gia CPTPP sẽ giúp Việt Nam có cơ hội tham gia chuỗi cung ứng
hình thành sau khi CPTPP có hiệu lực, là điều kiện quan trọng để nâng cao
trình độ phát triển nền kinh tế, từ đó có thể tham gia vào các công đoạn sản
xuất có giá trị gia tăng cao hơn.
- Bên cạnh đó, CPTPP cũng tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện
thể chế kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh, góp phần thu hút đầu
tư nước ngoài. Đồng thời, tạo vị thế cho Việt Nam trong việc tiếp tục đàm
phán các Hiệp định thương mại tự do khác.

*Về hội nhập quốc tế:
- CPTPP sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu hơn vào hệ thống
thương mại thế giới, giúp Việt Nam phát triển thương mại với các nước như
Canada, Mexico hay Peru - các nước chưa ký hiệp định thương mại tự do
(FTA) với Việt Nam.
- Số thành viên của hiệp định này có khả năng không chỉ dừng lại ở con
số 11 mà sẽ mở ra một thị trường rộng lớn hơn. Tính mở của CPTPP còn là
một lợi thế, khi có thành viên khác tham gia thì lợi ích với Việt Nam cũng sẽ
tăng lên. Là nước tham gia từ đầu, Việt Nam sẽ có lợi thế hơn trong việc bảo
vệ các lợi ích của mình.
Có thể nói CPTPP là hiệp định mang tính toàn diện, bao trùm các nguyên
tắc về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều chủ đề khác. Hiệp định mới
này sẽ tạo áp lực lên cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, sẽ thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội Việt Nam theo hướng tiến bộ hơn.
2.

Thách thức của Việt Nam khi tham gia CPTPP :
CPTPP mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối

với nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.

10


3.

Những thách thức ở thị trường nội địa
Thách thức từ việc giảm thuế quan đối với các hàng hóa từ các nước đối

tác CPTPP

Theo quy định của CPTPP, mức thuế suất xuất nhập khẩu bình quân áp
dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường CPTPP sẽ
giảm từ 1,7% xuống 0,2%. Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi về tài chính,
trình độ quản trị, chuỗi phân phối toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ
phải đối mặt với một thách thức, đó là các doanh nghiệp nước ngoài sẽ “nhanh
chân” hơn doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi từ các ưu đãi thuế
quan từ CPTPP. Đây cũng là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp Việt
Nam, bởi vì, tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu, chưa
có sự liên kết chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau...
Thách thức từ việc mở cửa các thị trường dịch vụ
Tham gia CPTPP, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho hàng hóa, dịch vụ của
các nước đối tác tại thị trường trong nước, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp
Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”. Điều này sẽ gây nên
không ít áp lực cho hàng hóa Việt Nam và nguy cơ thất bại của các doanh
nghiệp trên chính thị trường nội địa cũng vì thế sẽ gia tăng.
Thách thức từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động,
cạnh tranh,… và các ràng buộc mang tính thủ tục khi ban hành các quy định
liên quan đến rào cản kỹ thuật, …
Các kết quả đàm phán FTA của Hoa Kỳ trong giai đoạn gần đây cho thấy
nước này nhấn mạnh việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi trường, lao động
hay các ràng buộc nhiều hơn về mặt thủ tục khi ban hành hay thực thi các quy
định về cạnh tranh,phòng vệ thương mại, TBT, SPS… Các đối tác phát triển
khá quan tâm đến các vấn đề này.
- Một mặt, việc tổ chức thực hiện các yêu cầu này sẽ là một gánh nặng
lớn đối với Nhà nước. Việc thực thi cũng tạo ra nhiều chi phí cho doanh

11


nghiệp để thực hiện. Ngoài ra có những vấn đề thuộc về thể chế không dễ

thay đổi.
- Mặt khác, thực hiện các cam kết dạng này sẽ là cơ hội tốt để chúng ta
cải thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là từ góc độ phát triển bền vững, vì
quyền con người ( lao động ),minh bạch hóa và cải cách hành chính.
Vì vậy, không phải tất cả các vấn đề này đều sẽ là khó khăn cho phái Việt
Nam. Với việc tính đến những lợi ích mà các cam kết này có thể mang lại cho
chúng ta, cần cân nhắc phương án đàm phán thích hợp sao cho đối tác có thể
chấp nhận những mức độ cam kết mà Việt Nam có thể chịu đựng được.
Thách thức từ việc mở cửa thị trường mua sắm công
Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị trường mua sắm công theo cách này
được suy đoán là sẽ gây ra những tác động bất lợi ( với những lo ngại tương tự
như lo ngại của nhiều nước về sự “ tấn công’’ của các nhà cung cấp nước
ngoài khiến doanh nghiệp nội địa không cạnh tranh nổi trong các vụ đấu thầu
lớn) trong khi khả năng Việt Nam tiếp cận được với thị trường mua sắm công
của các đối tác CPTPP là hầu như không có do hạn chế về năng lực cạnh
tranh.
Tuy nhiên, cũng cần có nhìn nhận tích cực hơn về vấn đề này. Cụ thể,
việc mở cửa thị trường mua sắm công có thể mang lại những lợi ích nhất định
trong hoàn cảnh riêng của Việt Nam : có thể là cơ hội để minh bạch hóa thị
trường này, là biện pháp tốt để cải thiện các điều kiện mua sắm công từ đó có
thể lựa chọn được các nhà cung cấp tốt hơn.
4.

Thách thức từ thị trường các nước đối tác CPTPP
Mới đây, tại Báo cáo thuyết minh Hiệp định CPTPP do Phó Thủ tướng,

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh trình bày tại kỳ họp thứ 6 của
Quốc hội, cũng đã chỉ ra 6 thách thức lớn khi Việt Nam tham gia CPTPP, cụ
thể:
 Thứ nhất là, thách thức về kinh tế.


12


Về thương mại hàng hóa, do Việt Nam đã có FTA với 7 trên 10 nước
thành viên Hiệp định CPTPP nên sức ép cạnh tranh tăng thêm do mở cửa thị
trường chỉ đến từ 3 nước là Canada, Mexico và Peru. Tuy nhiên, thực tiễn
thương mại song phương với 3 nước này cho thấy sức ép sẽ không lớn bởi cơ
cấu xuất nhập khẩu của những nước này có tính bổ sung hơn là cạnh tranh với
cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam và hiện Việt Nam đang xuất siêu sang cả
3 nước này. Về thương mại đầu tư, một số ngành như dịch vụ quảng cáo, dịch
vụ logistics… có thể đối mặt với thách thức về cạnh tranh. Tuy nhiên, đây
cũng là một cơ hội trong việc giảm thiểu chi phí kinh doanh, tạo thuận lợi cho
hoạt động của DN trong nước nói chung…
 Thứ hai là, thách thức về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế.
Để thực thi cam kết trong CPTPP, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi
một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động…
Sức ép thay đổi hệ thống pháp luật để tuân thủ những chuẩn mực mới của
Hiệp định là có nhưng sẽ vượt qua được vì một số lý do.
- Những cam kết khó nhất, đòi hỏi nguồn lực thực thi lớn (ví dụ như
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ), đã được 11 nước "tạm hoãn" sau khi Hoa Kỳ rút
khỏi Hiệp định TPP.
- Nhiều cam kết tuy mới nhưng lại phù hợp hoàn toàn với đường lối, chủ
trương của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước (ví dụ như trong lĩnh vực
mua sắm của Chính phủ, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp Nhà nước, doanh
nghiệp nhỏ và vừa...) nên sức ép thay đổi hệ thống pháp luật không lớn.
- Như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc
và nỗ lực cao, Việt Nam có thể thực hiện thành công khối lượng công việc
này, nhất là khi ta được quyền thực hiện theo lộ trình, báo cáo của Chính phủ
nêu.

 Thứ ba là, thách thức về xã hội.
Cạnh tranh tăng lên khi tham gia CPTPP có thể làm cho một số DN lâm
vào tình trạng khó khăn, kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ
phận lao động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, do cơ cấu xuất nhập khẩu của phần lớn
13


các nền kinh tế trong CPTPP không cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam, nên
ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự kiến tác động này là có tính cục
bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn.
 Thứ tư là, thách thức về thu ngân sách.
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết sẽ làm giảm thu ngân sách,
tuy nhiên sẽ không tác động đột ngột do trong CPTPP có đến 7/10 nước đã có
FTA với Việt Nam; chỉ còn 3 nước là Canada, Mexico và Peru là chưa có FTA
với Việt Nam nhưng thương mại hiện còn khiêm tốn. Ngoài ra, với những lợi
ích mà Hiệp định CPTPP mang lại, các doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ
có nhiều cơ hội để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có thể đóng
góp nhiều hơn vào ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thu thuế nội địa
như thuế thu nhập doanh nghiệp… Điều này sẽ phần nào giúp cân bằng nguồn
thu – chi cho ngân sách quốc gia.
 Thứ năm là, thách thức trong lĩnh vực lao động.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động
mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động được nêu trong Tuyên bố năm
1998 của ILO về Những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động mà với tư
cách là thành viên của ILO, tất cả các thành viên CPTPP đều có nghĩa vụ tôn
trọng, thúc đẩy và thực thi. Đối với những nội dung liên quan đến xóa bỏ lao
động cưỡng bức, lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử trong lao động, về
cơ bản, hệ thống pháp luật của Việt Nam đã phù hợp với các tiêu chuẩn của
ILO và cam kết của Hiệp định.Thách thức ở đây liên quan đến việc sửa đổi
luật pháp về quyền thành lập tổ chức của người lao động tại DN và sự quản lý

của Nhà nước để đảm bảo hoạt động của các tổ chức này tuân thủ đúng pháp
luật Việt Nam, phù hợp với nguyên tắc "tuân thủ pháp luật của nước sở tại" đã
nêu trong Công ước 87 của Tổ chức Lao động Thế giới, đồng thời giữ vững ổn
định chính trị - xã hội
Đây là thách thức nhưng cũng đồng thời là cơ hội, động lực cho các tổ
chức công đoàn đổi mới mạnh mẽ để hoạt động có hiệu quả hơn. Thách thức
14


này sẽ được giải quyết chủ yếu thông qua việc xây dựng những quy định chặt
chẽ về điều kiện, thủ tục thành lập, quản lý đăng ký hoạt động của tổ chức của
người lao động; chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm, hoạt động không
đúng tôn chỉ, mục đích …
 Thứ sáu là, thách thức trong lĩnh vực an toàn, an ninh thông tin.
Việt Nam đã ký thư song phương với các thành viên CPTPP về các nghĩa
vụ tự do lưu chuyển thông tin và yêu cầu đặt máy chủ tại nước sở tại trong 2
điều khoản thuộc chương Thương mại điện tử. Thư song phương này có giá trị
hạn chế khả năng Việt Nam bị khiếu kiện trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp
định có hiệu lực… Trong và sau lộ trình 5 năm, Việt Nam cần xây dựng kế
hoạch, biện pháp thực thi các nghĩa vụ của Hiệp định CPTPP, Luật An ninh
mạng và một số văn bản pháp luật khác liên quan. trực tiếp hoặc gián tiếp đến
việc lưu chuyển thông tin và đặt máy chủ tại Việt Nam nhằm vừa bảo đảm an
ninh quốc gia nhưng cũng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
thương mại số trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy kinh tế số.
III.

SO SÁNH ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA TPP VÀ CPTPP:

15



Về cơ bản, CPTPP giữ nguyên các nội dung cốt lõi của TPP "cũ" với
hy vọng chờ sự quay lại của Mỹ. Tuy nhiên, trong số 8.000 trang tài liệu của
16


CPTPP được thông qua, có hơn 20 điều khoản đã bị tạm hoãn hoặc sửa đổi so
với thỏa thuận TPP trước đây.

Những sự thay đổi đó bao gồm:

Đó là thay đổi về tên gọi.TPP cũ có tên đầy đủ là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership). Hiệp định mới lần này đã
bổ sung 2 từ "Toàn diện" (Comprehensive) và "Tiến bộ" (Progressive) vào tên
gọi chính thức.
Vấn đề tên gọi đã được 11 quốc gia bàn luận nhiều lần trong các vòng
đàm phán. Sự bổ sung này đã thể hiện tính đồng thuận cao trong nội bộ các
nước tham gia đàm phán, khẳng định tầm vóc, chất lượng và ý nghĩa của
CPTPP – một hiệp định có tính tiêu chuẩn cao, toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực.

17


"Đây là hiệp định rất toàn diện, bao gồm nhiều lĩnh vực không chỉ về
thương mại mà còn đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều vấn đề, nguyên tắc khác.Về
bản chất là cao hơn, tiến bộ hơn so với các hiệp định đã được ký kết trước
đây", Bộ trưởng Tái thiết kinh tế Nhật Bản Toshimitsu Motegi cho biết.

Số lượng thành viên trong Hiệp định CPTPP mới còn 11 nước, bao

gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand,
Peru, Singapore và Việt Nam, với quy mô kinh tế chiếm khoảng 13,5% GDP
và 15,2% tổng kim ngạch thương mại toàn cầu, thấp hơn khá nhiều so với quy
mô của TPP khi có Mỹ (38.2% GDP và 26.5% kim ngạch thương mại toàn
cầu).

Mặc dù Mỹ rời khỏi nhưng quy mô của CPTPP vẫn khá lớn và bao hàm
một số thị trường quan trọng với Việt Nam như : Nhật Bản, Úc, Canada,
Mexico … trong khi gánh nặng thực thi các điều khoản đã giảm đáng kể so
với trước. Do đó, Việt Nam vẫn sẽ tìm được những nguồn lợi ích tương đối
lớn khi tham gia Hiệp định này. Hơn nữa, hầu hết các quốc gia tham gia đàm
phán đều kỳ vọng sự quay lại của Mỹ trong tương lai, nên CPTPP sẽ là bước
đầu để thúc đẩy liên kết và hợp tác trong khu vực.
Sự kiện CPTPP chuẩn bị được ký kết và các nỗ lực gần đây của Trung
Quốc đã tạo những áp lực nhất định đối với Hoa Kỳ, buộc nước này phải bày
18


tỏ thông điệp muốn thương lượng lại về TPP với nhóm 5 nước là Brunei,
Malaysia, New Zealand, Nhật Bản và Việt Nam. Hiện tại, Trung Quốc đang
đóng vai trò đầu tầu trong quá trình nhất thể hóa kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương ở các Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Hiệp định
Thương mại tự do (FTA) Trung Quốc - ASEAN hay Hiệp định thương mại tự
do Trung – Nhật – Hàn…

Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên TPP tại Đà Nẵng bên lề APEC 2017.

Thay đổi về hiệu lực của Hiệp định. Theo quy định của TPP cũ, để Hiệp
định có hiệu lực thì tổng GDP của các nước triển khai phải bằng 85% tổng
GDP của 12 nước đã ký từ năm 2013. Như vậy, với tình huống Mỹ, quốc gia

chiếm tới 60% GDP toàn khối, rút lui khỏi TPP, thì 11 nước còn lại sẽ phải
thay đổi điều khoản hiệu lực để CPTPP có thể bắt đầu. Theo đó, chỉ cần ít nhất
19


6 quốc gia thành viên ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày
kể từ ngày ký.

Sự thay đổi này đã tạo điều kiện thuận lợi để CPTPP có thể dễ dàng được
thực hiện trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, Hiệp định mới còn bổ sung các
quy định về quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại CPTPP trong tương lai, tạo
tính linh hoạt của Hiệp định và có thể sẵn sàng cho những đợt kết nạp thành
viên mới.

CPTPP có khoảng 20 nội dung bị tạm hoãn so với TPP cũ, chủ yếu là các
cam kết cứng rắn về sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia đề xuất trước đây. Cụ
thể, có 11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, bảo vệ chặt chẽ quyền
lợi của người sở hữu sáng chế. CPTPP sẽ hoãn việc yêu cầu các nước thành
viên thay đổi luật và thông lệ của mình để bảo vệ các dược phẩm mới, bao
gồm cả chế phẩm sinh học, không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc (generic
drug).
CPTPP cũng đình chỉ quy định về gia hạn thời hạn bản quyền trong
những trường hợp do sự chậm trễ cuả cơ quan cấp bằng hoặc những trì hoãn
bất hợp lý trong việc cấp bản quyền, cũng như cấp phép nhập khẩu một loại
20


dược phẩm nào đó vào các nước thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên của
Hiệp định mới sẽ không cần phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền từ 50 lên
70 năm …


Thủ tướng Canada Justin Trudeau tổ chức họp báo lý giải về việc vắng
mặt trong cuộc họp của các nhà lãnh đạo TPP-11 tại APEC 2017 diễn ra tại
Đà Nẵng

Các điều khoản còn lại bị hoãn thuộc lĩnh vực đầu tư. Đối với cơ
chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS), CPTPP đã thu
hẹp phạm vi cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế này để kiện
Chính phủ nước thành viên sở tại (nước tiếp nhận đầu tư).
Theo đó, các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ không
được phép sử dụng cơ chế ISDS nếu xảy ra tranh chấp về hợp đồng giữa hai
bên.Các công ty trong nước cũng không được sử dụng cơ chế ISDS để kiện
21


Chính phủ nước đó nhưng có thể sử dụng để khởi kiện Chính phủ một nước
thành viên khác trong khối.
Ngoài ra, về việc thành lập Ban trọng tài của ISDS, CPTPP quy định
Ban trọng tài có ba thành viên bao gồm một đại diện do Chính phủ cử ra, một
đại diện do nguyên đơn lựa chọn và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính phủ
và nguyên đơn thống nhất lựa chọn.
Như vậy, với một số điều chỉnh trong quy chế cùng sự nỗ lực của 11
nước tham gia đàm phán, TPP đã được "cứu".Những phân tích đã chỉ ra rằng,
CPTPP là một hiệp định tương đối toàn diện, tiến bộ, tính tiêu chuẩn cao
nhưng lại rất mở.Hiện nay, công tác hoàn tất các thủ tục đang được gấp rút
thực hiện cho buổi ký kết Hiệp định vào thứ Năm (8/3/2018) tới.

* Tổng kết bảng so sánh:

Phân

biệt
Tên
gọi

TPP

CPTPP

The Trans-Pacific

The

Comprehensive

and

Partnership: Hiệp định Progressive Agreement for TransĐối tác xuyên Thái Bình Pacific Partnership: Hiệp định Đối
Dương

tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương

Số

12 thành viên

11 thành viên (do Mỹ xin rút).

Gồm 30 chương bao


- Cơ bản giữ nguyên nội dung

thành viên
Cấu
trúc

nội quát rộng về thương mại, đã đàm phán của TPP nhưng bổ sung

dung Hiệp thuế quan, đầu tư, sở hữu thêm 02 phụ lục sau:
22


định

trí tuệ, lao động, môi
trường...

+ Phụ lục 1: Danh mục 20
nghĩa vụ tạm hoãn thực thi của TPP
và 4 nội dung cần đàm phán lại như
đầu tư và cấp phép đầu tư; giải quyết
tranh chấp viễn thông; điều kiện
tham dự thầu; đối tượng có thể cấp
bằng độc quyền sáng chế; minh bạch
và công bằng về thủ tục đối với hàng
hóa dược phẩm và thiết bị y tế…
+ Phụ lục 02: 7 điều liên quan
đến những điểm kỹ thuật của hiệp
định mới.
- Bổ sung quy định về tính hiệu

lực, quy trình rút lui, gia nhập, rà
soát lại CPTPP trong tương lai,

Quy


Hiệp

định

TPP

Hiệp

định

CPTPP

chiếm

chiếm 40% GDP, 30% khoảng 15% GDP, 15% tổng thương
thương mại toàn cầu và mại toàn cầu và 500 triệu dân.
có 800 triệu dân.
Hiệu

lực

TPP có hiệu lực nếu

CPTPP có hiệu lực 60 ngày sau


ít nhất 6 nước phê chuẩn khi được ít nhất 6 nước thông qua.
trước tháng 02/2018 và
các nước này phải đóng
góp ít nhất 85% GDP
trong khối.

23


Lợi

TPP giúp GDP tăng

ích đối với thêm 6,7%

CPTPP giúp GDP tăng thêm
1,3%

Việt Nam

24


LỜI KẾT THÚC
Cho đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong cải thiện môi trường đầu
tư kinh doanh, cải cách bộ máy hành chính nhưng chưa đủ bởi thể chế rộng
hơn rất nhiều, nên những nỗ lực đó mới chỉ là bước đầu, vẫn cần phải đi sâu
vào cải cách thể chế để thực sự đạt được bộ máy nhà nước chuyên nghiệp,
minh bạch, có tính giải trình cao và chất thị trường ở Việt Nam phải hiện đại

và đầy đủ để hội nhập tốt.
Ngoài ra, việc tham gia Hiệp định CPTPP không chỉ là cuộc chơi của
riêng Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách, cuối cùng “đội xung kích”
quan trọng nhất vẫn chính là các doanh nghiệp và nói rộng hơn là toàn thể
người dân.
Do vậy, làm sao để tính tương tác giữa Chính phủ và người dân làm sao
phải cùng trên một con thuyền cải cách và hội nhập, cần xác định thực thi cam
kết là quan trọng hay thực thi cam kết với ý nghĩa lớn hơn là quá trình cải
cách. “Việt Nam cần phải biết những thế mạnh mình đang ở đâu để phát huy
nó và có được những ưu tiên và tập trung nguồn lực còn rất nhiều hạn chế vào
đó.Quan trọng là phải biết chơi, biết gắn với những “người khổng lồ” để học
được những thứ tốt nhất”, TS.Võ Trí Thành cho hay.

25


×