TÓM LƯỢC
Bài khóa luận “Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi – Thực tiên
thực hiện tại Công ty TNHH Kim Anh” được kết cấu gồm 3 chương với các nội dung
chính sau:
Chương 1 khóa luận nghiên cứu một số khái niệm về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi. Bên cạnh đó khóa luận còn khái quát về cơ sở ban hành, nguyên tắc pháp
luật và nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
Trong chương 2, khóa luận tập trung đánh giá về thực trạng hiện nay các quy
định của pháp luật và việc áp dụng thực tiễn vào đơn vị thực tập. Việc đánh giá thực
trạng thực hiện các quy định của pháp luật nhằm rút ra những thành tựu đạt được cũng
như nhưng hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện pháp luật tại đơn vị thực tập, làm
cơ sở cho những giải pháp, kiến nghị ở chương 3.
Sau khi đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật cũng như việc thực hiện
các quy định đó tại một doanh nghiệp cụ thể, chương 3 của khóa luận đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi.
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy,
Cô giáo trường Đại học Thương Mại, đặc biệt là các Thầy, Cô giáo trong khoa Kinh tế
- Luật đã tạo điều kiện tốt nhất cho chúng em trong suốt 4 năm Đại học – học tập, rèn
luyện tại trường.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Giáo viên hướng dẫn –
Th.S Trần Thị Nguyệt đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận với đề tài:
“Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi – Thực tiên thực hiện tại Công ty
TNHH Kim Anh”.
Đồng thời, em xin bày tỏ cảm ơn sâu sắc tới các Anh, Chị nhân viên trong Công
ty TNHH Kim Anh vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình hoàn
thành khóa luận.
Mặc dù đã có cố gắng nhưng do khả năng nghiên cứu còn có hạn nên đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận được sự đóng góp của Qúy
Thầy, Cô để khóa luận được hoàn thiện hơn
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày
tháng năm 2018
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Hằng
2
MỤC LỤC
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BLLĐ
TGLV
TGNN
NLĐ
NSDLĐ
TCLĐ
Giải nghiã
Bộ luật Lao động
Thời giờ làm việc
Thời giờ nghỉ ngơi
Người lao động
Người sử dụng lao động
Tranh cấp lao động
4
LỜI MỞ ĐẦU
Lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực, là các hoạt động có mục
đích có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ đời sống xã hội. Tuy
nhiên để các sản phẩm của lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao thì
không dễ dàng, nó phụ thuộc vào sức lao động. Sức lao động là một khái niệm trọng
yếu trong kinh tế chính trị Mác-xít. Mác định nghĩa sức lao động là toàn bộ những
năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người
đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư
nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của
mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng
sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động
trong hiện thực.
Sức lao động là hàng hóa đặc biệt. Tính chất dặc biệt của hàng hóa sức lao động
là gắn liền với con người, do vậy để đảm bảo sức khỏe cho NLĐ và đảm bảo sự tái sản
xuất sức lao động xã hội, nhà nước đã khống chế “số lượng hàng hóa sức lao động”
mà các bên được phép “mua bán” trong những khoảng thời gian nhất định thông qua
việc ban hành các văn bản, các quy định pháp luật, cụ thể như: các văn bản trong Hiến
pháp, Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật quy định về tiền lương tối thiểu; quy
định về bảo hiểm xã hội; quy định về an toàn lao động - vệ sinh lao động; quy định về
kỷ luật lao động, quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi… Trong các quy
định đó, quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được coi như bản lề để bảo
vệ quyền lợi người lao động. Bởi sức lao động của con người không phải là vô hạn,
mà nó có thể cạn kiệt nếu không kịp phục hồi. Vì thế việc quy định một thời giờ làm
việc hợp lý, thời giờ nghỉ ngơi thích hợp có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng lao
động.
Nhà nước đã có những quy định cụ thể để bảo vệ người lao động trên phương
diện thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thông qua các quy định tại Bộ Luật lao động
2012 và các văn bản pháp luật khác quy định về lĩnh vực này. Việc áp dụng những quy
định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi vào trong các doanh nghiệp còn gặp
nhiều khó khăn và bất cập. Hiện nay tại các doanh nghiệp vi phạm ngày cành nhiều và
phổ biến, các vi phạm chủ yếu về việc tăng số giờ làm thêm vượt quá mức cho phép,
cắt giảm thời giờ nghỉ ngơi của người lao động. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe của người lao động. Chính vì vậy, em muốn đi sâu vào nghiên cứu vấn
đề pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và thực tiễn áp dụng những quy
định này ở đơn vị thực tập cũng như hiểu sâu hơn về các kiến thức đã học tại trường
Đại học Thương Mại.
5
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là quyền và nghĩa vụ cơ bản của người lao
động trong quan hệ pháp luật lao động. Việc quy định về thời giờ làm việc khoa học,
thời giờ nghỉ ngơi hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa giúp cho người lao động
đảm bảo sức khỏe, người sử dụng lao động đảm bảo sự gắn bó lâu dài với người lao
động, đảm bảo năng suất hiệu quả công việc, phát triển nền kinh tế đất nước. Do vậy,
việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi khoa học, hợp lý có ý nghĩa đối với
người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước.
Pháp luật lao động Việt Nam quy định rất nhiều nội dung về bảo vệ quyền lợi của
người lao động, thời giờ làm việc (TGLV), thời giờ nghỉ ngơi (TGNN) là một nội dung
vô cùng quan trọng, vì nó liên quan thiết thực đến đời sống và làm việc của người lao
động. Một công việc muốn đạt được hiệu quả cao, năng suất lớn thì người lao động
cần phải có sức khỏe. Bởi lẽ, sức lao động của con người không phải là vô hạn, cần
phải có thời gian tái tạo phù hợp.Chính vì vậy, việc quy định TGLV, TGNN hợp lý có
ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo chất lượng lao động, hiệu quả công việc.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng vi phạm vấn đề này lại xảy ra ở hầu hết các doanh
nghiệp, chủ yếu ở các doanh nghiệp này là tăng thời giờ làm việc tiêu chuẩn lên, tăng
thời gian làm thêm giờ quá mức so với quy định của Bộ luật Lao động 2012, cắt giảm
thời gian nghỉ ngơi của người lao động. Trên thực tế, Bộ luật Lao động 2012 đã quy
định rất rõ về pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cụ thể như sau: Thời
giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và 48 giờ trong 01 tuần; giờ
làm việc ban đêm được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau; người sử dụng lao
động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi được sự đồng ý của người lao
động và phải bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm
việc bình thường trong 01 ngày (04 giờ trong 01 ngày), không quá 12 giờ trong 01
ngày, không quá 30 giờ trong 01 tháng, tổng số không quá 200 giờ trong 01 năm. Việc
vi phạm pháp luật quy định về TGLV, TGNN ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
tinh thần của người lao động.
Từ những thực trạng nêu trên, để hạn chế và đẩy lùi các vi phạm pháp luật về
TGLV, TGNN và nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp tốt hơn cho người lao động, vấn đề
đặt ra là phải nghiên cứu sâu sắc các quy định về TGLV, TGNN theo pháp luật lao
động Việt Nam, từ đó thấy được thực trạng và các nguyên nhân vi phạm quy định về
TGLV, TGNN qua đó có thể đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật về TGLV, TGNN nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về TGLV,
TGNN. Vì những lý do đó, em xin được chọn đề tài “Pháp luật về thời giờ làm việc,
6
thời giờ nghỉ ngơi – Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kim Anh” làm đề tài khóa
luận của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động là một vấn đề nóng và đáng lưu
tâm, chính vì thế, mà không ít tác giả đã lựa chọn vấn đề này để làm đề tài cho các
công trình nghiên cứu bảo vệ Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ; hay trên một số tạp chí,
sách chuyên khảo, tạp chí khoa học cũng đăng tải những bài viết liên quan đến vấn đề
này.
− Khuất Văn Trung (2012), “Pháp luật về thời giờ làm việc, thời gian nghỉ ngơi ở Việt
Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia
Hà Nội. Luận văn phân tích và làm sáng tỏ về mặt lý luận những quy định pháp luật về
TGLV, TGNN ở Việt Nam và so sánh đối chiếu với TGLV, TGNN của các nước trong
khu vực và trên thế giới. Qua đó thấy rõ được thực trạng việc áp dụng các quy định về
TGLV, TGNN của các doanh nghiệp ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp của
Việt Nam và các hạn chế còn tồn tại trong các quy định hiện hành của pháp luật. Trên
cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về
TGLV, TGNN nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của người lao động.
− Phan Văn Hùng (2002), “Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam”, Luận
văn Thạc sĩ khoa học luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn đã khái quát chung về
pháp luật bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên ở Việt Nam. Nghiên
cứu những quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến lao động chưa thành niên để
so sánh đối chiếu với pháp luật trong nước. Tìm hiểu thực trạng quy định đối với lao
động chưa thành niên ở nước ta hiện nay. Từ đó, kiến nghị một số phương hướng và
giải pháp góp phần hoàn thiện và thực hiện hiệu quả pháp luật về lao động chưa thành
niên.
− Đặng Thị Thơm (2016), “Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam”, Luận án
Tiến sĩ luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội.
Công trình nghiên cứu đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu, nghiên cứu những
vấn đề lý luận về quyền của lao động nữ, khái niệm về lao động nữ, quyền lao động
của con người, đặc điểm và vai trò của lao động nữ trong quan hệ lao động. Trên cơ sở
đặc điểm tâm sinh lý và vai trò giới lao động nữ có những điểm khác biệt với lao động
nam nên bên cạnh những quyền lao động nói chung họ sẽ có những quyền lao động
đặc thù. Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền của
lao động nữ, những ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn về việc sử dụng lao động nữ; chỉ
ra vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong hệ thống pháp luật cũng như việc nâng cao hiệu
quả áp dụng nhằm mục đích sử dụng và bảo vệ quyền của lao động nữ tốt hơn. Đặt ra
7
những yêu cầu cần thiết của việc hoàn thiện các quy định hiện hành về quyền của lao
động nữ, đề xuất các giải pháp, có luận giải cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền
của lao động nữ, không nhằm mục đích bảo vệ lao động nữ một cách duy ý chí mà là
thực hiện vấn dân chủ, bình đẳng, nâng cao năng lực tự bảo vệ, giảm thiểu sự can thiệp
của Nhà nước, bảo vệ lao động nữ hợp lý và bền vững phù hợp với nền kinh tế thị
trường trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực tiền lương,
thu nhập, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,…
− Nguyễn Hiền Phương (2009), “Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi”, Giáo trình Luật
Lao động Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Hiền Phương
đã làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về TGLV, TGNN. Nêu ý nghĩa của TGLV, TGNN;
Phân loại TGLV,TGNN.
− Trần Long Vi, “Lao động nữ sắp mất quyền hưởng giờ nghỉ khi “đèn đỏ” và chăm
con nhỏ”, Tạp chí Luật khoa, truy cập vào ngày 15 tháng 1 năm 2017. Bài viết phản
ánh về việc hơn 26 triệu lao động nữ sẽ không được nghỉ mỗi ngày 30 phút khi “đèn
đỏ” và 60 phút khi có con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, nếu dự luật sửa đổi Bộ luật Lao
Động được thông qua.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật, tìm hiểu thực trạng thực
hiện các quy định của pháp luật tại đơn vị thực tập – Công ty TNHH Kim Anh cũng
như tham khảo các công trình nghiên cứu, các sách chuyên khảo, các bài viết khoa học
của các tác giả khác, em lựa chọn nội dung pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi – thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kim Anh. Khác với các công trình
đã được nghiên cứu trước đó, nội dung khóa luận sẽ không bao quát hết các nội dung
bảo vệ người lao động như: hợp đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội,… mà tập
trung vào pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và thực tiễn thực hiện tại
một doanh nghiệp cụ thể - Công ty TNHH Kim Anh. Em xin xác lập đề tài nghiên cứu
“Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi – Thực tiễn thực hiện tại Công ty
TNHH Kim Anh”.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số lý luận cơ bản của pháp luật về TGLV, TGNN
theo pháp luật lao động Việt Nam. Đồng thời tìm hiểu thực trạng pháp luật điều chỉnh
về TGLV, TGNN, thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kim Anh.Qua đó đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về TGLV, TGNN và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về TGLC, TGNN tại Công ty
TNHH Kim Anh.
8
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản của
pháp luật lao động Việt Nam về TGLV, TGNN.
Thứ hai, nghiên cứu sâu về các quy định của pháp luật về TGLV, TGNN và thực
trạng pháp luật điều chỉnh về TGLV, TGNN - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH
Kim Anh.
Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
TGLV, TGNN và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về
TGLC, TGNN tại Công ty TNHH Kim Anh.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi trong Bộ Luật lao động 2012 và các văn bản hướng dẫn đi
kèm.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Công ty TNHH Kim Anh.
Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi theo quy định của BLLĐ 2012 và một số Nghị định,
Thông tư đi kèm từ năm 2013 đến nay và thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề này
tại Công ty TNHH Kim Anh trong 04 năm, từ năm 2014 đến hết năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề này, bài khóa luận đã vận dụng linh hoạt
những phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin cụ thể như: phương pháp duy vật biện
chứng, phương pháp duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển lực lượng lao động ở Việt Nam trong giai đoạn
mới.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp:
− Phương pháp so sánh được áp dụng để so sánh những quy định được quy định tại Bộ
Luật lao động 2012 và các văn bản hướng dẫn có liên quan với thực tế thực hiện tại
Công ty để thấy những bất cập và hạn chế còn tồn tại.
− Phương pháp phân tích tổng hợp: dựa trên nguồn số liệu mà Công ty cung cấp để phân
tích các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
− Phương pháp thu thập thông tin: thu thập các văn bản pháp luật quy định về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; các công trình nghiên cứu khoa học, các sách chuyên
khảo để phục vụ cho việc nghiên cứu và viết bài,…
9
Thông qua những phương pháp trên, đã tổng hợp thành một bài khóa luận đầy đủ
về hình thức và nội dung.Nắm rõ về cơ sở lý luận, thực trạng tại công ty và một số giải
pháp kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về thời giơ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
6. Kết cấu khóa luận
Với mục tiêu của đề tài, khóa luận ngoài tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh
mục từ viết tắt, lời mở đầu, kết cấu khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kim Anh.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Công ty TNHH Kim
Anh.
10
CHƯƠNG 1
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY
TNHH KIM ANH
Làm việc và nghỉ ngơi là hai khái niệm trái ngược nhau, là hai mặt trong quá
trình lao động của người lao động, song có liên quan rất chặt chẽ với nhau và không
tách rời nhau. Trong thực tế, không có ai chỉ làm việc mà không nghỉ ngơi. Chính vì
thế mà các quy phạm pháp luật điều chỉnh thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi của
người lao động cũng gắn bó chặt chẽ với nhau và hợp thành một chế định không thể
thiếu được của luật lao động ở bất kỳ một nước nào – chế định về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi.
1.1.
Khái niệm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.1.1. Khái niệm thời giờ làm việc
Dưới góc độ kinh tế lao động, thời giờ làm việc là khoảng thời gian cần và đủ để
người lao động hoàn thành được định mức lao động hoặc khối lượng công việc đã
được giao. Các nhà kinh tế đã nghiên cứu thời giờ làm việc trong mối quan hệ hữu cơ
với năng suất lao động , làm thế nào để sử dụng thời gian ít nhất nhưng vẫn đem lại
hiệu quả kinh tế cao nhất.
Dưới góc độ pháp lý, thời giờ làm việc được biểu hiện dưới dạng quyền và nghĩa
vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật lao động.
Trong khoa học lao động, thời giờ làm việc được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
với những tư cách khác nhau. Nó được coi như một nguyên tắc của luật lao động hoặc
một định mức lao động, hoặc một nội dung của quan hệ pháp luật lao động, hoặc như
một chế định của luật lao động.
Nếu nghiên cứu thời giờ làm việc với tư cách là một nguyên tắc của luật lao động
thì thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi được xem như các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của người lao động mà các quy phạm pháp luật lao động phải thể hiện được nội
dung tinh thần đó. Còn nếu xem xét thời giờ làm việc là một định mức lao động , thì
thời giờ làm việc là một quỹ thời gian cần thiết cho người lao động để hoàn thành công
việc được giao và người lao động phải chấp hành kỷ luật lao động trong thời gian đó.
Biểu hiện là nội dung của quan hệ pháp luật lao động, thời giờ làm việc là nghĩa
vụ của người lao động, trong khoảng thời gian quy định phải có mặt tại địa điểm làm
việc và thực hiện những nhiệm vụ được giao.
Biểu hiện là một chế định của luật lao động, thời giờ làm việc là tổng hợp những
quy phạm pháp luật quy định về thời gian mà người lao động phải làm việc, phải thực
hiện các nghĩa vụ lao động của mình.
11
Tóm lại, thời giờ làm việc được định nghĩa như sau: thời giờ làm việc là khoảng
thời gian do pháp luật quy định, trong đó người lao động phải có mặt tại địa điểm làm
việc để thực hiện những nhiệm vụ được giao theo nội quy lao động và hợp đồng lao
động.
1.1.2. Khái niệm thời giờ nghỉ ngơi
Độ dài của thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe của người lao động,đến khả năng kinh tế của người sử dụng lao động và nhu cầu
của xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước đã can thiệp vào sự tự do thỏa thuận của các bên
bằng cách quy định thời giờ làm việc tối đa, thời gian nghỉ ngơi tối thiểu. Các bên có
thể thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức với những quy định đó.
Thời giờ làm việc được hiểu là nghĩa vụ của người lao động thì thời giờ nghỉ
ngơi chính là quyền của người lao động. Người lao động có quyền được nghỉ ngơi.
Thời giờ nghỉ ngơi là quỹ thời gian cần thiết cho người lao động để hoàn thành công
việc được giao và kịp tái tạo sức lao động cho quá trình lao động nhằm đảm bảo quá
trình lao động được diễn ra liên tục.
Dưới góc độ pháp luật, thời giờ nghỉ ngơi được hiểu là khoảng thời gian người
lao động không phải thực hiện nghĩa vụ lao động và có toàn quyền sử dụng thời gian
này theo ý mình.
Trong luật lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là hai khái niệm khác
nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời.
1.2.
Đặc điểm của thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.2.1. Thời giờ nghỉ ngơi là quyền của người lao động
Việc quy định quỹ thời giờ làm việc, pháp luật lao động đảm bảo cho NLĐ có
điều kiện thực hiện đầy đủ nghĩa vụ lao động trong quan hệ đồng thời làm căn cứ cho
việc hưởng thụ quyền lợi như tiền lương, thưởng, … Quy định thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi đảm bảo quyền nghỉ ngơi của NLĐ. Thời giờ nghỉ ngơi là khaorng thời
gian người lao động tái tạo sức lao động, đảm bảo sức khỏe để quá trình làm việc luôn
được diễn xuyên suốt, đảm bảo mục tiêu đã đề ra của NSDLĐ.
1.2.2. Do người sử dụng lao động thỏa thuận với người lao động
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân, quyền chủ động trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và quyền tự định đoạt của NLĐ. Việc quy định thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi do người sử dụng lao động thỏa thuận với người lao động.
Việc cụ thể hóa như thế nào phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tham gia trên cơ sở thỏa
thuận, thương lượng phù hợp với điều kiện, đặc điểm riêng. Sự thỏa thuận phải đảm
bảo phù hợp với quy định của pháp luật.
12
1.2.3.
1.3.
Có sự điều tiết của Nhà nước
Vì mục đích lợi nhuận, NSDLĐ thường có xu hướng tận dụng mọi quy định, lợi
thế trong đó có việc kéo dài thời gian làm việc để triệt để khai thác sức lao động, đem
lại lợi nhuận cao nhất. Chính vì vậy, việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi có sự điều tiết của Nhà nước. Pháp luật quy định thời giờ làm việc ở mức tối đa,
thời giờ nghỉ ngơi tối thiểu hoặc rút ngắn thời giờ làm việc với một số đối tượng đặc
biệt nhằm tránh sự lạm dụng sức lao động, đảm bảo tái sản xuất sức lao động, hạn chế
tai nạn lao động.
Ý nghĩa của chế định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là quyền và nghĩa vụ cơ bản của người lao
động trong quan hệ pháp luật lao động. Việc quy định về thời giờ làm việc khoa học,
thời giờ nghỉ ngơi hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa giúp cho người lao động
đảm bảo sức khỏe, người sử dụng lao động đảm bảo sự gắn bó lâu dài với người lao
động, đảm bảo năng suất hiệu quả công việc, phát triển nền kinh tế đất nước. Do vậy,
việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi khoa học, hợp lý có ý nghĩa đối với
người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước.
1.3.1. Đối với người lao động
Người lao động là chủ thể chính trong quan hệ này. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nói: “Có sức khỏe là có tất cả, không sức khỏe là không có gì”. Đúng vậy, việc quy
định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ và
bảo đảm sức khỏe đời sống tinh thần và quyền con người của người lao động. Có sức
khỏe, tinh thần tốt thì người lao động mới phát huy hết được khả năng sáng tao, trí tuệ,
thể lực của mình vào công việc. Giúp họ gắn bó lâu dài với công việc, với doanh
nghiệp. Nhưng trên thực tế, để tối đa hóa lợi nhuận nhiều doanh nghiệp đã kéo dài giờ
làm thêm, cắt hoặc giảm bớt thời gian nghỉ ngơi của người lao động. Chính vì vậy,
pháp luật đã ban hành khung pháp lý về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi để bảo vệ
sức lao động xã hội, đảm bảo sức khỏe cho người lao động. Pháp luật đã giới hạn thời
giờ làm việc tối đa, thời giờ nghỉ ngơi tối thiểu. Tùy vào cụ thể từng loại công việc
khác nhau, từng đối tượng người lao động mà có những quy định cụ thể chi tiết phù
hợp với từng tính chất công việc.
1.3.2. Đối với người sử dụng lao động
Đối với người sử dụng lao động, việc đảm bảo cho người lao động có được thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý là góp phần đảm bảo mục tiêu kinh tế đề ra.
Giúp người sử dụng xây dựng được kế hoạch tổ chức kinh doanh khoa học hợp lý, sử
dụng một cách tiết kiệm nguồn tài nguyên trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những
quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi còn giúp cho người sử dụng lao động
13
thực hiện quyền quản lý, giám sát, đặc biệt là trong xử lý kỷ luật lao động từ đó tiến
hành trả lương, khen thưởng, xử phạt người lao động.
1.3.3. Đối với Nhà nước
Các chế định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là công cụ điều tiết của nhà
nước để bảo vệ nguồn tài nguyên của quốc gia – sức lao động xã hội. Đảm bảo sự phát
triển kinh tế đất nước, thể hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sự quan tâm của Nhà
nước đối với lực lượng lao động của quốc gia. Không những thế, việc quy định thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý góp phần đánh giá kinh tế - xã hội của một đất
nước. Một đất nước phát triển là một đất nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp, chế độ an sinh
xã hội tốt, trình độ khoa học công nghệ cao, áp dụng thành tựu tiên tiến giảm bớt sức
lao động của con người thông qua thời giờ làm việc ngắn.
1.4.Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Con người là một thực thể sinh học, hệ thần kinh của con người cũng hoạt động
theo chu kỳ. Bên cạnh đó các nhà khoa học nhất trí rằng một con người bình thường
phải dành ít nhất 08 giờ đồng hồ để ngủ mỗi ngày. Như vậy, trong số 24 giờ mỗi ngày
sẽ chỉ còn lại trên dưới 16 giờ, trong đó có một số giờ giành cho làm việc, hoạt động
cá nhân và hoạt động xã hội khác.
Khi con người lao động đến một mức nào đó sẽ có cảm giác mệt mỏi, sinh lý bắt
đầu xuất hiện. Đó là một cơ chế bảo vệ, như cái phanh, bắt cơ thể ngừng hoạt động để
khỏi kiệt sức. Để có thể làm việc hiệu quả, người lao động phải có thời gian nhất định
giành cho nghỉ ngơi. Đó chính là giai đoạn mà người lao động tái sản xuất sức lao
động. Như vậy, thời giờ làm việc là có giới hạn và cần có một khoảng thời gian để tái
sản xuất theo luật định thì đó chính là thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Trong số 16 giờ còn lại của một ngày thì con người phải giành ra một khoảng
thời gian để làm việc nhằm mục đích để nuôi sống bản than hoặc gia đình, thời giờ còn
lại là nghỉ ngơi và các hoạt động khác. Khi con người làm đến một thời gian nào đó
khối lượng công việc quá lớn do đó cần phải nghỉ ngơi để giảm tải công việc, thư giãn
cơ bắp,…
Trong mối quan hệ là việc giữa người sử dụng lao động và người lao động thì
người lao động luôn ở vị trí yếu thế hơn, cần có sự phụ thuộc và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động. Trước đây, khi pháp luật lao động chưa ra đời việc
quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là do người sử dụng lao động quy
định cho người lao động làm việc, thời giờ làm việc thì quá nhiều dẫn đến cũng như
thời giờ nghỉ ngơi thì lại hạn chế việc này đã ảnh hưởng quá sức của con người nên rất
mệt mỏi, nặng nhọc, ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động trong quá trình làm
việc và trong thời gian này việc xử lý cũng chưa có nghiêm.
14
Chính vì vậy, chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được hình thành trên
cơ sở cả sinh học, tâm lý và kinh tế xã hội có liên quan đến quyền và lợi ích thiết thực
trong quan hệ lao động, được người lao động và cả người sử dụng lao động cùng quan
tâm. Từ những mối quan hệ lao động của con người, nên pháp luật đã đưa ra những
quy định cụ thể về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Việc đưa ra những quy định
như vậy, nó liên quan thiết thực đến đời sống và việc làm của người lao động. Qua đó
hạn chế sự lạm quyền của người sử dụng lao động. Việc có chế tài quy định như vậy
không chỉ nhằm bảo vệ sức khỏe của người lao động mà còn bảo vệ quyền, lợi ích của
người lao động về việc làm, nghề nghiệp, mức thu nhập, tính mạng hay có thể là danh
dự, nhân phẩm, của người lao động.
1.5. Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.5.1. Nguyên tắc thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi do các bên trong quan hệ lao
động thỏa thuận, khuyến khích theo hướng có lợi cho NLĐ phù hợp với quy định
của pháp luật
Mặc dù thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của NLĐ do Nhà nước quy định
nhưng để đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền chủ động trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, quyền tự định đoạt của người lao động, việc quy
định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phải đảm bảo nguyên tắc tự do thỏa thuận,
phù hợp với pháp luật. Vì là nghĩa vụ của NLĐ, những người ở vị thế yếu hơn so với
NSDLĐ nên những thỏa thuận này được khuyên khích theo hướng có lợi cho NLĐ.
Nội dung của nguyên tắc: Nhà nước chỉ can thiệp vào việc quy định thời giờ làm
việc ở mức tối đa, thời giờ nghỉ ngơi ở mức tối thiểu. Còn việc cụ thể hóa nó như thế
nào thì phụ thuộc vào từng tính chất công việc, điều kiện, mà các bên tự thỏa thuận.
Tất cả những thỏa thuận này sẽ được ghi trong thỏa ước tập thể, hợp đồng lao động và
nội quy lao động. Khi đã được thỏa thuận trên cơ sở phù hợp với pháp luật, những thỏa
thuận này là cơ sở cho việc thực hiện và giải quyết tranh chấp phát sinh giữa hai bên
chủ thể.
Không chỉ ở đó, nguyên tắc này còn được thể hiện ở việc nhà nước luôn khuyến
khích những thỏa thuận về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có lợi cho NLĐ. Trong
khả năng của mình NSDLĐ có thể áp dụng giảm giờ làm việc mà vẫn bảo đảm quyền
lợi cho NLĐ. Điều này được thể hiện rõ trong các quy định khuyến khích giảm giờ
làm: “ Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40
giờ” (Điều 104 BLLĐ 2012).
Thực hiện nguyên tắc này vừa dảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền tự định
đoạt của người lao động mà còn bảo vệ được quyền lợi của người lao động.
15
1.5.2. Nguyên tắc rút ngắn thời giờ làm việc đối với một số đối tượng đặc biệt hoặc
làm những công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
Xuất phát từ đặc điểm riêng của một số đối tượng lao động, một số ngành nghề
quan trọng mà việc bảo hộ một số đối tượng lao động đặc thù như lao động nữ, lao
động chưa thành niên, lao động là người tàn tật, người cao tuổi và cả những người lao
động làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm là vô cùng cần thiết. Vì từng đối tượng
cụ thể nhưng sức lao động mà họ phải sử dụng khi cùng làm một công việc là khác
nhau. Bởi vậy, đòi hởi phải có những quy định phù hợp với đặc thù riêng của đối
tượng nhằm đảm bảo sức khỏe và sự công bằng trong khai thác lao động.
Nội dung của nguyên tắc này: giảm giờ làm việc tối đa, tăng số giờ nghỉ ngơi tối
thiểu so với thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi bình thường mà người lao động vẫn
được đảm bảo quyền lợi. Ngoài ra các đối tượng này cũng được bảo vệ bởi những quy
định chặt chẽ trong các trường hợp làm thêm giờ, làm đêm.
1.6. Nội dung pháp luật Việt Nam điều chỉnh về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi
1.6.1.Quy định của pháp luật về thời giờ làm việc
1.6.1.1. Thời giờ làm việc tiêu chuẩn
Thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật Việt Nam được hiểu
đồng nghĩa với khái niệm thời giờ làm việc tiêu chuẩn trong các văn bản pháp luật
quốc tế. Ngày làm việc bình thường là việc quy định độ dài thời gian làm việc của
người lao động trong một ngày đêm là 24 giờ và số giờ hoặc ngày làm việc trong một
tuần lễ tương ứng là 07 ngày.
Căn cứ theo Bộ luật Lao động 2012 quy định: theo Điều 104, thời giờ làm việc
bình thường của người lao động không quá 08 giờ trong 01 ngày hoặc không quá 48
giờ trong 01 tuần. Tùy vào từng doanh nghiệp mà người sử dụng lao động có quyền
quy định làm việc theo giờ hoặc ngày hoặc tuần. Theo đó trường hợp theo tuần thì thời
giờ làm việc bình thường không quá 10 giờ trong 01 ngày, nhưng không quá 48 giờ
trong 01 tuần. Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc
40 giờ. Trong một số trường hợp, do tính chất sản xuất theo ca, kíp mà cần phải phân
bổ lại thời gian làm việc trong ngày, số ngày làm việc trong tuần, trong tháng cho thích
hợp thì người sử dụng lao động phải thống nhất với tập thể người lao động thông qua
việc kí kết thỏa ước lao động tập thể. Đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc thời gian
làm việc bình quân không quá 8 giờ trong 01 ngày hoặc 10 giờ trong 01 ngày đối với
trương hợp quy định làm việc theo tuần và không quá 48 giờ trong 01 tuần tùy theo
đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp.
16
Đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc một số
đối tượng lao động như phụ nữ có thai, lao động chưa thành niên, người khuyết tật,
người cao tuổi thời,.. thì thời giờ làm việc được rút ngắn hơn thời giờ làm việc bình
thường mà NLĐ vẫn được hưởng nguyên lương. Theo quy định, những đối tượng này
được giảm từ 1 đến 4 giờ/ngày, từ từng đối tượng cụ thể. Chẳng hạn, đối với NLĐ làm
công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành giờ làm việc không quá
06 giờ trong 01 ngày. Lao động nữ làm công việc nặng nhọc, độc hại mang thai từ
tháng 7 trở lên được giảm bớt 1 giờ làm việc mà vẫn hưởng đủ lương (khoản 1 Điều
155 BLLĐ 2012), trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi lao động nữ cũng được
nghỉ 60 phút/ngày hưởng đủ lương (khoản 5 Điều 155 BLLĐ 2012). Đối với lao động
dưới 15 tuổi thời giờ làm việc không quá 4 giờ/ngày và 20 giờ/tuần (khoản 2 Điều 163
BLLĐ 2012). Lao động năm cuối trước khi nghỉ hưu được áp dụng chế độ làm việc
không trọn thời gian và rút ngắn thời giờ làm việc ít nhất 1 giờ/ngày mà vẫn hưởng đủ
lương (khoản 3 Điều 166 BLLĐ 2012).
1.6.1.2. Thời giờ làm việc không tiêu chuẩn
Thời giờ làm việc linh hoạt được hiểu là việc quy định các hình thức tổ chức lao
động mà trong đó có sự quy định khác nhau về độ dài và thời điểm làm việc của người
lao động so với thời gian làm việc thông thường đã được quy định theo ngày , tuần,
tháng, năm làm việc. Có hai hình thức áp dụng thời giờ làm việc linh hoạt cơ bản là xê
dịch thời gian làm việc và làm việc không đầy đủ.
Trong Bộ Luật lao động 2012 có quy định đối với một số trường hợp tạo điều
kiện vận dụng thời giờ làm việc linh hoạt: những người làm việc theo hợp đồng động
không trọn thời gian (Điều 34 BLLĐ 2012) hoặc những người lao động nhận công
việc về nhà làm (Điều 185 BLLĐ 2012), khuyên khích NSDLĐ có thể áp dụng chế độ
làm việc không trọn thời gian với đối tượng là người cao tuổi (Điều 166 BLLĐ 2012).
Năm cuối cùng trước khi về hưu được áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian
hoặc rút ngắn thời gian làm việc bình thường.
1.6.1.3. Giờ làm việc ban đêm
Thời giờ làm việc ban đêm là khoảng thời gian làm việc được ấn địng tùy theo
vùng khí hậu. Theo quy định của pháp luật, giờ làm việc ban đêm được tính từ 22 giờ
đến 6 giờ sang ngày hôm sau.
Thông thường ban đêm là khoảng thời gian con người được nghỉ ngơi tái tạo sức
lao động và cũng là khoảng thời gian sum họp với gia đình. Do vậy, làm việc ban đêm
là làm việc trái với đồng hồ sinh học và sinh hoạt bình thường của con người. Làm
việc vào ban đêm có những ảnh hưởng, biến đổi nhất định đến tâm sinh lý của NLĐ,
17
làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể, tạo điều kiện cho sự phát triển của các bệnh
lý. Điều này dẫn đến nhu cầu được bảo vệ và bù đắp hao phí sức lao động cao hơn so
với làm việc ban ngày. Vì vậy,tại khoản 2 và khoản 3 Điều 97 BLLĐ 2012 pháp luật
quy định NLĐ làm việc vào ban đêm được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính
theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương của công việc đang làm vào ban ngày. Nếu
NLĐ làm thêm vào ban đêm thì ngoài việc được trả lương làm thêm, làm đêm NLĐ
còn được hưởng thêm 20% tiền lương tính theo giá tiền lương hoặc tiền lương làm vào
ban ngày.
Mặt khác, với những ảnh hưởng nhất định của việc làm đêm đối với sức khỏe của
NLĐ nên pháp luật nước ta đã quy định hạn chế làm đêm với một số đối tượng, nhất là
đối với lao động nữ và người chưa thành niên. Theo đó, những đối tượng cấm hoặc
hạn chế huy động làm thêm giờ cũng chính là những đối tượng cấm hoặc hạn chế làm
đêm quy định các các Điều 155, 163, 178 BLLĐ 2012.
Việc quy định nhằm bảo vệ tối đa cho NLĐ về sức khỏe cũng như quyền lợi
được hưởng lương phù hợp.
1.6.1.2. Thời giờ làm thêm
Thời giờ làm thêm là khoảng thời giờ làm việc ngoài thời giờ làm việc bình
thường được quy định trong pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc theo nội quy lao
động. Thời gian làm thêm người lao động được hưởng lương cao hơn thời gian làm
việc tiêu chuẩn.
Theo pháp luật hiện hành, thời giờ làm thêm đối với NLĐ được quy định với
những nội dung chính như sau:
Số giờ làm thêm: NLĐ và NSDLĐ có thể thỏa thuận làm thêm giờ nhưng
không vượt quá 50% số giờ làm việc được quy định trong một ngày đối với từng loại
công việc. Trường hợp làm việc theo tuần thì tổng cộng thời giờ làm việc bình thường
và thời giờ làm thêm trong một ngày không vượt quá 12 giờ. Thời gian làm thêm
không quá 30 giờ trong một tháng và tổng số không quá 200 giờ/năm, trường hợp đặc
biệt không được quá 300 giờ trong một năm (điểm b khoản 2 Điều 106 BLLĐ 2012).
Sau mỗi đợt làm thêm tối đa 7 ngày liên tục trong một tháng, NSDLĐ phải bố trí
để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian không được nghỉ. Nếu không bố trí
nghỉ bù đủ số thời gian thì phải trả lương làm thêm giờ cho người lao động (theo quy
định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định 45/2013/NĐ-CP).
Điều kiện và nguyên tắc thực hiện làm thêm: về điều kiện, việc tổ chức làm thêm chỉ
được thực hiện khi đáp ứng đủ 3 điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 106 BLLĐ 2012:
Được sự đồng ý của NLĐ; Đảm bảo số giờ làm thêm theo quy định; Đảm bảo bố trí
18
thời gian nghỉ bù sau mỗi đợt làm thêm. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định những
trường hợp ngoại lệ nhất định:
- Làm việc thêm giờ trong trường hợp đặc biệt: trong một số trường hợp đặc biệt,
nhằm bảo vệ lợi ích quan trọng của cá nhân, tổ chức hoặc của nhà nước, pháp luật cho
phép người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ vào bất
kì ngày nào và người lao động không có quyền từ chối: thực hiện lệnh động viên, huy
động đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng,
an ninh theo quy định của pháp luật; thực hiện các công việc nhằm bảo vệ tính mạng
con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa và khắc phục hậu
quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh và thảm họa.
- Dù được sự đồng ý của NLĐ, NSDLĐ cũng không được phép huy động làm
thêm giờ đối với phụ nữ có thai từ tháng thứ 7 hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng
tuổi , NLĐ tàn tật đã bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên. Đối với NLĐ chưa
thành niên, NSDLĐ chỉ được phép huy động làm thêm giờ trong một số ngành nghề ,
công việc do Bộ lao động – Thương binh và Xã hội quy định.
Trường hợp làm thêm từ 200 giờ đến 300 giờ trong một năm: ở giới hạn làm
thêm này, các bên cũng phải tuân thủ quy định về thời giờ làm thêm trong ngày và
trong tháng như trường hợp làm thêm đến 200 giờ trong năm. Thêm vào đó, pháp luật
quy định người sử dụng lao động chỉ được thỏa thuận huy động làm thêm từ trên 200
giờ đến 300 giờ trong một năm đối với các ngành nghề: dệt, may, sản xuất và chế biến
nông lâm thuy sản, lọc dầu, viễn thông,… các ngành nghề do Chính phủ quy định. Khi
làm thêm, NSDLĐ phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan quản lý nhà nước về lao
động cấp tỉnh (theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 45/2013/NĐ –CP).
1.6.2. Quy định của pháp luật về thời giờ nghỉ ngơi
1.6.2.1. Nghỉ trong giờ làm việc, nghỉ chuyển ca
Nghỉ trong giờ làm việc là khoảng thời gian người lao động được nghỉ giữa ca
làm việc, được tính vào thời giờ làm việc và được trả nguyên lương. Theo quy định
của pháp luật, thời gian nghỉ giữa ca là 30 phút đối với người lao động làm việc 08 giờ
làm việc liên tục trong điều kiện bình thường hoặc làm việc trong 06 giờ liên tục đối
với công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Nếu làm việc vào ban đêm,
người lao động được nghỉ giữa ca dài hơn 45 phút và được tính vào thời giờ làm việc.
Ngoài thời gian nghỉ nói trên, người sử dụng lao động có thể quy định thời điểm các
đợt nghỉ ngắn và ghi vào nội quy lao động (Điều 108 BLLĐ 2012).
Nghỉ chuyển ca là thời gian người lao động được nghỉ giữa hai ca làm việc. Theo
quy định của pháp luật, người lao động làm việc theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước
khi chuyển sang ca làm việc khác.
19
Mục đích của việc nghỉ trong giờ làm việc và nghỉ chuyển ca là nhằm bảo vệ sức
khỏe cho người lao động. Các khoảng thời gian nghỉ này sẽ giúp cho người lao động
tái tạo sức lao động.
1.6.2.2. Nghỉ hàng tuần
Bộ luật Lao động 2012 quy định mỗi tuần người lao động được nghỉ ít nhất 24
giờ liên tục. Trong trường hợp đặc biệt do chu kỳ lao động không thể nghỉ hằng tuần,
người sử dụng lao động có trách nhiệm bảo đảm cho người lao động được nghỉ tính
bình quân 01 tháng ít nhất 04 ngày. Thông thường, người sử dụng lao động sắp xếp
ngày nghỉ hàng tuần cho người lao động vào cuối tuần để phù hợp với nếp sinh hoạt
chung và chu kì nghỉ ngơi của người lao động. Tuy nhiên, người sử dụng lao động có
thể chọn một ngày cố định khác trong tuần làm ngày nghỉ hàng tuần, với điều kiện
phải ghi vào nộp quy lao động (Điều 110 BLLĐ 2012).
1.6.2.3. Nghỉ hàng năm
Theo Điều 6 nghị định 45/2013/NĐ – CP ngày 10/5/2013 có quy định về điều
kiện nghỉ hằng năm: người lao động có đủ từ 12 tháng làm việc cho một người sử
dụng lao động thì được hưởng chế độ nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương. Thời gian
được coi là thời gian làm việc của người lao động cho một người sử dụng lao động bao
gồm các thời gian như: thời gian thử việc theo hợp đồng lao động sau đó làm việc cho
người sử dụng lao động; thời gian nghỉ do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhưng
cộng dồn không quá 06 tháng; thời gian nghỉ do ốm đau nhưng cộng dồn không qua
s02 tháng; thời gian bị nghỉ vì tạm đình chỉ công việc; thời gian nghỉ hưởng chế độ
thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội,…
Số ngày nghỉ hằng năm của người lao động ở Việt Nam theo quy định của BLLĐ
2012:
− 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường.
− 14 ngày làm việc đối với người làm công việc nặng nhọc, đọc hại, nguy hiểm hoặc
người làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt theo danh mục do Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành hoặc lao
động chưa thành niên hoặc lao động là người khuyết tật.
− 16 ngày làm việc đối với công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người
làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt khắc nghiệt theo theo danh mục
do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.
Bên cạnh đó, cứ năm năm làm việc cho một người sử dụng lao động thì số ngày
nghỉ hàng năm của người lao động được tăng thêm tương ứng 01 ngày. Trường hợp vì
một số lý do mà người lao động chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ
hằng năm thì được thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghỉ.
20
−
−
−
−
−
−
1.6.2.4. Nghỉ lễ, tết
Nghỉ lễ, tết là thời gian pháp luật lao động quy định cho người lao động được
nghỉ trong những ngày tết và những ngày kỉ niệm quan trọng của đát nước hoặc của
thế giới. Việc quy định nghỉ lễ, tết nhằm đảm bảo tinh thần cho người lao động và góp
phần giữ gìn văn hóa bản sắc dân tộc, ghi nhớ những ngày lễ quan trọng của đất nước.
Theo quy định của pháp luật, người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương
những ngày sau đây:
Tết Dương lịch 01 ngày (ngày 01 tháng 01 dương lịch);
Tết Âm lịch 05 ngày;
Ngày Chiến thắng 01 ngày (ngày 30 tháng 4 dương lịch);
Ngày Quốc tế lao động 01 ngày (ngày 01 tháng 5 dương lịch);
Ngày Quốc khánh 01 ngày (ngày 02 tháng 9 dương lịch);
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 01 ngày (ngày 10 tháng 3 âm lịch)
Nếu những ngày nghỉ trên mà trùng vào ngày nghỉ hàng tuần thì người lao động
được nghỉ bù vào ngày tiếp theo.
1.6.2.5. Nghỉ về việc riêng
Nghỉ về việc riêng là thời gian pháp luật quy định cho người lao động được nghỉ
để giải quyết các việc hiếu, hỉ của cá nhân người lao động. Nghỉ việc riêng được chia
thành 2 loại: người lao động được nghỉ việc riêng hưởng nguyên lương và người lao
động được nghỉ không hưởng lương.
Theo khoản 1 Điều 116 BLLĐ 2012, người lao động được nghỉ việc hưởng
nguyên lương khi người lao động kết hôn (nghỉ 03 ngày); con của người lao động kết
hôn (nghỉ 01 ngày); bố mẹ, kể cả bố mẹ bên chồng và bố mẹ bên vợ chết, vợ hoặc
chồng chết, con chết (nghỉ 03 ngày). Đây là trường hợp mà pháp luật quy định
1.6.2.6. Nghỉ theo thỏa thuận
Bên cạnh việc quy định một số thời gian nghỉ theo chế độ, pháp luật cũng tôn
trọng nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa các bên, đảm bảo quan hệ diễn ra hài hòa bằng
việc cho phép các bên được tự do thỏa thuận thời giờ nghỉ theo nhu cầu và phù hợp
với điều kiện của các bên. Thời giờ nghỉ ngơi theo thỏa thuận có thể được hưởng
lương hoặc không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các chủ thể.
Nghỉ theo thỏa thuận là trường hợp nghỉ mà người lao động không hưởng lương.
Nghỉ không hưởng lương là trường hợp người lao động thỏa thuận với người sử dụng
lao động để nghỉ trong một thời gian nhất định mà không hưởng lương. Thời gian nghỉ
không hưởng lương hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
Theo khoản 2 Điều 116 BLLĐ 2012 quy định về người lao động được nghỉ việc
riêng không hưởng lương: người lao động được nghỉ không hưởng lương 01 ngày và
21
phải thông báo với người sử dụng lao động khi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh chị em ruột chết; hoặc bố hoặc mẹ kết hôn; anh, chị, em ruột kết hôn.
Ý nghĩa của quy định này để đảm bảo cho người lao động có thời gian để giải
quyết các việc riêng khi mà sử dụng đã hết các ngày nghỉ theo quy định của pháp luật.
1.6.3.
Xử lý vi phạm pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Vi phạm pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những vi
phạm trong lĩnh vực lao động. Theo đó, người nào có hành vi vi phạm các quy định
của BLLĐ 2012, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật, xử phạm
vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 14 Nghị định 95/2013/NĐ-CP và được hướng dẫn tại khoản 11 Điều 1
theo Nghị định 88/2015/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm quy định thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi như sau:
Người sử dụng lao động có hành vi không bảo đảm cho người lao động nghỉ trong giờ
làm việc, nghỉ chuyển ca, nghỉ về việc riêng, nghỉ không hưởng lương đúng quy định
phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Người sử dụng lao động có hành vi vi phạm quy định về nghỉ hằng tuần, nghỉ hằng
−
−
−
−
−
năm, nghỉ lễ, tết theo các mức sau đây:
Vi phạm từ 01 đến 10 người lao động 500.000 - 1.000.000
Vi phạm từ 11 đến 50 người lao động 1.000.000 - 3.000.000
Vi phạm từ 51 đến 100 người lao động 3.000.000 - 7.000.000
Vi phạm từ 101 đến 300 người lao động 7.000.000 - 10.000.000
Vi phạm từ 301 người lao động trở lên 10.000.000 - 15.000.000
Người sử dụng lao động bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng khi có
một trong các hành vi sau đây:
− Thực hiện thời giờ làm việc bình thường quá số giờ làm việc theo quy định tại Điều
104 của Bộ luật Lao động;
− Huy động người lao động làm thêm giờ mà không được sự đồng ý của người lao động,
trừ trường hợp theo quy định tại Điều 107 của Bộ luật Lao động.
Người sử dụng lao động bị phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng khi huy
động người lao động làm thêm giờ vượt quá số giờ quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều
106 của Bộ luật Lao động hoặc quá 12 giờ trong 01 ngày khi làm thêm vào ngày nghỉ
lễ, tết và ngày nghỉ hằng tuần.
1.6.4. Giải quyết tranh chấp về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Tranh chấp về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một nội dung trong tranh
chấp lao động. Theo khoản 7 Điều 3 BLLĐ 2012: “Tranh chấp lao động là tranh chấp
về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh
22
chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa NLĐ với NSDLĐ và tranh
chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với NSDLĐ”.
Một vụ việc chỉ được coi là tranh chấp lao động khi các bên đã tự bàn bạc,
thương lượng mà không đi đến thoả thuận chung hoặc một trong hai bên từ chối
thương lượng, cần phải có sự can thiệp của chủ thể thứ ba thông qua thủ tục hoà giải,
trọng tài hoặc xét xử.
Giải quyết TCLĐ là việc các tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
những thủ tục theo luật định nhằm giải quyết những tranh chấp phát sinh giữa cá nhân,
tập thể người lao động với người sử dụng lao động về việc thực hiện quyền nghĩa vụ
và lợi ích của hai bên trong quan hệ lao động, khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp
đã bị xâm hại; xoá bỏ tình trạng bất bình, mâu thuẫn giữa người lao động và người sử
dụng lao động, duy trì và củng cố quan hệ lao động, đảm bảo sự ổn định trong sản
xuất.
Nguyên tắc giải quyết TCLĐ
Theo quy định của pháp luật lao động, TCLĐ được giải quyết theo các nguyên
tắc sau:
− Nguyên tắc thứ nhất: Thương lượng trực tiếp và tự dàn xếp giữa hai bên tranh chấp tại
nơi phát sinh tranh chấp.
− Nguyên tắc thứ hai: Thông qua hoà giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích
của hai bên, tôn trọng lợi ích của hai bên, tôn trọng ích chung của xã hội.
− Nguyên tắc thứ ba: Giải quyết TCLĐ công khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng,
đúng pháp luật.
− Nguyên tắc thứ tư: Có sự tham gia của đại diện công đoàn và của đại diện người sử
dụng lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Đây là một trong những nguyên tắc đặc thù của việc giải quyết TCLĐ so với việc
giải quyết các loại tranh chấp khác.
23
Thẩm quyền giải quyết và trình tự giải quyết tranh chấp lao động
Trình tự giải quyết TCLĐ cá nhân
Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, Hòa giải viên lao động cấp huyện tiến hành
hòa giải chậm nhất 5 ngày tính từ ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải. Tại phiên họp
hòa giải phải có mặt 2 bên tranh chấp hoặc đại diện được ủy quyền của họ. Hội đồng
hòa giải lao động cơ sở đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét.
• Nếu chấp thuận thì lập biên bản hòa giải thành. Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các
thỏa thuận đã ghi trong biên bản.
• Nếu không thành thì lập biên bản hòa giải không thành. Mỗi bên tranh chấp có quyền
yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết.
Trình tự giải quyết TCLĐ tập thể
− Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc Hòa giải viên lao động cấp huyện tiến hành hòa
giải chậm nhất 5 ngày tính từ ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải. Tại phiên họp hòa
giải phải có mặt 2 bên tranh chấp hoặc đại diện được ủy quyền của họ. Hội đồng hòa
giải lao động cơ sở đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét.
• Nếu chấp thuận thì lập biên bản hòa giải thành. Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các
thoả thuận đã ghi trong biên bản.
• Nếu không thành thì lập biên bản hòa giải không thành, ghi ý kiến của 2 bên tranh
chấp và của Hội đồng. Mỗi bên hoặc cả 2 bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng
trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết.
− Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh có trách nhiệm tiến hành hoà giải và giải quyết vụ
tranh chấp chậm nhất là 10 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu.
Tại phiên họp giải quyết tranh chấp phải có mặt các đại diện được ủy quyền của
2 bên tranh chấp hoặc. Trường hợp cần thiết, phiên họp sẽ có đại diện của công đoàn
cấp trên của CĐCS và đại diện của cơ quan nhà nước tham dự.
Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét:
• Nếu chấp thuận thì lập biên bản hoà giải thành. Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các
•
thoả thuận đã ghi trong biên bản;
Nếu không thành thì lập biên bản hoà giải không thành, thì Hội đồng trọng tài lao
động cấp tỉnh giải quyết vụ tranh chấp bằng quyết định của mình và thông báo ngay
cho 2 bên tranh chấp. Nếu 2 bên không có ý kiến thì quyết định có hiệu lực thi hành.
Trường hợp tập thể lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài, thì
có quyền yêu cầu Toà án giải quyết hoặc đình công; Người sử dụng lao động có quyền
yêu cầu Toà án xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài (yêu cầu này không cản trở
quyền đình công của tập thể lao động).
24
CHƯƠNG 2:
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH
KIM ANH
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến việc thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi ở việt nam
2.1.1. Tổng quan tình hình
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, không chỉ tạo ra của cải
vật chất mà còn xây dựng giá trị tinh thần cho xã hội. Lao động đạt năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao chính là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Để đạt
được năng suất, chất lượng hiệu quả cao trong lao động, bảo vệ người lao động là vấn
đề rất cần được quan tâm. Với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân, vấn đề
bảo vệ người lao động đối với Việt Nam lại càng chú trọng ở mức độ cao. Trong vấn
đề bảo vệ người lao động, nội dung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là nội
dung quan trọng. Bởi lẽ sức lạo động không phải là vô tận, nó chỉ được tái tạo nếu như
có chế độ nghỉ ngơi hợp lý. Trên thực tế, pháp luật lao động Việt Nam đã quy định một
cách rõ ràng, cụ thể thông qua BLLĐ 2012 và các văn bản liên quan.
Qua Chương 1 nghiên cứu một số khái niệm về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi, khái quát về cơ sở ban hành, nguyên tắc pháp luật, các nội dung cơ bản của pháp
luật điều chỉnh vấn đề này. Trong chương 2, khóa luận tập trung đánh giá về thực trạng
hiện nay các quy định của pháp luật và việc áp dụng thực tiễn tại Công ty TNHH Kim
Anh. Việc đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật nhằm rút ra những
thành tựu đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện pháp luật
tại đơn vị thực tập.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở Việt
Nam
2.1.2.1. Nhân tố pháp luật
Trong quan hệ pháp luật lao động, làm việc là nghĩa vụ của người lao động còn
nghỉ ngơi chính là quyền của người lao động. Muốn đạt được hiệu quả năng suất cao,
không bị gián đoạn thì người sử dụng lao động phải tạo điều kiện cho người lao động
được nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động. Chính vì vậy, mà pháp luật lao động Việt Nam
đã có nội dung quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Tuỳ thuộc vào từng
tính chất công việc mà các doanh nghiệp quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi của mình sao cho phù hợp với các quy định của pháp luật.
25