BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2 TẠI TP HỒ CHÍ MINH
KHOA: TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGHÀNH: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUỐC TẾ
ĐỐI VỚI NƯỚC CHUYỂN GIAO.
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009
I-GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Một đặc điểm nổi bật của thế giới ngày nay là sự phân chia giàu nghèo ngày
càng lớn giữa các nước phát triển và đang phát triển. Một số nước đang phát triển ở
Châu Á, đặc biệt là tại các nước Đông Nam Á đã vươn lên một cách mạn mẽ và đạt
được sự tăng trưởng nhanh chóng, giảm khoảng cách giàu nghèo trong khuôn khổ
của phát triển bền vững bằng con đường công nghiệp hoá – hiện đại hóa đất nước.
Trong đó, công nghệ đóng vai trò cốt lõi của mọi quá trình, là chìa khóa cho sự
thành công trong quá trình phát triển kinh tế. Trong xã hội hiện đại, vai trò của công
nghệ ngày càng tăng lên. Những tiến bộ như vũ bão của khoa học - công nghệ trong
hai thập kỉ qua, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ nano, tự động hoá đã làm đảo lộn tư duy và chiến lược của nhiều
nước. Ngày nay không một ai còn có thể hoài nghi về vai trò của công nghệ trong
phát triển kinh tế toàn cầu và của mỗi quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế
hiện nay vấn đề chuyển giao công nghệ quốc tế là một hiện tượng tất yếu và rất
đáng quan tâm. Tuy nhiên chuyển giao công nghệ quốc tế không chỉ vai trò to lớn
đối với các nước nhận chuyển giao mà còn mang lại những lợi ích đáng kể đối với
các nước chuyển giao công nghệ. Chính vì những lí do trên, nhóm tiểu luận của
chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Tác động của chuyển giao công nghệ quốc tế
đối với nước chuyển giao”.
Do quá trình nghiên cứu đề tài gặp rất nhiều khó khăn không chỉ về nguồn tư
liệu mà còn về thời gian và kinh nghiệm, vì vậy bài tiểu luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Mong quý thầy cô và các bạn bỏ qua.
II-CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ.
1. Công nghệ:
1.1. Khái niệm công nghệ
Hiện nay, mặc dù được sử dụng rất phổ biến nhưng khái niệm “công nghệ” vẫn
được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Vậy công nghệ là gì?
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, công nghệ (có nguồn gốc từ
technologia, trong tiếng Hy Lạp; techne có nghĩa là thủ công và logia có nghĩa là
"châm ngôn") là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và mưu mẹo của con
người. Từ đó có thể hiểu rằng công nghệ là việc phát triển và ứng dụng của các
dụng cụ, máy móc, nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề của
con người. Với tư cách là hoạt động con người, công nghệ diễn ra trước khi có khoa
học và kỹ nghệ. Nó thể hiện kiến thức của con người trong giải quyết các vấn đề
thực tế để tạo ra các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu hoặc quy trình tiêu chuẩn.
Còn theo định nghĩa tại thông tư 28/TT-QTKH ngày 22/10/1994 của bộ
KHCN&MT hướng dẫn chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam: công
nghệ là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các kiến thức khoa
học, dùng để giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ thực tiễn trong sản xuất, kinh
doanh. Định nghĩa gần đây nhất của công nghệ được đưa ra trong Luật chuyển giao
công nghệ số 80/2006/QH11 ngày 29/11/2006 có quy định: “Công nghệ là giải
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
2
pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện
dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”.
1.2. Phân loại công nghệ
Do có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm công nghệ nên cũng có nhiếu
cách phân loại công nghệ khác nhau. Vì vậy để thuận tiện cho việc quản lý, người ta
phân thành 4 loại sau:
Thứ nhất là các bí quyết kỹ thuật, phương án công nghệ, quy trình công nghệ, tài
liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật. Có thể lấy ví dụ như công thức sản xuất
nước hoa cK, tài liệu thiết kế kỹ thuật một chiếc xe Honda,…
Thứ hai là các đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa (theo điều 4, chương I, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp 28/1/1989). Một vài ví dụ như là: sáng chế “máy bơm nước đạp chân” của
ông Nguyễn Tất Hải ở Nghệ An, kiểu dáng Coca Cola, …
Thứ ba, các giải pháp nói trên có thể bao gồm máy móc, thiết bị có hàm chứa
nội dung công nghệ. Từ ví dụ ở trên ta có thể phát triển thêm: máy tách hương liệu
trong cách thức sản xuất nước hoa,…
Cuối cùng là các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn. Cũng giống như hàng hóa, công nghệ
cũng có công nghệ hữu hình và công nghệ vô hình. Công nghệ vô hình trong dịch
vụ và tư vấn có thể kể đến: công nghệ mã hóa kỹ thuật số trong dịch vụ thuê bao
của hãng Napster, ...
Ngoài ra, trong cùng một nghành công nghiệp, người ta còn sử dụng khái niệm
“công nghệ sản phẩm” (thiết kế như thế nào: biểu hiện các khả năng áp dụng các tri
thức mới, sang tạo ra các sản phẩm có đặc tính mới) để phân biệt với “công nghệ
quá trình” (sản xuất như thế nào: biểu hiện bằng khả năng chế tạo sản phẩm một
cách kinh tế bằng cách tăng sản lượng, hạ giá thành..). Ví dụ: Mỹ là quốc gia đứng
đầu trong công nghệ sản phẩm nhưng trong một thời gian dài đã thua Nhật Bản về
công nghệ quá trình. Do chưa đủ tiềm lực R&D và hiểu rất rõ rằng công nghệ sản
phẩm dễ bị bắt chước và mất bản quyền, nên trong một thời gian dài (cho đế đầu
những năm 1980) người Nhật đã tập trung vào công nghệ quá trình lien quan đến
việc tổ chức sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp gắn liền với các quan niệm, nguyên
tắc đặc thù về quản lí của người Nhật khó bị bắt chước thừ đó giữ được lợi thế cạnh
tranh bền vững hơn.
2. Chuyển giao công nghệ:
2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ, theo nghĩa rộng, xảy ra khi yếu tố công nghệ này được
khai thác hay mở rộng phạm vi ứng dụng (thay đổi mục tiêu khác với mục tiêu ban
đầu mà mục tiêu công nghệ được tao ra, dịch chuyển địa lý, chuyển từ chủ thể này
sang chủ thể khác…)
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo nghĩa hẹp, chuyển giao công nghệ
được hiểu là sự thỏa thuận giữa hai bên - bên giao và bên nhận - trong đó hai bên
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
3
phối hợp các hành vi pháp lí và các hoạt động thực tiễn mà mục đích và kết quả là
bên nhận có những năng lực công nghệ xác định.
Đây là quan điểm được thể hiện trong luật chuyển giao công nghệ của Liên Hiệp
Quốc. Còn trong Luật chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11 đưa ra khái niệm:
chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần
hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công
nghệ.
Thuật ngữ chuyển giao công nghệ dễ gây ấn tượng rằng có một bên cho/bên giao
và một bên nhận để thay thế cho một bên bán và một bên mua. Thực chất trong các
nền kinh tế thị trường thì các trường hợp chuyển giao công nghệ giữa các công ty
đều có các thương vụ mua bán/xuất nhập khẩu và được thông qua các hợp đồng, có
những yếu tố lượng hóa được, có yếu tố không lượng hóa được, có những ảnh
hưởng trực tiếp, đồng thời cũng có những amhr hưởng gián tiếp lâu ngày mới bộc
lộ.
2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ
Hiện nay để tao sự gọn gàng thuận lợi, người ta chỉ chia việc chuyển giao công
nghệ ra làm 2 loại.
Thứ nhất là chuyển giao sỡ hữu hoặc chuyển quyền sử dụng các đối tượng sỡ
hữu công nghiệp, theo như trên, là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng
hóa. Đây là những hình thức rất phổ biến. Trong đó, hoạt động có thể có hoặc
không thiết bị kèm theo qua hình thức mua bán, cung cấp các đối tượng: bí quyết kĩ
thuật; phương án, qui trình công nghệ; tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kĩ thuật;
công thức bản vẽ, sơ đồ bảng biểu, … cũng được coi là chuyển giao công nghệ. Chỉ
khi mua bán hàng hóa mà không kèm theo sự chuyển giao các quyền sở hữu công
nghiệp khác thì không được công nhận.
Loại còn lại và về việc thực hiện các hỗ trợ và tư vấn. Bên giao hỗ trợ kỹ thuật,
lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây chuyền công nghệ
cho bên nhận. Bên giao tư vấn các nghiên cứu phân tích đánh giá về cơ hội đầu tư,
cơ hội tiền khả thi và khả thi các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Bên nhận nhận
được sự đào tạo huấn luyện nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý của
cán bộ quản lý kỹ thuật và công nhân. Hỗ trợ thực hiện dịch vụ về thu nhập, xử lý
và cung cấp thông tin về thị trường, công nghệ pháp lý, tài nguyên môi trường của
bên giao. Tất cả những điều trên đây đều là chuyển giao công nghệ.
Dựa vào quyền hạn của bên giao bên nhận và giá cả, người ta còn chia chuyển
giao công nghệ thành 3 hình thức:
Hình thức
Yếu tố
Chuyển giao giản
đơn
CGCN không độc
quyền
CGCN giữ độc
quyền
Người giao
Bán cho một hoặc
một số người trên
cùng địa phương.
Trao quyền cho
người mua giới hạn
trong phạm vi lãnh
thổ.
Trao toàn quyền
sử dụng cho bên
kiatrong thời gian
hợp đồng.
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
4
Người nhận
Không được bán
lại công nghệ.
Không được chuyển
nhượng dưới bất kì
hình thức nào.
Có thể bán lại.
Giá cả Thấp. Khá cao. Rất cao.
II-TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI NƯỚC
CHUYỂN GIAO.
Ngày nay, cùng với sự phát triển đến chóng mặt của khoa học công nghệ,
không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của công nghệ trong sự phát triển
kinh tế. Các nhà kinh tế học trên thế giới đã phát triển một học thuyết “Total Factor
Production – TFP” trong đó coi công nghệ là một yếu tố quan trọng, nếu không nói
là qua trọng nhất, so với ba yếu tố đầu vào truyền thống của sản xuất là vốn, đất đai
và lao động. Trong khi những yêu tố đầu vào truyền thống này là hữu hạn, thì công
nghệ lại tạo ra giá trị gia tăng đáng kể cho sản phẩm. Công nghệ giờ đây không chỉ
là một công cụ lao dộng thuần túy mà nó được coi là động kực chính trong sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo một nghiên cứu cho thấy rằng công nghệ đóng
góp đến 60% vào sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.Vì tầm quan trọng như thế, mà
hoạt động chuyển giao công nghệ có nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và riêng đối với bên chuyển gia nói riêng.
1. Tác động tích cực của chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển giao:
Trước hết, cần hiểu rằng, trong thị trường nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh chủ
yếu diễn ra giữa các công ty chứ không phải là sự cạnh tranh của các quốc gia. Các
công ty luôn muốn bành trướng thị trường từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm
nâng cao vị thế cũng như lợi nhuận của mình. Xuất phát từ sự chuyên môn hóa và
phân công lao đông trong sản xuất cũng như mong muốn nâng cao lợi thế cạnh
tranh của mình, buộc phải có quá trình chuyên giao công nghệ giữa các công ty nắm
giữ các kỹ thuật cao mà suy rông ra là sự chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia
với nhau. Như vậy tác dụng đầu tiên của quá trình chuyển giao công nghệ đối với
nước chuyển giao là xuất phát từ lợi ích của các công ty của các quốc gia này. Tác
động này được xét dưới hai chiến lược sản xuất của các công ty, tập toàn đa quốc
gia:
+ Sản xuất tập trung: sản xuất tại một quốc gia, sau đó xuất khẩu sang các
quốc gia khác. Do tính quy mô của dự án sản xuất quá lớn, đồng thời quá trình
R&D phải đi kèm với quá trình sản xuất mới đem lại hiểu quả cao cho nên các bí
quyết độc đáo để sản xuất ra sản phẩm thường không phải la sản phẩm để chuyển
giao công nghệ. Trong trường hợp này các công ty vẫn phải chuyển giao công nghệ
cho các chi nhánh và cho khách hang ở các quốc gia khác trong công đoạn lắp đặt,
chảy thử, bảo hành, bảo trì hay sửa chữa nhằm giữ uy tín cho sản phẩm của mình,
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
5
đảm bảo cam kết với khách hàng cũng như hỗ trợ tiếp thị. Điển hình cho loại chiến
lược này này là Microsoft, Coca-cola hoặc các sản phẩm về công nghiệp vũ trụ.
+ Sản xuất phân tán: đặt nhiều cơ sở sản xuất ở các vị trí gần nguồn tài
nghuyên, nguyên nhiên liệu hoặc là gang thị trường tiêu thụ hoặc chia quá trình sản
xuất ra một sản phẩm thành nhiều công đoạn ở các nước khác nhau nhằm nâng cao
được lợi thế trong cạnh về các mặt sau:
• Tận dụng được nguồn nhân công rẻ ở các nước đang phát triển.
• Giảm được chi phí đáng kể chi phí vận tải, tồn kho, cung ứng nghuyên nhiên
liệu.
• Giảm chi phí đầu tư do chuyên môn hóa, phân công công lao động quốc tế.
• Tích lũy được nhiều kinh nghiệm ở các quốc gia khác nhau.
• Một hình thức mở rộng thị trường, đối phó với các chính sách hạn chế nhập
khẩu của các nước có thị trường tiêu thụ.
• Tạo điều kiện chiếm lĩnh thị trường dễ dàng
• Khuyếch trương phạm vi ảnh hưởng, nâng cao uy tín sản phẩm của mình
trên thị trường thế giới.
- Hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa người ta cho rằng buôn bán licence
( hay gọi là chuyển giao công nghệ) là một trong những nghiệp vụ kinh tế đối ngoại
có lãi nhất. trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt toàn cầu, khoa học kỹ thuật công nghệ
ngày càng phát triển các công ty xuyên quốc gia luôn luôn liên tục đầu tư chi phí rất
lớn cho hoạt động R&D, nghĩa là phải luôn thay thế các công nghệ cũ bằng công
nghệ mới hay hơn. Tuy nhiên do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển
công nghệ sản xuất ở các quốc gia, công nghệ cũ ở các quốc gia phát triển lại có ích
cho các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. do vậy nếu bỏ đi các công nghệ
này sẽ là một sự lãng phí rất lớn. mong muốn chuyển giao công nghệ sang các nước
khác là tất yếu để có thể tiếp tục thu các nguồn lợi tứ những công nghệ đáng lẽ phải
bỏ, đặc biệt đây lại là một nguồn thu rất lớn cho các nước chuyển giao.
• Theo ước tính của Mỹ, khoản thu từ chuyển nhượng licence đã lên đến 100
tỷ USD năm 2000, hay chỉ riêng công ty IBM đã thu được 1,5 tỷ USD từ
chuyển nhượng licence trong vài năm gần đây.
• Một số liệu cũ để tham khảo về thu nhập từ buôn bán licence:
1975 1984 1985
Mỹ 4615
Anh 608 1203 1127
Tây Đức 361 612 574
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
6
Pháp 191 496 426
Italia 71
Nhật 185
( Đơn vị: triệu USD)
- Thu nhập từ hoạt động mua bán licence của Colombia cũng khá cao ( có thể
tham khảo biểu đồ ở phần phụ lục trang
- Bằng những ràng buộc ký kết hợp đồng licence (CGCN), hoặc thanh toán
bằng trái phiếu, cổ phần của công ty mua, bên chuyển nhượng kỹ thuật, công
nghệ sẽ từng bước thiết lập sự kiểm tra của mình đối với các công ty, cũng
như quốc gia nhận chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, khi thực hiện quá trình
chuyển giao công nghệ, bên chuyển giao sẽ có một số ưu đãi nhất định trong
cam kết với nước chuyển giao:
+ Bắt buộc bên mua côngn ghệ phải mua kèm một số công nghệ khác có
liên quan (Tie-ins). Điều này nghĩa là, để có thể vận hành được máy móc thiết bị
theo công nghệ đã được chuyển giao, bên mua công nghệ bắt buộc mua máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, linh kiện… của bên bán licence hoặc là từ
các nguồn khác do bên chuyển giao chỉ định, trong khi người mua công nghệ có thể
tìm được nguồn hàng rẻ hơn. Như thế nghĩa là, bên chuyển giao đã kiếm them được
một phần thu nhập ngoài phần thu nhập chính từ hoạt động chuyển giao công nghệ.
Khoản thu nhập còn dược tăng lên ở chỗ bên nhận công nghệ còn phải trả phí trong
các dịch vụ bảo hành, sửa chửa, kiểm định chất lượng, tiếp thị cũng như cung cấp
thông tin.
+ Bắt buộc bên mua công nghệ không được mua của người khác (Tie-outs).
Một khi đã mua từ một nguồn thì bên mua công nghệ bị rang buộc chỉ sử dụng công
nghệ đó, không được phép ( hoặc được phép nhưng thực chất là không thể) mua
một công nghệ tương tụ hoặc bổ sung từ nguồn khác. Vô hình chung, bên chuyển
giao công nghệ đã tạo được một sự kiểm soát trong lĩnh vực công nghệ đó đối với
nước chuyển giao.
+ Bắt buộc người mua phải cung cấp miễn phí mọi thông tin, mọi ý tưởng
cũng như giải pháp về cải tiến, đổi mới công nghệ cho mình( người bán).
- Trong dây chuyền phân công lao động quốc tế như ngày nay, không thể
một quốc gia nào đi vào mọi lĩnh lực của công nghệ mà phải tập trung
vào lĩnh vực nào đó mà mình có thế mạnh. Thực tế cho thấy rằng ở
những nước có hoạt động nghiên cứu công nghệ càng phát triển thì hoạt
động áp dụng công nghệ vào thực tiển lại không mấy phát triển bằng các
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
7
quốc gia khác và ngược lại. Như vậy chuyển giao công nghệ không chỉ
có ý nghĩa về mặt kinh tế mà nó còn thúc đảy sự phát triển của khoa học
kỹ thuật. Hoạt đông chuyển giao công nghệ có tác dụng cải tiến và thích
ững kỹ thuật với điều kiện địa phương thong qua các thông tin phản hồi.
Trên thực tế hiện nay các nhà khoa học ở nhiều nước đã cùng bắt tay hợp
tác về cùng một lĩnh vực nào đó, nhiều diễn đàn khoa học mang tính
quốc tế đã được tổ chức, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy sự phát trine
kinh tế thế giới.
- Mặt khác các nước phát triển (đa phần các nước chuyển giao công nghệ)
phải thừa nhận rằng, rốt cuộc họ không thể duy trì sự giàu có của họ, nếu
đại đa số bộ phận trên thế giới nghèo nàn lạc hậu. Các vấn đề khó khăn
về kinh tế sẽ gây nên sự mất ổn định về chính trị quốc tế. Thông qua hoạt
động chuyên giao công nghệ, các nước đang phát triển ( thường là những
nước nhận chuyển giao) tăng cường phát triển kinh tế . cũng sẽ đem lại
lợi ích cho các nước chuyển giao nhờ có được một số lượng lớn khách
hang từ những nước nhận chuyển giao mua hàng hóa công nghiệp, và
hàng tiêu dùng từ nước mình. Người ta ước tính được rằng cứ 3% tăng
trưởng của những nước đang phát triển sẽ dẫn đến 1% tăng trưởng cho
nền kinh tế ở nhũng nước phát triển- đa phần là những nước chuyển giao
công nghệ.
2. Tác động tiêu cực của việc chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển
giao:
Chuyển giao công nghệ không chỉ có những lợi ích thiết thực mà nó còn chứa
những “rủi ro” tiềm ẩn đối với nước chuyển giao công nghệ. Chính vì vậy, để tránh
vấp phải những sai lầm trong chuyển giao công nghệ quốc tế, chúng ta sẽ đi tìm
hiểu những rủi ro đối với bên chuyển giao trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
2.1. Tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình (hiệu ứng Bumerang) :
Chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực công nghệ cho người mua trong
cùng 1 ngành công nghiệp với người bán. Rõ ràng người bán càng hoàn thành tốt
cam kết chuyển giao công nghệ với người mua bao nhiêu thì càng làm tăng thêm
khả năng cạnh tranh của người mua với chính mình bấy nhiêu. (Mặc dù theo Porter,
có 2 loại đối thủ cạnh tranh: đối thủ “tốt” – good competitor, và đối thủ “xấu” – bad
competitor. Tạo ra đối thủ tốt sẽ có lợi cho người bán công nghệ vì có động lực để
vươn lên, cùng nhau khuếch trương sản phẩm, có “sân sau” để thải công nghệ lạc
hậu khi cần thiết…chỉ có điều đáng tiếc là phân biệt giữa các đối thủ tốt và các đối
thủ xấu chẳng bao giờ là rõ ràng và càng không phải là bất biến! ).
Tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình là “bài học” đắt giá cho nhiều công ty
của Nhật và Mỹ khi chuyển giao công nghệ cho Hàn Quốc, Đài Loan trong lĩnh vực
điện tử. Các công ty SamSung, Daewoo, Acer… sau khi nhận được công nghệ (dù
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
8