Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.31 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM HƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM HƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. Nguyễn Quamg Tuyến

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tam Kỳ, ngày 14 tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kim Hương


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM . 9
1.1. Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ..... 9
1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ......... 16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI HUYỆN QUẾ SƠN -TỈNH QUẢNG NAM ........................................ 30
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất .... 30
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi

đất tại huyện Quế Sơn - tỉnh Quảng Nam ....................................................... 42
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH TẠI HUYỆN QUẾ SƠN - TỈNH QUẢNG NAM
......................................................................................................................... 56
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Quế Sơn - tỉnh Quảng Nam 56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Quế Sơn - tỉnh Quảng Nam
......................................................................................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển và thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, nhu cầu xây dựng các công trình
phục vụ mục đích an ninh - quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
ngày càng gia tăng. Điều này đồng nghĩa với việc Nhà nước phải thu hồi đất
trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu; Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài. Vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
được đặt ra nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 2013 ra đời thay thế Luật Đất đai năm 2003 có những sửa
đổi, bổ sung bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, thực
tiễn thi hành các quy định này cho thấy còn nhiều trở ngại, vướng mắc như
cơ chế xác định giá đất bồi thường chưa hợp lý; sự tham vấn của người bị thu
hồi đất đối với phương án bồi thường còn mang tính hình thức; vấn đề giải
quyết về sinh kế và đời sống của người bị thu hồi đất không bền vững v.v gây

ra nhiều bức xúc trong Nhân dân, tình trạng khiếu kiện, tranh chấp liên quan
đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn không hề thuyên giảm. Điều này
cho thấy pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất vẫn còn dư
địa để tiếp tục nghiên cứu cho dù đã có khá nhiều công trình khoa học ở các
cấp độ khác nhau đề cập đến vấn đề này được công bố trong thời gian qua.
Quảng Nam là một tỉnh nghèo của miền Trung nhưng giàu truyền thống
yêu nước, hiếu học và có chiều sâu về văn hóa. Mảnh đất nơi đây sinh ra
nhiều danh nhân văn hóa, lịch sử kiệt xuất của dân tộc như Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Thái Phiên v.v. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, tỉnh
Quảng Nam có sự tăng trưởng mạnh mẽ về mọi mặt vươn lên trở thành tỉnh
khá không chỉ của miền Trung mà còn của cả nước, gia nhập câu lạc bộ các

1


địa phương có nguồn thu ngân sách hàng năm lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Đặt
trong bối cảnh đó, Quế Sơn là huyện bán sơn địa của tỉnh Quảng Nam cũng
có tốc độ phát triển ấn tượng, tỷ lệ tổng thu nhập quốc dân (GDP) tăng năm
sau cao hơn năm trước. Có được những thành tựu đáng tự hào về phát triển
kinh tế - xã hội (KT - XH) của huyện Quế Sơn không thể tách dời với sự
chuyển dịch tỷ trọng cơ cấu kinh tế từ nông, lâm nghiệp sang công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, du lịch. Nhiều dự án hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội
đã, đang và sẽ triển khai thực hiện trên địa bàn huyện Quế Sơn mở ra những
cơ hội phát triển chưa từng có song cũng đặt ra những thác thức to lớn đối với
Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân nơi đây. Một trong những thách thức đó là
giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, các chủ đầu
tư và người bị thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển KT - XH vì lợi ích quốc gia, công cộng thông qua việc áp dụng pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trong những năm qua, mặc dù đã có
rất nhiều có gắng, nỗ lực song việc thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Quế Sơn vẫn khó tránh khỏi những yếu
kém, tồn tại như số lượng các dự án được bàn giao đất chậm tiến độ chiếm tỷ
lệ đáng kể; có không ít người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án
bồi thường phát sinh tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài tiềm ẩn nguy cơ
trở thành thành điểm nóng gây mất ổn định chính trị ở địa phương v.v. Điều
này có nguyên nhân từ sự phức tạp của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất; nguồn gốc sử dụng đất phức tạp, xáo trộn qua các thời kỳ, sự yếu kém
của quản lý nhà nước về đất đai; tính đặc thù của pháp luật bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất cũng như những hạn chế của việc thực thi pháp luật v.v.
Để khắc phục những yếu kém này thì không thể không nghiên cứu, đánh giá
một cách hệ thống, đầy đủ, toàn diện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất về lý luận và thực tiễn. Dẫu cho đã có rất nhiều công trình nghiên

2


cứu về lĩnh vực này đã được công bố song đề tài vẫn còn dư địa để tiếp tục
tìm hiểu khi nó được tiếp cận nghiên cứu dựa trên sự tham chiếu từ thực tiễn
thi hành tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Với ý nghĩa đó, học viên lựa
chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của giới luật học nước ta trên các phương diện khác nhau. Có thể
đề cập đến một số công trình, bài báo tiêu biểu như sau: i) Doãn Hồng Nhung
(chủ biên) (2013), Pháp luật về định giá trong bồi thường giải phóng mặt
bằng ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; ii) Nguyễn Thị Nga (2013), Pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất - Thực trạng
và hướng hoàn thiện, Đề tài NCKH cấp Trường, Trường Đại học Luật Hà

Nội; iii) Nguyễn Vinh Diện (2006), Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; iv)
Nguyễn Duy Thạch (2007), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành hành tại thành phố Hà Nội),
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; v) Nguyễn
Tân Cảnh (2017), Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã
hội; vi) Lê Thành Long (2017), Pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội; vii) Nguyễn Tất Đắc (2018), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Học viện Khoa học xã hội; viii) Lê Phú Lượng (2018), Pháp luật
về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên

3


Huế, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật - Đại học Huế; ix) Phạm Thu
Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; x) Đỗ
Đức Quân (2007), Vấn đề việc làm cho người bị thu hồi đất ở nông thôn trong
quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp, Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, số 8 (412), tháng 8; xi) Nguyễn Thiêm (2005), Nhà tái định cư: vừa ở
vừa…run, Báo Công an nhân dân, số ra ngày 21/5; xii) Đức Tâm (2008), Vì
sao dân chưa đồng thuận , Báo điện tử Kinh tế và Đô thị, số ra ngày 19/8;
xiii) Lan Hương (2008), Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù , Báo
điện tử Dân trí, số ra ngày 03/10; xiv) Lê Ngọc Thạnh (2009),...
Nhìn chung, các công trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở mức độ và phạm vi khác nhau. Có
công trình, bài báo nghiên cứu đi sâu phân tích, bình luận một số khía cạnh

pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; có công trình, bài báo nghiên
cứu vấn đề này ở phạm vi rộng hơn nhằm đánh giá khái quát pháp luật và
thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất... Tuy nhiên,
dường như còn thiếu một công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện trên phương diện lý luận và thực tiễn pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tham chiếu từ thực tiễn thi hành tại
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của
các công trình liên quan đến đề tài, luận văn đi sâu tìm hiểu pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thi hành tại

4


huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trên cơ sở giải quyết một số vấn đề lý luận
về pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và đánh giá thực tiễn
thi hành tại địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
- Phân tích cơ sở, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất.
- Giải mã khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc của việc bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất.
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất; yêu cầu và nội dung pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất; các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất.
- Phân tích nội dung các quy định hiện hành của pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn bao gồm các vấn đề cụ thể sau:
- Nội dung của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

5


- Các quan điểm khoa học, trường phái lý thuyết về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu về nội dung
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
nói riêng là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng, phức tạp liên quan đến nhiều
lĩnh vực khác nhau như luật học, xã hội học, lịch sử, kinh tế học, văn hóa và
chính trị học v.v... Tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn
thạc sĩ luật học, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc tìm hiểu những

vấn đề lý luận pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất; đánh giá
thực trạng pháp luật hiện hành về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
qua thực tiễn thi hành tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu về không gian
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về không gian là thực tiễn thi
hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2.3. Giới hạn về thời gian
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về thời gian từ năm 2003 (Năm
ban hành Luật Đất đai 2003) đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là phép biện chứng duy vật
và biện chứng lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo đó, luận văn nghiên
cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đặt trong sự vận động

6


và có mối liên hệ với các chế định khác của pháp luật đất đai; xem xét quá
trình lịch sử hình thành, vận động và phát triển của các quy định về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,
phương pháp hệ thống … được sử dụng trong Chương 1.
- Phương pháp bình luận, phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá,
phương pháp đối chiếu v.v… được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu
thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi

hành tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải
v.v… được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu định hướng, giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu
quả thi hành tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Xét về giá trị khoa học, luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn chủ yếu
sau đây:
Một là, về ý nghĩa lý luận. Luận văn tiếp cận cơ sở lý luận về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất dựa trên các lý thuyết chủ yếu bao gồm lý thuyết về
vật quyền; lý thuyết về quyền sử dụng đất (QSDĐ) là tài sản được pháp luật
bảo hộ; lý thuyết về sở hữu "kép": toàn dân là chủ sở hữu đất đai về mặt chính
trị - pháp lý, người sử dụng đất sở hữu QSDĐ về mặt thực tế…
Hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất ở Việt Nam.

7


Hai là, về ý nghĩa thực tiễn. Luận văn phân tích, đánh giá thực tiễn thi
hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam; trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp góp phần hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực thi chế định pháp luật này.
Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà hoạch
định chính sách, pháp luật đất đai; các nhà quản lý đất đai mà còn là tài liệu
chuyên khảo bổ ích phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa
học pháp lý đất đai ở các cơ sở đào tạo luật của nước ta.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam.

8


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1.1. Định nghĩa bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
* Khái niệm của pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Mặc dù người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu đất đai mà chỉ có
quyền sử dụng đất do tính đặc thù của chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam: Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý; Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài (gọi chung là người sử dụng đất). Tuy nhiên, quyền sử
dụng đất của người sử dụng được pháp luật bảo hộ (Điều 54 Hiến pháp năm
2013). Vì vậy, khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào các mục đích công cộng
hoặc vì lợi ích quốc gia … thì vấn đề bồi thường cho người sử dụng đất được
đặt ra. Nó được ghi nhận trong pháp luật đất đai và được giải mã như sau:

“Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”1. Vậy người sử dụng đất chỉ
được Nhà nước - đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai - trao quyền sử dụng
đất để sử dụng thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất mà tại sao khi Nhà
nước thu hồi đất họ lại đươc bồi thường. Điều này được lý giải bởi một số lý
do chủ yếu sau đây:

1

Khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013

9


Thứ nhất, thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu
lại đất và quyền sử dụng đất đã giao cho chủ thể sử dụng đất theo quy định
của pháp luật đất đai. Cho dù muốn hay không muốn thì thu hồi đất luôn gây
ra những hậu quả ảnh hưởng tiêu cực đến người sử dụng đất. Họ bị tước đoạt
mất tư liệu sản xuất, nơi sinh sống cư trú và rơi vào tình trạng đời sống bị đảo
lộn, gặp nhiều khó khăn. Những “tai họa” này ập xuống đầu người sử dụng
đất không phải do lỗi của họ gây ra mà xuất phát từ yêu cầu khách quan của
xã hội như do nhu cầu sử dụng đất vào mục đích quốc phòng - an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Vì vậy, trong trường hợp
này việc bồi thường cho người sử dụng đất để khắc phục những hậu quả tiêu
cực do thu hồi đất gây ra.
Thứ hai, Thông thường, khi nhắc đến cụm từ "thu hồi", chúng ta thường
nghĩ đây là chế tài, hình phạt dành cho người có hành vi vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên trong trường hợp này, thu hồi đất không phải là chế tài được Nhà
nước áp dụng đối với người sử dụng đất mà do nhu cầu cần có đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng - an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích công

cộng … Nhà nước buộc phải thu hồi đất đã giao cho người sử dụng đất sử dụng
ổn định lâu dài. Do đó, Nhà nước phải bồi thường những thiệt hại do việc thu hồi
đất gây ra cho người sử dụng đất
Thuật ngữ "Bồi thường" được sử dụng và lưu hành từ rất lâu trong các
văn bản quy phạm pháp luật; đặc biệt là trong các văn bản quy phạm pháp
luật về đất đai. Đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai
năm 2001 được Quốc hội ban hành, thuật ngữ "Bồi thường" mới được sử
dụng trở lại và được kế thừa trong các đạo Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất
đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cho dù ở những thời kỳ
khác nhau, pháp luật đất đai sử dụng thuật ngữ “bồi thường” hay thuật ngữ “
đền bù thiệt hại” song giữa hai thuật ngữ này có sự tương đồng; nó được sử

10


dụng để chỉ việc Nhà nước bù đắp các thiệt hại là hậu quả của thu hồi đất cho
người sử dụng đất mà không do lỗi của họ gây ra.
* Khái niệm pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Pháp luật về hỗ trợ được hiểu là hệ thống các quy định pháp luật do
Nhà nước ban hành về lĩnh vực hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Cho đến nay,
pháp luật về hỗ trợ vẫn còn nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau, cách vận
dụng khác nhau. Có những quan niệm cho rằng đất đai là một thứ hàng hóa và
khi Nhà nước thu hồi đất thì trả cho người đang có quyền sử dụng đất một số
tiền tương ứng. Cũng có quan niệm cho rằng đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý nên khi Nhà nước thu hồi đất chỉ trả một phần
kinh phí gọi là bồi thường. Mỗi quan điểm đều có mặt tích cực và hạn chế của
nó, bởi lẽ đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không phải là hàng hóa để trao
đổi, đất đai cũng là thành quả của cách mạng, của toàn thể nhân dân mà Nhà
nước là đại diện quản lý nên không thể thu hồi, sử dụng tùy tiện mà phải làm
sao để hài hòa các lợi ích.

Pháp luật điều chỉnh về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là điều chỉnh
các quan hệ xã hội, giữa Nhà nước với người dân, giữa Nhà nước với chủ các
dự án thu hồi đất, giữa người dân với các chủ dự án thu hồi đất. Theo đó, một
trong những quy định trong đó pháp luật sẽ quy định điều chỉnh hỗ trợ ổn
định, sản xuất của người dân; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm đối đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm kết hợp kinh
doanh, dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở.
1.1.1.2. Đặc điểm của bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

* Đặc điểm của pháp luật về Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một dạng cụ thể của bồi
thường nói chung. Bên cạnh các đặc điểm chung thì bồi thường, hỗ trợ còn có

11


một số đặc điểm riêng chủ yếu sau đây:
Một là, vấn đề bồi thường chỉ đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất của người
sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển KT XH vì lợi ích quốc gia, công cộng. Điều này có nghĩa là không phải bất cứ
trường hợp người bị thu hồi đất nào cũng được Nhà nước bồi thường. Chỉ
những trường hợp Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh (quy định tại Điều 61 Luật Đất đai năm 2013); thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (quy định tại Điều 62 Luật
Đất đai năm 2013) mới được Nhà nước bồi thường.
Hai là, việc bồi thường cho người sử dụng đất không do lỗi của Nhà
nước gây ra mà xuất phát từ nhu cầu chung của xã hội, của cộng đồng. Điều
này có nghĩa là Nhà nước thu hồi đất sử dụng không vì nhu cầu của Nhà nước
mà phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội.
Ba là, việc bồi thường về đất thực hiện không căn cứ vào giá chuyển
nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường (trao đổi ngang giá) mà dựa vào giá đất

cụ thể do Nhà nước xác định tại thời điểm thu hồi đất;
Bốn là, về chủ thể bồi thường. Nhà nước do xã hội thiết lập nên được
Nhân dân trao cho quyền lực nhà nước để quản lý xã hội. Khi thu hồi đất sử
dụng cho các mục đích chung của xã hội thì Nhà nước thay mặt công đồng xã
hội (người được thụ hưởng lợi ích được tạo ra do việc thu hồi đất) đứng ra
thực hiện bồi thường cho người sử dụng đất.
Năm là, về nguyên tắc bồi thường. Khác với nguyên tắc bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự là nguyên tắc tự nguyện thoả thuận
giữa người có trách nhiệm bồi thường và người được bồi thường; chỉ khi nào
các bên không tự thoả thuận được với nhau thì mới yêu cầu các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền can thiệp giải quyết. Trong thu hồi đất, việc bồi thường
chỉ được thực hiện khi người bị thu hồi đất thỏa mãn đầy đủ các điều kiện về

12


bồi thường do pháp luật đất đai quy định và giá bồi thường là giá đất cụ thể
do Nhà nước xác định tại thời điểm thu hồi đất.
* Đặc điểm pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, tính quy phạm phổ biến. Pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất là nói đến những quy phạm về hỗ trợ.
Thứ hai, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức. Tính xác định chặt
chẽ về mặt hình thức là sự thể hiện nội dung pháp luật hỗ trợ trong những
hình thức nhất định
Thứ ba, pháp luật về hỗ trợ do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện. Sự bảo đảm bằng Nhà nước là một thuộc tính của pháp luật về hỗ trợ.
Pháp luật về hỗ trợ do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Điều đó có
nghĩa là Nhà nước đã trao các quy phạm pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất, tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và mọi công
dận, tức là pháp luật về hỗ trợ mới trở thành quy tắc xử sự có tính bắt buộc

chung.
1.1.2. Các hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.2.1. Bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng
Như phần trên đã đề cập, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có
thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối hoặc đất đai là địa bàn cư trú, sinh sống ổn định lâu dài của con
người hay là nơi xây dựng nhà xưởng, địa điểm sản xuất - kinh doanh v.v. Do
đó, Nhà nước thu hồi đất dẫn đến việc người bị thu hồi đất mất đất sản xuất
hoặc mất chỗ ở dẫn đến không có “công ăn việc làm”, không có thu nhập ...
cuộc sống bị xáo trộn, đảo lộn gặp rất nhiều khó khăn. Để giúp người sử dụng
đất vượt qua khó khăn, nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất thì hình
thức bồi thường được thực hiện trước tiên là “thu hồi đất được bồi thường
bằng đất”. Đây là hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mang tính

13


bền vững và dường như ít gây nhiều xóa trộn về sản xuất và đời sống đối với
người bị thu hồi đất. Nhà nước cũng không phải mất quá nhiều kinh phí chi
cho việc đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm mới; hỗ trợ đời sống gặp khó khăn;
hỗ trợ cho việc ngưng trệ sản xuất - kinh doanh; hỗ trợ di chuyển chỗ ở, di
chuyển mồ mả v.v. Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức bồi thường này đi kèm
với việc thỏa mãn các điều kiện sau đây:
Một là, địa phương nơi bị thu hồi đất phải có quỹ đất đối ứng (bao gồm
đất nông nghiệp, đất ở, đất phi nông nghiệp) để thực hiện việc bồi thường
bằng đất. Có nghĩa là muốn bồi thường về đất thì Nhà nước phải có quỹ đất
để bù vào số đất bị thu hồi.
Hai là, người bị thu hồi đất chấp nhận lựa chọn hình thức bồi thường
bằng đất.
Ba là, việc bồi thường bằng đất được thực hiện dựa trên nguyên tắc cơ

bản là bồi thường bằng việc giao một diện tích khác có diện tích bằng với
diện tích đất bị thu hồi và có cùng mục đích sử dụng.
1.1.2.2. Bồi thường bằng tiền
Bên cạnh hình thức bồi thường bằng đất, người bị Nhà nước thu hồi đất
được bồi thường bằng tiền. Đây là hình thức bồi thường trong điều kiện Nhà
nước không còn quỹ đất để có thể bồi thường bằng đất cho người bị thu hồi
đất. Hình thức bồi thường này ngày càng trở nên phổ biến trong bối cảnh quỹ
đất do Nhà nước trực tiếp quản lý ngày càng khan hiếm. Việc bồi thường
bằng tiền khi Nhà nước thu hồi đất dường như chỉ giải quyết được các lợi ích
trước mắt mà chưa mang tính bền vững. Điều này có nghĩa là Nhà nước mới
chỉ bồi thường những thiệt hại thực tế, trực tiếp mà có thể xác định “định
lượng” được do việc thu hồi đất gây ra. Do bị mất đất sản xuất, mất đất ở v.v
nên Nhà nước phải giải quyết các vấn đề xã hội của việc thu hồi đất như đầu
tư vốn để đào tạo chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm mới cho người nông

14


dân mất đất nông nghiệp; trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ di chuyển chỗ ở v.v. Trên
thực tế việc giải quyết vấn đề sinh kế, an sinh xã hội có nguyên nhân từ việc
thu hồi đất thực hiện không hiệu quả, mang tính hình thức
1.1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Một là, Nhà nước giải quyết hậu quả và các hệ quả liên quan do việc thu
hồi đất gây ra.
Do đó, chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện việc bồi thường không ai khác,
đó là Nhà nước. Trong thu hồi đất, người sử dụng đất là người bị ảnh hưởng trực
tiếp đầu tiên các hậu quả do việc thu hồi đất gây ra. Mặt khác, thu hồi đất nhằm
giải quyết nhu cầu đất đai cho các mục đích chung song nó cũng để lại các hậu
quả về kinh tế - xã hội như diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp “không có công
ăn, việc làm”; đình trệ hoạt động sản xuất - kinh doanh của một số doanh

nghiệp; một bộ phần người dân mất chỗ ở; phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo
dài liên quan đến bồi thường; phát sinh các tệ nạn xã hội do bị mất việc làm v.v.
Những vấn đề này nếu không được giải quyết sẽ không chỉ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất mà còn khiến các nguy cơ
xung đột xã hội tồn tại âm ỉ kéo dài đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội.
Hai là, Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết tạo ra “công ăn việc làm”,
tạo ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người. Mặt khác, đất đai còn là
địa bàn phân bố các khu dân cư và tạo không gian nền tảng cho quá trình sản
xuất, sinh hoạt của con người. Khi bị thu hồi đất, người sử dụng đất mất điều
kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển. Hậu quả là cuộc sống bị
đảo lộn, rơi vào hoàn cảnh khó khăn, mất chỗ ở hoặc mất tư liệu sản xuất v.v.
Do đó, bồi thường có ý nghĩa là bù đắp các tổn thất, thiệt hại do việc bị thu
hồi đất gây ra góp phần giúp người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định cuộc
sống và sản xuất.
Ba là, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất giúp đẩy nhanh tiến độ triển

15


khai các dự án đúng thời gian, kế hoạch đề ra; không làm lỡ cơ hội, đầu tư
kinh doanh của doanh nghiệp, nhà đầu tư và góp phần làm tăng tính hấp dẫn
của môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta.
Bốn là, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất góp phần nâng cao hiệu quả
thực hiện an sinh xã hội trong việc đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị mất đất nông nghiệp. Điều này
có nghĩa là thông qua hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vừa giải
quyết được “bài toán” đất đai đáp ứng nhu cầu sử dụng đất vì mục đích quốc
phòng - an ninh; phát triển KT - XH vì lợi ích quốc gia, công cộng vừa đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Thông qua hoạt động
bồi thường cho người bị thu hồi đất, Nhà nước phát đi thông điệp đảm bảo

không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển đất nước; không hy sinh
lợi ích của người nông dân cho sự phát triển của đất nước. Có như vậy mục
tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng và văn minh” mới đạt
được và chất lượng tăng trưởng mới mang tính bền vững v.v.
1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất
1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất
Quan hệ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được điều chỉnh bằng pháp
luật hay nói cách khác pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ra
đời dựa trên những lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà
nước là người đại diện chủ sở hữu.
Toàn dân là chủ sở hữu đối với đất đai và Nhà nước là người đại diện
chủ sở hữu trở thành một nguyên tắc cơ bản của Luật Đất đai năm 2013. Vì
vậy, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cần thiết phải được

16


điều chỉnh bằng pháp luật nhằm quy định rõ quyền và nghĩa vụ đối với Nhà
nước và người sử dụng đất trong mối quan hệ quản lý và sử dụng đất đai. Xác
định điều kiện, đối tượng, nguyên tắc, trình tự, thủ tục và các trường hợp bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất v.v. Với vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai, Nhà nước có toàn quyền trong việc thu hồi đất, xác định giá đất bồi
thường; xây dựng phương án bồi thường và thực hiện việc bồi thường cho
người bị thu hồi đất v.v. Nếu không có các quy định của pháp luật để điều
chỉnh những hoạt động này của Nhà nước thì không ai có thể khẳng định
được việc không có sự lợi dụng vai trò này của cán bộ, công chức nhà nước
khi thực hiện chức trách, nhiệm vì lợi ích nhóm hay tham nhũng, tiêu cực …

Thứ hai, xuất phát từ vai trò của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất trong đời sống xã hội.
Như chúng ta đã biết, pháp luật có những đặc trưng mà các biện pháp
quản lý khác không có được bao gồm tính quy phạm, tính cưỡng chế, tính bắt
buộc chung và tính thích ứng. Hơn nữa, pháp luật còn có vai trò kiến tạo,
đồng hành v.v. Vì vậy, pháp luật trở thành phương thức quản lý xã hội có
hiệu quả nhất. Trong khi đó, quan hệ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có
tính chất rất phức tạp. Nó giải quyết mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa Nhà
nước, người bị thu hồi đất, cộng đồng xã hội và chủ thể trực tiếp được thụ
hưởng từ việc thu hồi đất. Trong trường hợp này, pháp luật thể hiện vai trò là
một đại lượng công bằng trong việc xử lý mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ
thể khác nhau trong thu hồi đất cho các mục tiêu phát triển đất nước.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
Việt Nam là một trong số không nhiều các quốc gia đang phát triển tham
gia đàm phán, ký kết với các cường quốc về kinh tế, với các định chế tài
chính - tiền tệ quốc tế lớn như đàm phán ký kết Hiệp định FTA với Cộng
đồng Châu Âu (EU), với Nhật Bản, với Hàn Quốc và Hiệp định Đối tác

17


thương mại tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTPP) v.v. Một trong những
yêu cầu của các đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam là phải có hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ. Để có thể triển khai hoạt động đầu tư tại
Việt Nam thì một trong những vấn đề được các nhà đầu tư nước ngoài quan
tâm là tính minh bạch và sự an toàn pháp lý trong việc tiếp cận đất đai cũng
như mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư kinh doanh. Điều này có nghĩa là
việc nghiêm chỉnh thực thi quyết định thu hồi đất, bàn giao mặt bằng nhanh
chóng có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư kinh
doanh. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ đạt hiệu quả mong muốn

khi nó được điều chỉnh bởi pháp luật đất đai.
Thứ tư, kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
trên thế giới cho thấy sở dĩ các nước này giải quyết “bài toán đất đai” cho các
nhu cầu phát triển khi có hệ thống pháp luật bồi thường về đất thống nhất,
đồng bộ. Điều này khắc phục sự tùy tiện, tiêu cực trong việc thực hiện bồi
thường và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất. Việt Nam
đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định
hướng XHCN và hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, kinh
nghiệm của các nước phát triển về điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có giá trị tham khảo bổ ích đối với Việt
Nam nếu muốn thực hiện thành công mục tiêu nêu trên v.v.
1.2.2. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định cơ bản
của pháp luật đất đai. Khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật đất đai song lại
không được giải thích một cách chính thức; thậm chí tại Điều 3. Giải thích
thuật ngữ của Luật Đất đai năm 2013 cũng không đưa ra giải thích hiểu thế

18


nào về khái niệm này. Dựa trên quan niệm về pháp luật của lý luận nhà nước
và pháp luật cũng như tìm hiểu nội dung các quy định về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành có thể hiểu khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
như sau: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm
tổng hợp các quy phạm quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm
bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm giải

quyết hài hòa các lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ đầu tư và của người
bị thu hồi đất tại Việt Nam.
Bên cạnh các đặc điểm chung của pháp luật đất đai thì pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất còn có một số đặc điểm riêng cơ bản
sau đây:
Một là, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một
chế định thuộc lĩnh vực pháp luật công. Nó bao gồm các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước - đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thực hiện thu hồi đất và thay mặt xã hội
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người sử dụng đất do việc thu hồi đất
gây ra - với người sử dụng đất. Ở đây cần nhấn mạnh một điểm là pháp luật
chỉ cho phép Nhà nước can thiệp, hạn chế QSDĐ với tư cách là tài sản đặc
biệt của người sử dụng đất vì mục đích chung của xã hội bao gồm sử dụng
vào mục đích quốc phòng - an ninh; phát triển KT - XH vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Nhà nước thực hiện bồi thường dựa trên giá đất cụ thể do Nhà
nước quyết định. Người sử dụng đất phải chấp hành quyết định thu hồi đất
nếu không thực hiện sẽ bị Nhà nước cưỡng chế v.v.
Hai là, cho dù bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một chế
định thuộc lĩnh vực pháp luật công song nó được xây dựng dựa trên nguyên

19


tắc cơ bản là giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước và
người sử dụng đất. Quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất ngày
càng được pháp luật quan tâm bảo hộ. Điều này thể hiện:
Những tổn thất nảy sinh liên quan đến thu hồi đất không chỉ dừng lại ở
những thiệt hại về vật chất, về giá trị tài sản bị thu hồi trên thực tế mà còn liên
quan đến những thiệt hại phi vật chất mà người dân phải gánh chịu khi Nhà
nước thu hồi đất tại thời điểm thu hồi và thời gian dài sau đó. Bởi việc thu hồi

đất dẫn đến sự biến động rất lớn trong hoạt động sản xuất và đời sống của
người bị thu hồi. Họ bị mất đất với tư cách là tư liệu sản xuất (trong trường
hợp thu hồi đất nông nghiệp) dẫn đến việc không có “công ăn việc làm” hoặc
đình trệ sản xuất - kinh doanh hay bị mất chỗ ở, nơi cư trú v.v. Do đó khó
tránh khỏi những tác động đến tâm lý của người dân. Nếu không giải quyết ổn
thỏa lợi ích của người bị thu hồi đất thì chế định pháp luật này không đi vào
cuộc sống và không được Nhân dân tự giác chấp hành.
Ba là, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ thể hiện tính chất bồi thường đơn
phương dường như không dựa hoàn toàn vào sự tự do thỏa thuận ý chí của
các bên được ghi nhận trong các điều khoản của hợp đồng dân sự. Theo đó,
khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng - an ninh; phát
triển KT- XH vì lợi ích quốc gia, công cộng thì với tư cách là tổ chức được xã
hội bầu ra, thay mặt xã hội thực hiện việc bồi thường các thiệt hại cho người
sử dụng đất do bị lấy đất dùng cho các mục đích chung của xã hội, của cộng
đồng …
1.2.3. Yêu cầu đối với pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
Thứ nhất, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất phải
đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Pháp chế XHCN là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của quản lý

20


nhà nước nói chung và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.
Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước và mọi người dân phải tuân thủ pháp luật trong hoạt động,
hành xử của mình. Không ai có quyền vi phạm pháp luật hoặc làm trái quy
định của pháp luật để mang lại lợi ích cho mình mà làm phương hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác. Đảm bảo tính pháp chế

XHCN trong thực thi pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu như sau:
Một là, đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước thực
hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng phải tuân thủ, thực hiện đúng
quy định của pháp luật trong việc xây dựng phương án bồi thường, trình tự
thủ tục bồi thường; tôn trọng và tạo điều kiện để phát huy quyền làm chủ của
người dân; đảm bảo công khai minh bạch và bình đẳng trong thực thi chế định
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất v.v.
Hai là, đối với người sử dụng đất nói chung và người bị thu hồi đất nói
riêng phải tuân thủ pháp luật trong việc chấp hành quyết định thu hồi đất;
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
đúng quy định của pháp luật cũng như thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất do pháp luật đất đai quy định v.v.
Thứ hai, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo
công khai, minh bach; công bằng, khách quan.
Công khai, minh bạch là một thuộc tính không thể thiếu được trong một
nền quản trị đất đai hiện đại cũng như trong một hệ thống pháp luật của một
nhà nước dân chủ. Công khai minh bạch không chỉ giúp người dân được tiếp
cận, hiểu biết pháp luật; từ đó giúp họ chấp hành pháp luật tốt hơn mà còn là
điều kiện thực hiện quyền giám sát của Nhân dân đối với hoạt động quản lý
đất đai nói chung và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Chí có
thực hiện tốt công khai minh bạch từ mọi hành vi vi phạm pháp luật, tham

21


×