Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá Thực tiễn áp dụng tại công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hoa Đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.1 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA - THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH
MTV HOA ĐẠI

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT THƯƠNG MẠI

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS. Nguyễn Thái Trường

Nguyễn Duy Tùng

Bộ môn : Luật chuyên ngành

Lớp: K47P1

HÀ NỘI, 2017
1
1


TÓM LƯỢC


Trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực
hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Đồng thời, hoạt động mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị… đã
giúp cho các mối quan hệ về kinh tế, dân sự, thương mại phát triển đa dạng và không
ngừng tăng thêm về số lượng cũng như chất lượng của các hợp đồng. Để tạo ra môi
trường pháp lý ổn định, bảo đảm an toàn pháp lý cho các cá nhân và tổ chức khi tham
gia quan hệ hợp đồng thì cần phải bảo đảm bằng một hệ thống pháp luật, trong đó bao
gồm các quy định pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói
riêng. Nội dung cơ bản của khóa luận được tóm lược như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH MTV Hoa Đại.
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài, tác giả đã có một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu
và học tập nghiêm túc để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp của mình. Đầu tiên, tác
giả xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn –

2


ThS. Nguyễn Thái Trường đã nhiệt tình hướng dẫn để tác giả có thể hoàn thành bài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu Nhà trường, Khoa Kinh tế - Luật, các Thầy giáo, Cô
giáo trường Đại học Thương Mại đã truyền đạt những kiến thức pháp luật quý báu
đồng thời tạo điều kiện giúp tác giả có thể hoàn thành chương trình học Đại học và hỗ

trợ sự nghiệp của mình sau này
Xin cảm ơn Giám đốc và các nhân viên trong Công ty Trách nhiệm hữu hạn một
thành viên Hoa Đại đã tận tình chỉ bảo và cho phép tác giả được thực tập tại đó cũng
như cung cấp những số liệu, thông tin cần thiết để giúp tác giả hoàn thành bài khóa
luận tốt nghiệp này
Tuy nhiên, do trình độ kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên
bài khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được ý
kiến đóng góp từ các thầy giáo, cô giáo để bài khóa luận được hoàn thiện hơn nữa.
Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Duy Tùng

MỤC LỤC

BLDS
LTM
PL HĐKT
TNHH
MTV

3

: Bộ luật dân sự
: Luật thương mại
: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
: Trách nhiệm hữu hạn
: Một thành viên



4


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.

Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO năm
2007, luật pháp Việt Nam đã có những thay đổi căn bản nhằm thu hẹp khoảng cách
giữa phap luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài, tạo sân chơi bình đẳng cho các bên
tham gia vào hoạt động thương mại tại Việt Nam. Quốc hội Việt Nam đã thông qua
nhiều đạo luật mới trong đó có Bộ luật dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 thay thế
cho Bộ luật dân sự và luật thương mại cũ đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế. Đây được xem là sự thay đổi lớn và cần thiết với hệ thống pháp luật
Việt Nam nói chung và pháp luật về hợp đồng nói riêng.
Như chúng ta đã thấy, trong đời sống xã hội, hợp đồng là một hình thức thiết lập
quan hệ giữa người với người. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã
chứng minh đó là một hình thức pháp lý thích hợp và hiệu quả. Khi nền kinh tế phát
triển thì việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng ngày càng cần thiết và hoàn
thiện. Mua bán hàng hoá là hoạt động chính trong hoạt động thương mại, là cầu nối
giữa sản xuất và tiêu dùng và không chỉ giới hạn ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn mở
rộng ra cả các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. Khi hai bên tiến hành mua bán
hàng hoá với nhau thì nảy sinh một hình thức được hai bên ký kết có thể bằng miệng,
bằng văn bản, bằng email, fax… mà người ta gọi là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp
đồng mua bán hàng hoá rất phong phú, được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật và khá
phổ biến trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Trong hệ
thống pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể về sự điều chỉnh quan hệ hợp
đồng ngay từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, tiếp đến là Bộ luật Dân sự (BLDS)
1995, Luật Thương mại (LTM) 1997… và cho đến nay là hai văn bản pháp luật mới
được ban hành BLDS 2015 và LTM 2005.
Như vậy, có thể nói hợp đồng mua bán hàng hoá là một nội dung không thể thiếu

trong hoạt động kinh doanh. Việc nắm vững, hiểu rõ các quy định của pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hoá sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện hợp đồng
được thuận lợi, an toàn và hiệu quả, tránh các tranh chấp, rủi ro đáng tiếc. Khi đến
thực tập tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) Hoa Đại, vấn
đề ký kết và thực hiện hợp đồng của công ty đã thu hút sự quan tâm của tác giả, trong
đó hợp đồng mua bán hàng hoá chiếm tới 80% tổng số các loại hợp đồng tại Công ty.
Việc ký kết, thực hiện hợp đồng phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật mới có
thể giúp gắn chặt mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên,
góp phần tăng cường hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế. Do
5


nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa, nên việc tìm hiểu pháp
luật hợp đồng là điều cần thiết đối với công ty. Hơn nữa, thực tiễn việc áp dụng pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty còn nhiều hạn chế và cần nhiều giải
pháp giúp công ty cải thiện trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng. Vì vậy, việc
nghiên cứu áp dụng pháp luật hợp đồng trên khía cạnh giao kết, thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hoa Đại là một vấn
đề không chỉ có ý nghĩa với riêng công ty mà còn đối với nhiều doanh nghiệp khác.
Đây chính là lý do khiến tác giả lựa chọn đề tài: "Pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hoa
Đại " để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Từ trước đến nay đã có rất nhiều các công trình tiêu biểu nghiên cứu về pháp luật
hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng.
Như chúng ta đã biết, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa được hình thành
và phát triển với các quy định tại Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, sau đó là
BLDS năm 1995, LTM năm 1997 và hai văn bản pháp luật hiện hành là LTM 2005 và
BLDS 2005. Vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, dưới những góc độ khác nhau.

Trên thực tế đã có nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về các đề tài
liên quan đến hợp đồng, như :
- Luận văn Thạc sỹ “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài - Kinh nghiệm so sánh với luật Trung Quốc và những định
hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam” của tác giả Trương Thị Bích, Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài và
phân tích một cách có hệ thống về thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Đồng thời, luận văn còn so
sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài.Từ thực tiễn ấy luận văn đề xuất các kiến nghị hoàn
thiện cho pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài.
- Luận văn Thạc sỹ “Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Hường, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010 đã
nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền tự do giao kết hợp đồng. Bên cạnh
đó, luận văn còn phân tích những khía cạnh cơ bản của nguyên tắc quyền tự do giao

6


kết hợp đồng và các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này và đề xuất những kiến
nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về tự do giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
- Bài viết “Hợp đồng: thuật ngữ và khái niệm” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh
được đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 08/2006. Bài viết nói về vấn đề xác
định các thuật ngữ liên quan đến hợp đồng. Thêm vào đó, bài viết cũng đưa ra hai yếu
tố: sự thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý. Hợp đồng thương mại không
được hình thành nếu không có sự thỏa thuận giữa các bên hoặc nếu sự thỏa thuận
không nhằm mục đích tạo lập hệ quả pháp lý, tức làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân
sự. Tuy nhiên bài viết mới chỉ sơ lược về những yếu tố có liên quan, mà chưa đi cụ thể

từng vấn đề có liên quan, nhất là vấn đề quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia
hợp đồng thương mại.
Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ nghiên cứu hợp đồng ở một số khía
cạnh, lĩnh vực nào đó mà chưa luận giải một cách đầy đủ. Vì vậy bài khóa luận này sẽ
đi sâu phân tích cụ thể vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng theo luật hiện hành và áp
dụng cụ thể vào công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hoa Đại. Từ đó, chỉ ra
các bất cập và đưa ra giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về hợp đồng
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của hợp đồng mua bán hàng
hóa và giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai, các vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm nguyên tắc
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, thời điểm có hiệu lực và điều
kiện có hiệu lực của giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ ba, đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa, trên cơ sở liên hệ thực tiễn tại Công ty TNHH MTV Hoa Đại.
Thứ tư, nêu ra được một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến
hợp đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt là việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
trong Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005. Bên cạnh đó, khóa luận cũng
kết hợp phân tích thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH MTV Hoa Đại nhằm làm rõ hơn
những bất cập, thiếu sót để từ đó đưa ra một số kiến nghị trong các quy định của Bộ
7



luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 về việc giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Với đề tài đã chọn, tác giả muốn làm rõ các quy định mới của pháp luật về giao
kết hợp đồng bằng cách phân tích thực trạng pháp luật và thực trạng thi hành trong
việc giao kết hợp đồng, trên cơ sở những ưu điểm và tồn tại để đưa ra các kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Do vậy, mục tiêu mà khóa luận hướng tới là đưa ra các kiến nghị, đề xuất để
hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa để giúp cho doanh
nghiệp khi giao kết hợp đồng tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật và nâng cao
thực thi luật pháp về trình tự, thủ tục, nội dung và hình thức giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.
4.3 Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung, khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa trên cơ sở phân tích Luật Thương mại 2005 và Bộ luật
Dân sự 2015 đối với việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, từ đó thấy được những
bất cập hiện có để đưa ra kiến nghị giúp hoàn thiện Luật Thương mại 2005 nói riêng
và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung.
Về không gian, khóa luận nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của Luật
Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 hướng đến đối tượng chính là hợp đồng
mua bán hàng hóa trong doanh nghiệp, ngoài ra khóa luận còn có sự đối chiếu với các
quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và tham chiếu tới một số Luật Thương mại trên thế
giới
Về thời gian, khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa thương mại từ thời điểm Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực nhưng có sự đối
chiếu với Bộ luật Dân sự 2005.
5 Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là Chủ nghĩa Mác Lênin về duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về nền kinh tế thị trường, về hợp đồng mua bán hàng hóa, về giao kết hợp

đồng mua bán hàng hóa của các pháp nhân trong điều kiện tự do hóa thương mại và
hội nhập kinh tế quốc tế cũng là kim chỉ nam cho phương pháp luận nghiên cứu của đề
tài.
Ở chương 1 của khóa luận tác giả sử dụng phương pháp phân tích các vấn đề
chung về hợp đồng mua bán, chủ thể, đối tượng, hình thức và nội dung của hợp đồng.
Dựa trên phương pháp lý thuyết kết hợp với các phương pháp thực tiễn như quan sát,
8


điều tra, tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn để có sự nhận định và quan điểm đánh giá
những điểm đạt được và những bất cập trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật
liên quan tới các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam liên quan tới giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa. Đến chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm
làm rõ những quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, có sự
đối chiếu với luật cũ mà cụ thể ở đây là Bộ luật Dân sự 2005 qua đó thấy được những
điểm mới so với luật cũ cũng như bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành. Ở
chương 3, tác giả đã sử dụng phương pháp suy diễn và tổng hợp ý kiến để đưa ra
những kiến nghị, đóng góp để hoàn thiện được vấn đề còn tồn tại từ phía công ty cũng
như trong công tác hoàn thiện pháp luật Nhà nước.
6 Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Bố cục bài khóa luận ngoài phần mở đầu và kết luận thì gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH MTV Hoa Đại.
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VẤN ĐỀ

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Một số khái niệm và đặc điểm cơ bản liên quan đến pháp luật giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa
Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa

1.1.



Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
9


Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận của các chủ thể
kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể sử dụng
pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các
chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chung của xã hội.
Căn cứ theo khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì hoạt động “mua bán hàng
hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền
sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận thanh toán; người mua có nghĩa vụ thanh
toán cho người bán và nhận hàng hóa theo thỏa thuận”. Hoạt động mua bán hàng hóa
được thể hiện dưới hình thức pháp lý là các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ
mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh – thương mại là một
dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Theo Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp
đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở
hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”
• Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
- Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa

Theo Luật Thương mại 2005, các chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là
thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương nhân.
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm
tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.” Thương nhân là cá nhân bao gồm các
hộ kinh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách
thường xuyên và độc lập. Thương nhân là tổ chức bao gồm các tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp có thể bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế khác.
Các thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các
địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
- Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định về hình thức của hợp đồng mua
bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi
cụ thể của các bên. Văn bản hợp đồng có thể do các bên thỏa thuận hoặc lập theo hình
thức có sẵn, phụ lục hợp đồng cũng được coi là một trong những hình thức của hợp
đồng và có hiệu lực như hợp đồng. Trong trường hợp pháp luật có quy định về hình
thức của hợp đồng như: văn bản công chứng chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép
thì phải tuân theo quy định đó.
10


Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Khoản 2 Điều 3 Luật
Thương mại 2005 quy định:
“Hàng hóa bao gồm:Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong
tương lai; Những vật gắn liền với đất đai”.
Hàng hóa trong hợp đồng thương mại có thể hướng đến việc giao và nhận hàng
hóa ở một thời điểm trong tương lai. Hàng hóa trong các giao dịch này không phải là
những hàng hóa thương mại thông thường mà phải là những loại hàng hóa nằm trong

danh mục hàng hóa giao dịch tại Sở giao dịch do Bộ trưởng Bộ Công thương quy định
và đã được quy định cụ thể ở Điều 64, Điều 66 và 68 Luật Thương mại 2005.
- Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng nói chung là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hóa là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ
của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng bắt buộc phải bao gồm những nội dung chủ yếu nào là tùy thuộc vào
quy định của pháp luật từng quốc gia. Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng
mua bán có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng
của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện và phòng ngừa các tranh chấp có
thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật Thương mại Việt Nam không quy
định hợp đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm nội dung bắt buộc nào. Tuy nhiên, ta
có thể thấy rằng, một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường phải chứa đựng sự
thỏa thuận về đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa
điểm nhận giao hàng.
Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi nhưng điều
khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của pháp
luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa thuận
trong hợp đồng.
 Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
-

Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 đều không đưa ra khái niệm cụ
thể về giao kết hợp đồng là gì, tuy nhiên theo quy định liên quan đến giao kết hợp
đồng từ Điều 385 đến Điều 408 của Bộ luật Dân sự 2015 có thể thấy giao kết hợp
đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự
nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự. Từ đó, giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa cũng chính là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo


11


những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ mua bán hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa muốn có hiệu lực được pháp luật bảo vệ thì
phải tuân theo những quy định của pháp luật về các điều khoản có hiệu lực của hợp
đồng.
• Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thường thì các bên giao kết


phải có đầy đủ năng lực hành vi.
Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, tức là nó xuất phát từ

ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận của hợp đồng đó.
• Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức của xã hội. Đối tượng
của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên
cạnh đó nội dung của hợp đồng cần cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng
phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thực hiện
được thì hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù
hợp với những quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.
Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
 Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa


Cơ sở chính trị


Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ năm 1975, Việt Nam bắt tay vào
công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước ở cả hai miền Nam – Bắc. So với các nước
trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam có nền kinh tế chính trị ổn định. Điều này
đã tạo điều kiện thuận lợi để nước ta hội nhập với các quốc gia trên thế giới. Kinh tế
và sự giao lưu quốc tế ngày càng phát triển kéo theo cho sự phát triển của các quan hệ
xã hội, các quan hệ dân sự và thương mại. Hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa ngày
càng phát triển, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ngày càng trở nên phức tạp
hơn. Trước tình hình đó, Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh
những quan hệ trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động này.
• Cơ sở kinh tế:
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã mở rộng quan hệ
kinh tế với nhiều quốc gia, nước ta cũng đã tham gia và trở thành thành viên chính
thức của nhiều tổ chức kinh tế lớn như WTO, AFTA, APEC... Ngoài ra nước ta cũng
ký kết nhiều văn bản hợp tác kinh tế song phương, đa phương với nhiều quốc gia trên
thế giới. Vì thế hệ thống pháp luật Việt Nam liên tục được cải cách để phù hợp với quy
12


định chung của quốc tế và sự đa dạng của các hoạt động thương mại. Hoạt động mua
bán hàng hóa ngày càng phát triển và mang lại nguồn thu dồi dào cho nền kinh tế quốc
dân vì vậy cần thiết phải có một hành lang pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa để họ yên tâm hơn
trong quá trình giao kết tránh những thiệt hại không đáng có cho cả hai bên.
• Cơ sở xã hội:
Trong nhà nước pháp quyền, mọi quan hệ xã hội đều cần được điều chỉnh bởi
pháp luật. Quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa là một phần của quan hệ xã hội. Hoạt
động giao kết hợp đồng cũng làm phát sinh ra những mối quan hệ giữa các chủ thể
tham gia. Thực chất của hoạt động này là thỏa thuận giữa các bên nhằm thực hiện mục
tiêu nhất định, nếu như bên đề nghị giao kết hợp đồng hướng tới mục tiêu bán được

hàng hóa thì bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng muốn mua được hàng hóa mà
họ mong muốn. Việc ban hành các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa sẽ đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia, từ đó các mối quan hệ giữa mọi
cá nhân và tổ chức trong xã hội sẽ được xây dựng, duy trì và phát triển.
 Nội dung của pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Việc áp dụng luật nào để điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được
thực hiện theo nguyên tắc chung, đó là: Bộ luật Dân sự là căn cứ chung, mang tính
nguyên tắc cho hợp đồng mua bán hàng hóa; những quy định về hợp đồng mua bán
hàng hóa ở các văn bản pháp luật chuyên ngành thì được ưu tiên áp dụng trước Bộ luật
Dân sự. Như vậy, khi điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa, trước hết dùng luật
chuyên ngành là Luật Thương mại năm 2005, trong trường hợp nội dung cần điều
chỉnh mà luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng các quy định của Bộ luật Dân
sự.
Sau đây là một số nội dung cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015 được áp dụng để
điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa hiện nay ở Việt Nam.


Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng:
Theo Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc
tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị).
2. Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề
nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời
13


-


thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng
nếu có thiệt hại phát sinh.”
Vậy đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã đề nghị được xác
định cụ thể. Tùy thuộc theo nội dung mà có thể là lời chào bán hàng hóa hoặc chào
mua hàng hóa, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét có quyết định chấp
nhận hay không (thời hạn này tùy vào trường hợp có thể là do hai bên thỏa thuận hoặc
do một bên ấn định).
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực (Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015)
được xác định do bên đề nghị ấn định hoặc khi bên được đề nghị nhận được đề nghị
đó. Như vậy trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, bên đề nghị có thể ấn định
thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực hoặc khi bên được đề nghị nhận được
lời đề nghị. Thời điểm được xác định là bên được đề nghị nhận được lời đề nghị:
Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển
đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;
Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức
khác.
Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng: Lời đề nghị giao kết hợp đồng chưa
phải là hợp đồng nhưng đã có tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên,
theo Điều 389 Bộ Luật Dân sự 2015 thì bên đề nghị vẫn có thể thay đổi hoặc rút lại đề
nghị khi bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị.
Ngoài ra, nếu như bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng
trước đó thì được coi là hình thành nên một đề nghị mới. Và nếu như chính bên được
đề nghị muốn thay đổi nội dung đề nghị giao kết hợp đồng trước đó thì được xem như
bên được chào hàng đưa ra một lời chào hàng mới. (Điều 392 Bộ luật Dân sự 2015)
Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng:
Theo Điều 390 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này

trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước
khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.”
Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng hủy bỏ đề nghị giao kết ban đầu do đã
nêu ra quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị trước khi bên
được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

14


Như vậy trong quan hệ mua bán hàng hóa, bên chào hàng phải nêu rõ quyền
được hủy bỏ lời chào hàng của mình trong chào hàng và phải thông báo cho bên được
chào hàng trước khi bên được chào hàng trả lời chấp nhận.
Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng:
Theo Điều 391 Bộ luật Dân sự 2015 thì đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt
trong trường hợp sau:
“1. Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng;
2. Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận;
3. Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
4. Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
5. Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
6. Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời.”
Việc chấm dứt đề nghị kết hợp đồng mua bán hàng hóa – chấm dứt chào hàng
cũng tuân theo những quy định trên.
• Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị
và đồng ý tiến hành toàn bộ nội dung hợp đồng với bên đã đề nghị (Điều 393 Bộ luật
Dân sự 2015).
Theo Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hạn chấp nhận giao kết hợp
đồng như sau:

- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi
được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời
khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả
lời.
- Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà
bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý
với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
- Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc
qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không
chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý
• Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa

15


Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phần trong số hợp đồng dân sự nên thời
điểm giao kết hợp đồng được Bộ luật Dân sự 2015 điều chỉnh. Căn cứ theo Điều 400
Bộ luật Dân sự 2015 thì thời điểm giao kết hợp đồng có hiệu lực khi:
- Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.
Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn
đó.
- Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội
dung của hợp đồng.
- Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản
hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản. Trường hợp hợp đồng
giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp

đồng được xác định theo thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói.
• Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa

1.3.



Căn cứ theo Điều 401 Bộ luật Dân sự2015 thì hợp đồng được giao kết hợp pháp
có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên
quan có quy định khác. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận
của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện đúng theo quyền và
nghĩa vụ đã cam kết như trong hợp đồng. Nếu các bên giao kết hợp đồng không thực
hiện nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý nhất
định theo hình thức đã được thỏa thuận.
Các nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là kết quả của quá trình giao kết. Do đó, việc giao
kết hợp đồng dân sự phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Việc quy định nguyên
tắc giao kết hợp đồng nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết,
hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao kết và thiết lập quan hệ hợp đồng
hợp pháp.
Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thoả mãn được các nhu cầu về đời sống vật
chất cũng như tinh thần, Bộ luật Dân sự cho phép mọi chủ thể được quyền “tự do giao
kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể
đều có quyền tham gia giao kết bất kì một hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà
không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết
những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những hợp đồng
16





dân sự khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm
trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ
thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của
toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có
quyền “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã
hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi
là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi một chủ thể trong việc giao kết hợp đồng dân sự
nói riêng, cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép
các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng dân sự thành phương tiện
bóc lột.
Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các
bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy
lí do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế…
để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với
nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự nguyện của các bên mới
thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết
thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa
nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phải là ý chí tự nguyện của các bên hay
không là một công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế.
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì
thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần
phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: Ý chí và sự bảy tỏ ý chí.
Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi một chủ thể.

Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. Ý chí và sự bày
tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít
với nhau.
Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự
bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một hợp đồng dân sự có tuân theo
nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý chí của người giao
kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của hợp đồng mà người
đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một cách khách quan,
trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết thì việc giao kết đó mới
được coi là tự nguyện.
17


Như vậy, tất cả các hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc đe
dọa đều là những hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết.
Và vì thế, nó sẽ bị coi là vô hiệu (xem thêm Điều 122, 126, 127 Bộ Luật Dân sự 2015).
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO
KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
CÔNG TY TNHH MTV HOA ĐẠI
2.1.

Tổng quan tình hình và nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa
 Tổng quan tình hình pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới cơ chế
kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu nổi bật. Nhưng quá trình
đó gắn liền với nguy cơ tự do về Chính phủ, gian lận kinh doanh, thương mại,… Hơn
nữa, nước ta đã hội nhập vào nền kinh tế quốc tế thì càng cần Nhà nước phải có một

khung pháp lý thương mại để điều chỉnh các hoạt động thương mại đúng chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Mặc dù Bộ luật Dân sự 2015 vừa mới có hiệu lực thay thế cho Bộ luật Dân sự
2005 sửa đổi bổ sung các quy định về hoạt động mua bán hàng hóa, kèm theo quy định
của Luật Thương mại 2005 về mua bán hàng hóa nhưng hoạt động thương mại nói
chung và hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng khá phức tạp và còn nhiều vấn đề còn
tồn tại. Mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá nhân cần phải tìm hiểu, tiếp cận và nhận thức
đúng đắn các hoạt động thương mại đúng luật, nhằm hạn chế những tồn tại kinh tế
không đáng có. Việc nền kinh tế mở rộng, số lượng hợp đồng xác lập mối quan hệ
ngày càng tăng, tuy nhiên không ít hợp đồng mua bán hàng hóa lại được hình thành
không tuân theo các quy định của pháp luật khiến số vụ tranh chấp xảy ra ngày một
nhiều. Những tranh chấp này hầu hết đều bắt nguồn trước khi hình thành hợp đồng,
khi cả hai bên giao kết hợp đồng với nhau đã không thỏa thuận rõ ràng những điều
khoản cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi bên, các quy định của pháp luật
hầu như chỉ tập trung vào giai đoạn sau khi hợp đồng hình thành, còn các quá trình
giao kết trước đó lại không có nhiều chế tài áp dụng khiến quá trình giao kết có nhiều
dấu hiệu vi phạm nguyên tắc diễn ra.
Cùng với những biến đổi đa dạng của xu thế kinh tế trong xã hội hiện nay, giao
kết hợp đồng ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng bởi nếu chủ thể tham gia quan
18


hệ mua bán hàng hóa nắm rõ được những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng sẽ tạo
cho mình sự chủ động trong thỏa thuận, đảm bảo được quyền lợi của mình một cách
toàn diện nhất. Trong quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa nói
chung và vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng được rất nhiều các quy
định từ Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 điều chỉnh, tuy nhiên với sự
thay đổi không ngừng của nền kinh tế đòi hỏi những quy định mới phù hợp cùng
những chế tài áp dụng chính xác hơn.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa

• Các nhân tố chủ quan
Con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể chính của mọi hoạt động, quyết
định trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Trình
độ, năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc tốt thì sẽ đảm bảo được
kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp đề ra, cho phép việc thực hiện các hợp đồng mua
bán hàng hóa có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, nhanh nhạy với thị trường,
tận dụng các cơ hội có được và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp
đó là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, đây là
những người trực tiếp thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa. Họ trực tiếp đi giao
dịch ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa và thực hiện chúng, trong quá trình thực hiện
hợp đồng họ luôn giám sát và đôn đốc công việc cho tới khi hoàn thành. Chính vì vậy
mà họ là nhân tố quyết định hiệu quả của việc thực hiện hợp đồng.
Tài chính hay vốn là nhân tố cực kỳ quan trọng và quyết định đến sự tồn tại của
doanh nghiệp cũng như hoạt động mua bán hàng hóa. Có nguồn tài chính dồi dào sẽ
đảm bảo hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện và diễn ra liên tục. Với khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp tốt thì có thể tăng khả năng cạnh tranh bằng các biện
pháp như ứng trước tiền hàng, cho phép thanh toán chậm, đưa ra các điều khoản thanh
toán ưu đãi và dễ dàng hơn trong việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
• Nhân tố khách quan
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và chiếm một
số lượng chủ yếu trong các giao dịch dân sự. Sử dụng pháp luật là công cụ thực hiện
các giao dịch dân sự và gắn liền với các hoạt động mua bán là hợp đồng mua bán hàng
hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện nay dù ít hay nhiều,
dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử dụng hợp đồng mua bán hàng hóa như một
công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa hai bên.

19



Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, sự cân bằng các chính sách của nhà
nước, vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ, sự điều tiết và
khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế xã hội, các quyết định
bảo về người tiêu dùng, hệ thống pháp luật, sự hoàn thiện và hiện thực thi hành, chúng
có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động mua bán hàng hóa của doanh nghiệp. Các chính
sách bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm kỹ thuật sản xuất tạo
ra một hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, các hoạt động của doanh nghiệp
như sản xuất kinh doanh hay hoạt động mua bán hàng hóa đều phải dựa vào quy định
của pháp luật. Doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của pháp luật, phải thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, với xã hội và với người lao động như thế
nào là do pháp luật quy định (trách nhiệm nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi
trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, tuân thủ các
quy định khi thực hiện hợp đồng…).
2.2.
Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa
 Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về đề nghị giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa
Khi một bên muốn thiết lập một hợp đồng dân sự thì ý muốn đó phải thể hiện ra
bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có như vậy, phía đối tác mới có thể
nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết hợp đồng. Để
bên được đề nghị có thể hình dung được hợp đồng đó như thế nào, người đề nghị phải
đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Đề nghị giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ là một lời chào hàng từ một bên, tùy thuộc theo nội
dung mà có thể là lời chào bán hàng hóa hoặc chào mua hàng hóa, đồng thời đưa ra
một thời hạn để bên kia xem xét quyết định chấp nhận hay không (thời hạn này tùy
vào trường hợp có thể là do hai bên thỏa thuận hoặc do một bên ấn định).
Theo Bộ luật Dân sự 2005, đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được coi là ràng buộc
trách nhiệm đối với bên đưa ra đề nghị nếu đề nghị này được gửi tới bên được đề nghị

đã được xác định cụ thể, hiệu lực của đề nghị và chấp nhận đề nghị còn phụ thuộc vào
thời hạn được xác định trong đề nghị. Do đó làm hạn chế trường hợp đề nghị giao kết
được gửi đến nhiều chủ thể (không xác định cụ thể) nói chung. Đề khắc phục hạn chế
này, Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 đã có thay đổi đáng kể theo hướng mở rộng phạm
vi lời đề nghị: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng
và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này
20


của bên đề nghị đối với bên đã đề nghị được xác định hoặc tới công chúng. Ở đây, theo
Bộ luật Dân sự 2015, chào bán ra công chúng là hình thức chào bán công khai, không
riêng cho cá nhân hay tổ chức nào mà nổi bật nhất là hình thức quảng cáo. Khi một
thương nhân muốn chào hàng với khách hàng, ngoài sản phẩm ra thì thương nhân phải
đính kèm thông tin như: phẩm chất chất lượng sản phẩm, giá, hạn sử dụng… Khi
khách hàng chọn mua sản phẩm đó, thì hợp đồng được hình thành giữa bên thương
nhân và khách hàng. Nếu sản phẩm không được như thông tin bên thương nhân đưa ra,
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì bên thương nhân đã vi phạm hợp đồng và
hợp đồng vô hiệu do có dấu hiệu giả dối. Việc thay đổi như vậy khắc phục được hạn
chế của Bộ luật Dân sự 2005 về trường hợp đề nghị giao kết được gửi đến nhiều chủ
thể (không xác định cụ thể) nói chung và chủ thể được giao kết hợp đồng là công
chúng. Bộ luật Dân sự 2015 đang dần hoàn thiện để hướng tới bảo vệ quyền lợi của
bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Đây là một quy định đúng đắn và phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội hiện nay.
Ngoài ra, bên đề nghị giao kết không được giao kết hợp đồng với bên thứ ba nếu
như bên được đề nghị chưa trả lời khi trong đề nghị giao kết hợp đồng có thời hạn trả
lời. (Khoản 2 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015).
Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thoả thuận

hoặc có thể thông qua điện thoại… Bên cạnh đó, đề nghị giao kết còn có thể được thực
hiện bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện.
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực (Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015)
được xác định do bên đề nghị ấn định hoặc khi bên được đề nghị nhận được đề nghị
đó. Như vậy trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, bên đề nghị có thể ấn định
thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực hoặc khi bên được đề nghị nhận được
lời đề nghị. Thời điểm được xác định là bên được đề nghị nhận được lời đề nghị khi đề
nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến
trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân; đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin
chính thức của bên được đề nghị; hoặc khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết
hợp đồng thông qua các phương thức khác.
Lời đề nghị giao kết hợp đồng chưa phải là hợp đồng nhưng đã có tính chất ràng
buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên, theo Điều 389 Bộ luật Dân sự 2015 thì bên đề
nghị vẫn có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong trường hợp bên được đề nghị chưa
nhận được đề nghị hoặc bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề
nghị và điều kiện đó đã đến.

21


Ngoài ra, nếu như bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng
trước đó thì được coi là hình thành nên một đề nghị mới.
Trường hợp hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng thì theo Điều 390 Bộ luật Dân sự
2015, trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng hủy bỏ đề nghị giao kết ban đầu do đã
nêu ra quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị trước khi bên
được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Theo luật định, trong khoảng thời gian kể từ thời điểm bên được đề nghị nhận
được đề nghị cho đến kết thúc thời hạn trả lời chấp nhận, bên đề nghị sẽ không được
thay đổi lời đề nghị của mình. Việc quy định như vậy gây khó khăn cho những lời đề
nghị không có thời hạn trả lời khiến cho bên đưa ra đề nghị bị thiệt thòi.

Tuy đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc vấn đề pháp lý của luật
chuyên ngành nhưng Luật Thương mại 2005 lại không có quy định cụ thể về đề nghị
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa mà phải tuân theo luật chung là Bộ luật Dân sự
2015. Điều này dẫn tới thiếu sót vì không tìm thấy điều chuyên biệt về đề nghị giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
 Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị
và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với người đã đề nghị. Thời hạn chấp nhận
nhận giao kết hợp đồng được hiểu như sau (Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015): Khi bên
đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được
thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi
đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà
bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý
với chấp nhận đó của bên được đề nghị. Trường hợp khi các bên trực tiếp giao tiếp với
nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua phương tiện khác thì bên được
đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Ngoài ra, khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả
lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp
lý.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng sẽ là thông báo của bên được đề nghị
chuyển cho bên đề nghị về việc chấp thuận toàn bộ nội dung đã nêu trong đề nghị giao
kết hợp đồng. Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được coi là được chấp nhận nếu
bên được đề nghị chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết hợp
22


đồng. Thời hạn chấp nhận được tính từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng được

chuyển đi cho bên được đề nghị đến hết thời hạn chấp nhận đề nghị được ghi trong đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Thời điểm chấp nhận là thời điểm thông
báo chấp nhận đề nghị được chuyển cho bên đề nghị. So với Bộ luật Dân sự 2005 thì
Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung thêm về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
khi bên đề nghị không rõ thời hạn trả lời: “Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả
lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp
lý”. Rõ ràng trong luật cũ đã không có trường hợp bên đề nghị không ấn định thời hạn
trả lời đề nghị và Bộ luật Dân sự 2015 đã khắc phục hạn chế này.
Chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có thể được rút lại theo Khoản 1 Điều 389 Bộ
luật Dân sự 2015: “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao
kết hợp đồng trong trường hợp sau đây:
a) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị
có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.”
Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ đơn giản là hiểu là việc trả lời chấp
nhận của bên được đề nghị và đồng ý tiến hành giao kết hợp đồng sau đó. Tuy nhiên
quy định về việc chấp nhận nội dung của một lời đề nghị giao kết hợp đồng của Bộ
luật Dân sự 2015 còn tồn tại hạn chế. Trong Công ước viên 1980 về Hợp đồng mua
bán hàng hóa, tại Khoản 2 Điều 19 có quy định như sau: “Tuy nhiên một sự phúc đáp
có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng các điều khoản bổ sung
hay những điều khoản khác mà không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào
hàng thì được coi là chấp nhận chào hàng, trừ phi người chào hàng ngay lập tức không
biểu hiện bằng miệng để phản đối những điểm khác biệt đó hoặc gửi thông báo về sự
phản đối của mình cho người được chào hàng. Nếu người chào hàng không làm như
vậy, thì nội dung của hợp đồng sẽ là nội dung của chào hàng với những sự sửa đổi nêu
trong chấp nhận chào hàng.”, theo đó xét hành vi trả lời đề nghị giao kết hợp đồng có
khuynh hướng chấp nhận thì vẫn coi là một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nếu
bên đề nghị đồng ý. Quy định của Công ước viên 1980 linh hoạt hơn Bộ luật Dân sự
2015 ở chỗ cho phép bên được đề nghị thay đổi một vài nội dung trong lời chào hàng

nhằm đảm bảo được quyền lợi của mình khi tiến hành giao kết hợp đồng, trong khi Bộ
luật Dân sự 2015 hạn chế điều này. Bộ luật Dân sự 2015 quy định phải chấp nhận toàn
bộ nội dung chào hàng có thể khiến bên được đề nghị gặp phải một số bất lợi nhất định
khi không được thỏa thuận mà vẫn muốn giao kết hợp đồng.

23


Tuy rằng mua bán hàng hóa thuộc lĩnh vực thương mại nhưng trong Luật Thương
mại 2005 không có bất kỳ điều khoản nào quy định về việc chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa mà cũng chỉ dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự
2015. Bên nhận được chào hàng trả lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định
bằng một thông báo chấp thuận toàn bộ nội dung đã nêu trong lời chào hàng. Thời hạn
chấp nhận chào hàng được tính từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được
chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào hàng được ghi trong lời chào hàng. Trong
trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng không được xác định rõ ràng là bao nhiêu
ngày. Bên cạnh đó, thời điểm chấp nhận là thời điểm bản thông báo chấp nhận được
chuyển đi cho bên chào hàng. Đây chính là thời điểm bắt đầu trách nhiệm của bên
chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào hàng sau
khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ
trường hợp bên chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp
nhận dù quá hạn.
Bên cạnh đó Điều 396 Bộ luật Dân sự 2015 đã sửa đổi quy định trong trường hợp
bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đồng thời cũng dự liệu trường hợp bên được đề
nghị đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng sau đó có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi. Hơn nữa, điều luật này cũng đã ghi nhận thêm với những nội
dung giao kết gắn với nhân thân bên được đề nghị việc trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng không có giá trị.
 Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về điều kiện có hiệu lực của hợp

đồng mua bán hàng hóa
Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì hợp đồng đó phải đáp ứng được
những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Luật Thương mại 2005 không
có điều khoản nào quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Do đó, việc xác định các điều kiện sẽ dựa trên cơ sở khái niệm, đặc điểm của hợp đồng
mua bán hàng hóa cũng như các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự và các văn bản khác có liên quan để làm căn cứ. Điều
117 Bộ luật Dân Sự 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
24


2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.”
Theo đó, hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện
sau đây:
a) Điều kiện về nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên. Các bên tự do trong việc
thể hiện ý chí của mình, hướng đến lợi ích của các bên đồng thời không xâm phạm lợi
ích chính đáng mà pháp luật cần bảo vệ. Khi vi phạm điều kiện về tính tự nguyện, hợp
đồng có khả năng bị tuyên bố vô hiệu.
- Nguyên tắc thứ nhất: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội
Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng
được quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức

nào kể cả Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên,
sự tự do ý chí của các bên chủ thể khi giao kế hợp đồng “không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội”. Tức là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không được trái với
điều cấm của pháp luật và những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận rộng rãi.
Các bên được tự do giao kết hợp đồng xác định nội dung hợp đồng phụ thuộc vào
yêu cầu về thiện chí, công bằng và các quy tắc bắt buộc được thiết lập bởi các nguyên
tắc này.
- Nguyên tắc thứ hai: tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng
Nguyên tắc các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng
dân sự nói riêng bình đẳng với nhau cũng là một nguyên tắc cơ bản. Đặc trưng và cơ
sở của các quan hệ trao đổi là được thực hiện theo nguyên tắc thỏa thuận ngang giá.
b) Điều kiện về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng:
Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải là người có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự và đúng thẩm quyền để thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng.
Đối với thương nhân là tổ chức kinh tế thì chủ thể giao kết hợp đồng phải là đại diện
hợp pháp của thương nhân (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền). Đối
với thương nhân là cá nhân thì chủ thê giao kết hợp đồng phải là cá nhân đó hoặc
người được ủy quyền để giao kết hợp đồng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể giao kết giữa các thương nhân với nhau hoặc
giữa thương nhân và ít nhất một bên không phải là thương nhân.
Chủ thể đều là thương nhân:

25


×