Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại – Thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Huy Hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.35 KB, 47 trang )

TÓM LƯỢC
Hiện nay nền kinh tế của nước ta đang ngày càng phát triển, đặc biệt là sự hội
nhập với thế giới làm cho hoạt động thương mại phát triển không ngừng, các hợp đồng
thương mại ký kết ngày càng nhiều. Song song với sự phát triển số lượng các hợp
đồng thì nội dung của hợp đồng ngày càng được quan tâm nhiều hơn, nội dung ngày
càng chi tiết hơn, đặc biệt là sự quan tâm thỏa thuận các điều khoản về chế tài thương
mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng. Tuy nhiên quy định của pháp
luật còn nhiều thiếu sót và bất cập dẫn tới việc khó khăn khi áp dụng quy định về phạt
vi phạm trong hợp đồng thương mại, khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Từ thực tế đó,chương 1 khóa luận nghiên cứu một số vấn đề về chế tài bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại theo quy định của Luật thương mại 2005
và Bộ luật Dân sự 2015 như: các khái niệm liên quan đến hợp đồng thương mại, chế
tài thương mại và chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
Chương 2 khóa luận tập trung chỉ ra thực trạng các quy phạm pháp luật điều
chỉnh chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, thực trạng thực hiện quy
định pháp luật về chế tài phạt vi phạm hợp đồng thương mại và thực tiễn tại Công ty
TNHH Huy Hải.
Dựa trên những phân tích, những bất cập đã được chỉ ra, chương 3 khóa luận đưa
ra một số quan điểm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế
tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.

1


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Với
lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Khoa Kinh tế - Luật –
Trường Đại học Thương mại đã cùng tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn
kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường. Và đặc biệt,
trong thời gian này, khi chúng em thực hiện bài khóa luận tốt nghiệp, các thầy cô đã


dành rất nhiều thời gian để chỉ bảo và hướng dẫn cho chúng em.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Ths Tạ Thị Thuỳ Trang đã tận tâm hướng
dẫn em và giúp em hoàn thành khóa luận này.
Bài khóa luận tốt nghiệp được thực hiện trong khoảng thời gian gần 2 tháng.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu để hoàn thành bài khóa luận này em đã rất cố
gắng, nhưng do kiến thức, kinh nghiệm của em còn hạn chế vì vậy chắc chắn không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý
báu của quý thầy cô và em sẽ tiếp thu, sửa đổi để kiến thức của em được hoàn thiện
hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc thầy cô Khoa Kinh tế - Luật và cô Tạ Thị Thuỳ
Trang thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình
là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Ngọc Nhi

2


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại...................................................................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................3

4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..........................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................4
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp..................................................................................5
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI..............................6
1.1. Tổng quan về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.......................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng thương mại.....................................................6
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương
mại................................................................................................................................. 9
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
13
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng thương mại.................................................................................................14
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại.................................................................................................................14
1.2.2. Nội dung pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại....15
1.3. Các nguyên tắc pháp luật điều chỉnh chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng thương mại........................................................................................................19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI - THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG
TY TNHH HUY HẢI.................................................................................................22
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại........................................................................22
2.1.1. Tổng quan tình hình về pháp luật bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại.................................................................................................................22
3


2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật phạt bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng thương mại........................................................................................................23

2.2. Thực trạng các qui phạm pháp luật điều chỉnh bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng thương mại........................................................................................................25
2.2.1. Quy định về mức bồi thường thiệt hại............................................................25
2.2.2. Về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thiệt hại trong hợp đồng
thương mại.................................................................................................................28
2.3. Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng thương mại tại Công ty TNHH Huy Hải.................................................29
2.3.1. Khái quát về Công ty TNHH Huy Hải...........................................................29
2.3.2. Thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật về bồi thường thiệt hại tại
Công ty TNHH Huy Hải............................................................................................30
2.4. Các kết luận.........................................................................................................35
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI...................................................................................36
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi về bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại........................................................................36
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi về
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại....................................................37
3.2.1. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại.................................................................................................................37
3.2.2. Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng thương mại........................................................................................................38
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu về pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng thương mại................................................................................39
KẾT LUẬN................................................................................................................. 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2005
BLDS 2015
LTM 2005

Bộ luật Dân sự 2005
Bộ luật Dân sự 2015
Luật Thương mại 2005

VN

Việt Nam

5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại
Trải qua một quá trình dài đầy khó khăn trong việc phấn đấu để trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vào ngày 07/11/2006 Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO, điều này lại một lần nữa khẳng định
Việt Nam luôn luôn chủ động để hòa nhập chung vào nền kinh tế thế giới hiện đại.
Hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt sau khi gia
nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với tiến trình
phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự thiết lập nền
tảng pháp lí là quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại và phương thức hình
thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Những giao dịch, hợp tác mà chúng
ta tham gia ký kết ngày càng nhiều. Những hợp đồng trong và ngoài nước ngày càng
được ký kết một cách đa dạng hơn. Các quan hệ hợp đồng trong thương mại cũng vì lẽ

đó mà trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Mặt trái của nó là các vi phạm hợp đồng cũng
diễn ra nhiều và ngày càng phổ biến hơn. Để đảm bảo cam kết giữa các bên được thực
hiện, bù đắp những thiệt hại xảy ra cho bên bị vi phạm, pháp luật về chế tài trong
thương mại đã ra đời và ngày càng hoàn thiện hơn. Với việc ban hành Luật thương mại
năm 2005, việc quy định các hình thức chế tài trong thương mại có ý nghĩa quan trọng
nhằm đảm bảo ổn định các quan hệ hợp đồng, trật tự pháp luật, khôi phục lợi ích của
bên bị vi phạm, giáo dục ý thức pháp luật về hợp đồng. Tiếp nhận sự đổi mới của hệ
thống pháp luật về hợp đồng trong những năm gần đây, nhu cầu tìm hiểu về vấn đề chế
tài trong thương mại ngày càng trở nên bức thiết nhằm ổn định các quan hệ hợp đồng,
nhất là khi Việt Nam đã tham ra vào sân chơi quốc tế về các vấn đề thương mại.
Trong hệ thống pháp luật về chế tài thương mại được quy định trong Luật thương
mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 thì chế tài bồi thường thiệt hại là một trong những
chế tài được áp dụng một cách phổ biến và thường xuyên nhất. Khi một bên không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng gây thiệt hại
cho bên đối tác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Các quy định của pháp
luật về chế tài bồi thường thiệt hại đã góp phần đảm bảo cho hợp đồng thương mại
được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
trước hành vi vi phạm. Bồi thường thiệt hại là một chế tài pháp luật phổ biến đã có từ
rất lâu trong hệ thống pháp luật của nước ta cũng như của các nước trên thế giới. Tuy
nhiên không vì lí do đó mà việc nghiên cứu đề tài này giảm đi tính thời sự của nó.
Nguyên nhân chính là do các quy định về bồi thương thiệt hại trong hợp đồng thương
1


mại còn nhiều điểm gây bàn cãi, thực tiễn áp dụng chế tài trên vẫn còn những hạn
chế, vướng mắc nhất định, như cách xác định giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp, các
biện pháp hạn chế tổn thất trong chế tài bồi thường thiệt hại cũng chưa được quy
định cụ thể.
Chính vì những lý do trên, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế tài
thương mại nói chung cũng như chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng là hết sức cần

thiết. Qua đó góp phần bảo vệ các thương nhân, tổ chức và cá nhân Việt Nam khi họ
tham gia các hoạt động thương mại. Xuất phát từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề
tài: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại – Thực tiễn thực
hiện tại công ty TNHH Huy Hải” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hợp đồng thương mại nói
chung cũng như các công trình nghiên cứu về chế tài bồi thường thiệt hại trong thương
mại nói riêng, có thể kể đến như :
Luận văn thạc sĩ “Chế tài pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” năm
2009 của Th.S Phạm Thị Minh Phương. Luận văn nghiên cứu chung về chế tài pháp
luật, đồng thời đưa ra một số vấn đề cả về lý luận và thực tiễn còn tồn đọng. Từ đó,
nhận xét thực trạng và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về vấn đề này.
Đỗ Văn Đại (2010), Cuốn sách “ Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng
hợp đồng trong pháp luật Việt Nam”, nxb Chính trị Quốc gia, tác giả đã mở ra nhiều
hướng nghiên cứu mới về vấn đề xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng.
Bài viết “ Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng kinh doanh thương mại của doanh
nghiệp” của công ty luật Minh Khê – đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Bài viết đã chỉ ra
được cơ sở lý luận về hợp đồng kinh doanh, thương mại và quy định của pháp luật về
phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Ngoài ra bài viết còn đưa ra các vấn đề về thực
tiễn đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng. Qua đó đưa ra các ý kiến trao đổi, tập
trung vào các chế tài thường được thoả thuận trong hợp đồng gắn với việc liên hệ đến
các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam với thực tiễn và thông lệ phổ biến trên
thế giới.
Bài viết “Chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng” của công
ty Luật PLF được đăng trên website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VCCI. Bài viết đã phân biệt rõ những khác biệt chính của hai chế tài thương mại
thường được sử dụng đó là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, trong đó nổi bật là
vấn đề áp dụng các chế tài trong hợp đồng thương mại.


2


Những bài viết trên đã nêu ra được một cách khái quát quy định của pháp luật
Việt Nam về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại cũng như một vài
vấn đề liên quan mật thiết với chế tài này. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề cần thảo
luận chưa được đề cập đến một cách sâu sắc và chi tiết. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại – Thực
tiễn thực hiện tại công ty TNHH Huy Hải có ý nghĩa thiết thực đối với các doanh
nghiệp nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Quan hệ hợp đồng ngày càng phát triển để đáp ứng sự phát triển của hoạt động
thương mại của nền kinh tế mở cửa và hội nhập. Sự phát triển của hoạt động thương
mại khiến nhận thức của chủ thể đối với nội dung hợp đồng, đối với các chế tài thương
mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại nói riêng
ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên quy định của pháp luật vẫn còn những điểm bất
cập, chưa cụ thể gây khó khăn khi áp dụng, giải quyết tranh chấp. Từ thực tế trên khóa
luận nghiên cứu một số vấn đề sau: Khóa luận làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp
đồng thương mại, chế tài thương mại và chế tài chế tài bồi thường thiệt hại để cung
cấp kiến thức lý luận về vấn đề nghiên cứu. Khóa luận chỉ ra một số điểm chưa hợp lý
trong quy định pháp luật điều chỉnh chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương
mại, phân tích thực trạng áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương
mại. Từ những phân tích, bất cập đã chỉ ra, khóa luận kiến nghị một số giải pháp hoàn
thiện quy định pháp luật về chế tài thương mại nói chung cũng như chế tài bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại nói riêng.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định và những tình huống thực tế
của pháp luật Việt Nam trong Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 về chế
tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại. Bên cạnh đó, khóa luận đề xuất

hướng giải quyết, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật về chế tài bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Tiếp cận vấn đề nghiên cứu về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại cả góc độ lý luận và thực tiễn. Từ những nghiên cứu, phân tích làm rõ
được các bất cập trong quy định pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng thương mại, những khó khăn khi áp dụng quy định pháp luật. Dựa trên những bất
cập đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, giảm những khó

3


khăn khi áp dụng chế tài chế tài bồi thường thiệt hại. Những mục tiêu cụ thể của khóa
luận như sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng thương mại, chế
tài thương mại và chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
Thứ hai, phân tích thực trạng quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng thương mại và thực tiễn tại Công ty TNHH Huy Hải để chỉ ra những bất cập
và khó khăn khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
Thứ ba, trên cơ sở thực trạng đó, đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Do sự hạn chế thời gian cũng như khả năng nghiên cứu mà em chỉ tập trung
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại:
Về thời gian: Tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật kể từ khi Luật
Thương Mại 2005 được ban hành cho đến nay. Các quy định pháp luật được nghiên
cứu là các quy định về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại theo
quy định của pháp luật Việt Nam.

Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên chủ
thể của hợp đồng trong trường hợp có sự vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
tại Việt Nam, nghiên cứu điển hình tại công ty TNHH Huy Hải.
Về nguồn tư liệu: Khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu trong các quy định của
pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại theo Luật Thương
mại Việt Nam 2005, Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, khoá luận chủ yếu sử dụng phép liệt kê, so
sánh và phân tích làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra để thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu, còn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu với
nhau, cụ thể:
 Phương pháp liệt kê, tổng hợp: được sử dụng để tổng hợp quy định của pháp
luật liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại. Phương
pháp này giúp người đọc có cái nhìn tổng quát về hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề
nghiên cứu để có được nhận xét khách quan.
 Phương pháp so sánh, phân tích: được sử dụng để phân tích, lí giải các quy
định của pháp luật, so sánh, đối chiếu các quy định giữa các văn bản quy phạm khác

4


nhau để rút ra những nhận xét, giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về các quy định của
pháp luật.
 Phương pháp dẫn chứng, chứng minh: đưa ra các tình huống, ví dụ cụ thể xảy
ra trong ký kết và thực hiện hợp đồng của Công ty TNHH Huy Hải, từ đó để thấy rõ
những điểm mạnh và những hạn chế trong quy định của pháp luật về chế tài bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại. Từ những phân tích đã làm được sẽ đưa
ra những kết luận vấn đề nghiên cứu, kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện quy
định về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp

Ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận tốt nghiệp
bao gồm 3 chương:
Chương 1 – Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng thương mại.
Chương 2 - Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương
mại.
Chương 3 – Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.

5


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng thương mại
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như tổ chức phải tham gia nhiều mối
quan hệ xã hội khác nhau. Khi các mối quan hệ về tài sản, các mối quan hệ về nhân
thân càng ngày càng phát triển trong xã hội, một nhu cầu về trao đổi tài sản, hàng hóa
cũng như vấn đề thuê nhân lực để phục vụ cho việc phát triển tài sản của mình cũng
ngày càng phát triển theo. Khi ý chí của các bên trong việc trao đổi đó gặp nhau ở một
số điểm nhất định, họ muốn tiến tới thực hiện ý chí của nhau ở những điểm trùng lặp
đó. Nhưng việc tiến hành những điểm chung đó là chưa đủ, cần có một cơ chế để giúp
việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau khi họ thực hiện ý chí của mình,
và từ đó hợp đồng ra đời
Vậy hợp đồng là gì? Hiểu theo một cách khái quát và chung nhất theo nghĩa
rộng, hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề
nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của các bên. Bản chất thực sự của hợp đồng là sự tự nguyện và thống nhất ý chí thông
qua sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Hợp đồng còn đóng vai trò là bằng chứng

pháp lý cho sự thỏa thuận giữa các bên, đảm bảo cho việc các bên thực hiện đúng theo
những gì đã thỏa thuận. Ngày nay, các quan hệ kinh tế xã hội đều được xác lập và thực
hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng. Giao kết và thực hiện hợp đồng chính là
cách thức cơ bản để thực hiện hiệu quả các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị
trường ngày nay.
Khoa học pháp lý cũng như pháp luật thực thi ở Việt Nam từ trước tới nay đã sử
dụng nhiều khái niệm pháp lý để chỉ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại như: hợp
đồng kinh doanh, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại… Pháp luật hiện hành
không đưa ra định nghĩa pháp lý về hợp đồng thương mại mà chỉ quy định khái niệm
chung về hợp đồng trong dân sự. Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra khái niệm về hợp
đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 385 BLDS 2005). Với phạm vi áp dụng của BLDS
2015, các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng cho hợp đồng nói chung (trong
các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động). Theo đó, các quy định về
hợp đồng dân sự được áp dụng cho các dạng hợp đồng nói chung, bao gồm cả các
dạng hợp đồng phát sinh từ quan hệ kinh doanh, mua bán hàng hóa. Do đó, có thể hiểu

6


khái niệm về hợp đồng dân sự là khái niệm chung về hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và kinh doanh.
Dù pháp luật thương mại Việt Nam không có quy định về khái niệm hợp đồng
thương mại, nhưng có thể hiểu hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của hành vi
thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải là
thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại.
Các hoạt động thương mại ở đây được xác định theo Luật thương mại 2005, cụ
thể tại Điều 1 Luật thương mại 2005, theo đó bao gồm: “hoạt động thương mại thực
hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoạt động thương mại

thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn áp dụng
Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt
động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực
hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm
mục đích sinh lợi đó áp dụng luật này.”
Về mặt lý luận, hợp đồng thương mại là một loại hợp đồng dân sự (một dạng cụ
thể của hợp đồng dân sự) nên nó sẽ mang những đặc điểm của hợp đồng dân sự:
Thứ nhất, hợp đồng phải thể hiện được sự tự do ý chí của các bên tham gia giao kết.
Trong các hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức là có sự
ưng thuận giữa các bên với nhau. Đây là kết quả tất yếu của tự do hợp đồng: khi giao
kết hợp đồng các bên được tự do quy định nội dung hợp đồng, tự do xác định phạm vi
quyền và nghĩa vụ của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng không phải là tự do tuyệt
đối. Nhà nước buộc các bên khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức, trật tự xã
hội, trật tự công cộng. Trong những trường hợp thật cần thiết, nhân danh tổ chức
quyền lực công, nhà nước có thể can thiệp vào việc ký kết hợp đồng và do đó giới hạn
quyền tự do giao kết hợp đồng. Tuy nhiên sự can thiệp này phải là sự can thiệp hợp lý
và được pháp luật quy định chặt chẽ để tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền tự do hợp
đồng.
Yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp đồng luôn được đề cao. Chỉ được coi là hợp
đồng khi những thỏa thuận thực sự phù hợp với ý chí của các bên, tức là có sự ưng
thuận đích thực giữa các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp pháp do vậy sự ưng
thuận ở đây phải là sự ưng thuận hợp lẽ công bằng, hợp pháp luật, hợp đạo đức. Các
hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc mua chuộc là
không có sự ưng thuận đích thực. Những trường hợp có sự lừa dối, đe dọa, cưỡng bức
thì dù có sự ưng thuận cũng không được coi là hợp đồng, tức là có sự vô hiệu của hợp

7


đồng. Như vậy, một sự thỏa thuận không thể hiện ý chí thực của các bên thì không

phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên.
Thứ hai, hợp đồng là tập hợp những cam kết được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Chế định hợp đồng luôn tôn trọng sự tự do của các bên giao kết, song sự tự do đó
phải giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ bảo vệ những
cam kết không xâm hại đến trật tự pháp luật, trật tự công cộng. Xuất phát từ nguyên
tắc cơ bản trong quan hệ dân sự là tôn trọng quyền tự do ý chí của mọi cá nhân và các
chủ thể khác trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của mình, pháp luật các nước đều
cho phép các chủ thể được hoàn toàn tự do giao kết hợp đồng, miễn là không trái pháp
luật và đạo đức xã hội. Việc hình thành các hạn chế của nguyên tắc tự do trong ký kết
hợp đồng xuất phát từ quan điểmbảo vệ trật tự công và lợi ích chung của xã hội. Vì
vậy, pháp luật sẽ bảo vệ lợi ích và quyền của các bên song lợi ích này phải không được
xâm hại đến trật tự và lợi ích công.
Thứ ba, chế định hợp đồng mang tính bắt buộc song cũng hết sức linh hoạt, mềm dẻo.
Điều này không dễ dàng đạt được nếu như quy định pháp luật không được xây
dựng theo hướng đề cao tự do ý chí của các bên, pháp luật chỉ can thiệp ở giới hạn cần
thiết.
Đối với hợp đồng thương mại, ngoài việc mang những đặc điểm chung của hợp
đồng dân sự, còn có những đặc điểm riêng nhất định. Có thể xem xét hợp đồng trong
mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng. Từ cách tiếp cận này những vấn đề cơ bản về
hợp đồng thương mại như: giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện pháp đảm bảo
thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu ... được điều chỉnh
bởi pháp luật và không có sự khác biệt với các hợp đồng dân sự thông thường. Song,
xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề về hợp
đồng trong thương mại được quy định trong các lĩnh vực cụ thể (như chủ thể, hình
thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng...).
Theo quy định hiện hành, có thể thấy một số đặc điểm riêng của hợp đồng thương mại
như sau:
Thứ nhất, về chủ thể hợp đồng: hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu giữa
các chủ thể kinh doanh (chủ yếu là thương nhân). Theo quy định của Luật Thương mại
2005, thương nhân bao gồm: tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt

động kinh doanh một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Có những
quan hệ hợp đồng trong thương mại đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân, như: hợp
đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng
cáo thương mại... Có những hợp đồng thương mại chỉ đòi hỏi ít nhất một bên là
thương nhân, như: hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá
8


hàng hoá, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng dịch vụ xây dựng, hợp đồng bảo
hiểm... Cá biệt, có những hợp đồng thương mạikhông nhất thiết chủ thể hợp đồng phải
là thương nhân, như: hợp đồng giao kết giữa các chủ thể kinh doanh là những người
bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập
thấp (những người này không phải đăng ký kinh doanh, do đó họ không phải là thương
nhân).
Thứ hai,về hình thức: Hợp đồng trong thương mại được thiết lập theo cách thức
mà hai bên thoả thuận, có thể được thể hiện bằng hình thức lời nói, văn bản hoặc hành
vi cụ thể. Trong một số trường hợp, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng
bằng hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương với văn bản (hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương
mại, ...)
Thứ ba, mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng thương mại là lợi nhuận:
Mục đích lợi nhuận là đặc trưng của các giao dịch thương mại. Khi tham gia hợp đồng
thương mại, thông thường các bên của hợp đồng đều nhằm thu được lợi nhuận từ việc
thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, một bên của hợp đồng thương
mại không có mục đích lợi nhuận. Những hợp đồng này, về nguyên tắc không đương
nhiên chịu sự điều chỉnh bỡi những quy định riêng của pháp luật kinh doanh. Theo
Luật thương mại 2005, những hợp đồng được ký kết giữa một bên là thương nhân với
một bên là chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận thì
việc có áp dụng Luật thương mại để điều chỉnh quan hệ trong hợp đồng đó hay không

là do bên không có mục đích lợi nhuận trong hợp đồng đó quyết định.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại
Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động
mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng mệnh lệnh
của Nhà nước đã nêu ở phần quy định của quy định pháp luật.
Đối với khái niệm chế tài trong thương mại, thực tiễn pháp lý ở Việt Nam vẫn có
cách nhận diện khác nhau về vấn đề này.
Theo nghĩa rộng, chế tài trong thương mại là những hình thức chế tài do cơ quan
nhà nước, bên bị vi phạm áp dụng đối với chủ thể vi phạm khi có hành vi vi phạm
pháp luật thương mại.
Hành vi vi phạm pháp luật thương mại ở đây bao gồm các hành vi vi phạm trong
quá trình các chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng; các hành vi vi phạm quy định pháp
luật về trật tự quản lý kinh tế. Tùy thuộc vào mức độ vi phạm, hậu quả mà chủ thể có
9


hành vi vi phạm bị áp dụng chế tài hành chính, dân sự (ví dụ: bồi thương thiệt hại) hay
hình sự (ví dụ: các hình phạt đối với tội "Buôn lậu"). Như vậy, chế tài dân sự hiểu theo
nghĩa rộng không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm mà còn
bảo đảm lợi ích của Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp,. Chế tài thương mại theo nghĩa hẹp được áp dụng cho bên vi
phạm khi có những hành vi vi phạm xảy ra trong giao kết, thực hiện hợp đồng. Chế tài
này còn được gọi là chế tài hợp đồng. Khi một bên chủ thể vi phạm các quy định về
thương mại được quy định trong Luật Thương mại 2005 và các quy định khác có liên
quan, sẽ bị áp dụng các chế tài được quy định tại Điều 292, Luật thương mại 2005, cụ thể:
"Điều 292. Các loại chế tài trong thương mại
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
2. Phạt vi phạm.
3. Buộc bồi thường thiệt hại.

4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
6. Huỷ bỏ hợp đồng.
7. Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên và tập quán thương mại quốc tế. "
Như vậy, chế tài hiểu theo nghĩa hẹp là những chế tài mang bản chất dân sự, có
tác động bất lợi về tài sản đối với chủ thể vi phạm nhằm mục đích đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm.
Như vậy, Luật Thương mại 2005 tiếp cận chế tài thương mại theo nghĩa hẹp, thể
hiện sự gánh chịu hậu quả bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại.
Đối với khái niệm chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, pháp
luật dân sự Việt Nam không có định nghĩa cụ thể về vấn đề này. Còn theo pháp luật
thương mại, Khoản 1 Điều 302 Luật thương mại 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại
là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
cho bên bị vi phạm”.
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta đều thấy rằng, mỗi người trong
xã hội đều phải tôn trọng những quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích cá nhân
mình mà xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi
phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn thất cho người khác thì chính người đó sẽ
phải chịu hậu quả bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu hậu quả bất lợi đó
bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại.

10


Việc bồi thường thiệt hại là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên vi phạm hợp đồng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. BLDS 2015 không có định nghĩa thế nào là bồi thường
thiệt hại nhưng có quy định khi bên nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ và hành vi này là
nguyên nhân gây ra tổn thất, thiệt hại cho bên kia (hoặc bất kỳ ai khác, kể cả người

không tham gia, ký kết hợp đồng) đều có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại. Nhưng
đối với pháp luật thương mại thì chế tài bồi thường thiệt hại chỉ hướng đến những chủ
thể tham gia vào quan hệ hợp đồng thương mại.
Dù cả BLDS 2015 là Luật thương mại 2005 đều không quy định rõ khái niệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại nhưng chúng ta có thể hiểu: “Bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại là hình thức trách nhiệm dân sự mà theo đó bên
có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thương mại gây ra thiệt hại cho bên khác thì
phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất do hành vi của mình gây ra”.
Như đã trình bày, bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại là hình thức
chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng
thương mại. Với cách hiểu đó, chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về cơ sở phát sinh: chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương
mại phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại.
Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực hiện, thực hiện không đúng
hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
mang tính chất tài sản, căn cứ áp dụng là theo sự cam kết giữa các bên hoặc theo quy
định của pháp luật. Khác với các loại chế tài pháp lý nói chung được áp dụng với mọi
hành vi vi phạm pháp luật, chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
được áp dụng đối với những hành vi vi phạm những điều khoản gây ra thiệt hại thực tế
mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận
nên các bên được tự nguyện giao kết và thỏa thuận những điều khoản trong hợp đồng
để phù hợp với mục đích kinh doanh của mình. Chính vì vậy, khi hợp đồng phát sinh
hiệu lực các bên sẽ phải ràng buộc với nhau về các quyền và nghĩa vụ đã cam kết, mọi
hành vi vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng sẽ phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý bất lợi hay những chế tài do vi phạm hợp đồng
Thứ hai, về tính chất: Chế tài do bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
là chế tài mang tính chất tài sản.
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại được áp dụng khi có hành vi vi phạm
hợp đồng và buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Yếu tố

tài sản thể hiện ở cách thức bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, đó là:

11


- Bên vi phạm phải dùng tiền (tài sản) thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ cam kết trong hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo
sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
- Bên vi phạm buộc phải có những chi phí hợp lý cần thiết để thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng. Ví dụ như chi phí sủa chữa sai sót, loại trừ khuyết tật của hàng hóa…
Thứ ba, chủ thể có quyền lựa chọn và áp dụng các hình thức chế tài bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại là chủ thể có quyền và lợi ích bị vi phạm trong
quan hệ hợp đồng.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu
bên vi phạm thực hiện một hay nhiều hình thức chế tài theo cam kết trong hợp đồng
hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp yêu cầu thực hiện chế tài trong thương
mại không được đáp ứng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều này thể hiện được quyền lựa chọn và
quyết định áp dụng chế tài của bên bị vi phạmđối với bên vi phạm hợp đồng thương
mại đã ký kết. Tòa án hay Trọng tài khi được yêu cầu giải quyết tranh chấp phải tôn
trọng quyền tự định đoạt của nguyên đơn hoặc cũng có thể là yêu cầu phản tố của bị
đơn. Việc Tòa án hay Trọng tài ban hành phán quyết buộc bị đơn phải bồi thường thiệt
hại thể hiện cơ quan này đã chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn
chứ không thể hiện được việc quyết định áp dụng hình thức chế tài nào hay có áp dụng
chế tài hay không mà quyền quyết định này thuộc về bên bị vi phạm.
Thứ tư, chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng trong thương mại sẽ được áp
dụng trực tiếp đối với bên có hành vi vi phạm trong quan hệ hợp đồng.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm phải trực tiếp chịu trách nhiệm
đối với bên bị vi phạm không phụ thuộc vào nguyên nhân sự vi phạm là do tổ chức, cá

nhân nào gây ra. Việc bên vi phạm phải trực tiếp chịu trách nhiệm với bên bị vi phạm
thể hiện ở việc bên vi phạm hợp đồng phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
để bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm.
Thứ năm, chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Xây dựng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại trước hết là ngăn ngừa và hạn
chế những hành vi vi phạm hợp đồng; khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng nhằm khôi
phục lại trạng thái ban đầu, bồi hoàn những tổn thất đã xảy ra và trừng phạt bên vi
phạm. Tất cả những điều này suy cho cùng là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng. Bởi khi các bên tự do thỏa thuận giao kết

12


hợp đồng thì bất cứ hành vi vi phạm hợp đồng nào cũng phải bị trừng phạt để bảo vệ
lợi ích của chủ thể.
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại
Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về hình
thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Từ các quy định của Luật Thương
mại 2005, các bên có thể thỏa thuận việc áp dụng hay không áp dụng chế tài buộc bồi
thường thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt
vi phạm hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi
phạm hợp đồng vừa phải bồi thường thiệt hại. Xuất phát từ việc phân chia các quan hệ
hợp đồng trong hoạt động dân sự và thương mại thành những lĩnh vực riêng biệt và
được điều chỉnh bởi các quy định của các văn bản pháp luật khác nhau mà các quy
định về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng có các vai trò sau:
Thứ nhất, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng trong thương mại. Cả BLDS 2005,
BLDS 2015 và Luật thương mại 2005 đều đề cao nguyên tắc tự do, tự nguyện và thiện
chí khi thực hiện hợp đồng. Các chủ thể có thể tự do thỏa thuận, ký kết hợp đồng theo

ý chí của mình trong khuôn khổ cho phép, pháp luật không thừa nhận những trường
hợp bị cưỡng ép, lừa dối. Tuy nhiên, một khi thỏa thuận đã đạt được thì hai bên cần
nghiêm túc thực hiện. Có những trường hợp biết trước rằng việc tiếp tục thực hiện sẽ
dẫn đến tình trạng bất lợi cho mình nhưng nếu không thực hiện thì sẽ bị đối tác yêu
cầu phạt hay bồi thường thiệt hại, tình trạng sẽ càng tồi tệ hơn nữa nên dù không muốn
nhưng vẫn phải tuân thủ thỏa thuận. Pháp luật đưa ra các quy định về chế tài bồi
thường thiệt hại đã giúp cho những chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng có thể
bảo vệ được quyền lợi của mình khi bị xâm phạm. Điều này cho thấy, việc bồi thường
thiệt hại có vai trò trong việc hình thành và củng cố thái độ tích cực của các bên đối
với nghĩa vụ phát sinh từ những thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ hai, đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng thương mại.Bên cạnh việc áp
dụng chế tài làm tăng ý thức thực hiện hợp đồng của các bên thì việc áp dụng chế tài
bồi thường thiệt hại còn có vai trò đảm bảo việc thực hiện hợp đồng. Thỏa thuận điều
khoản hay các quy định về bồi thường thiệt hại để một phần nào đó tạo ra niềm tin cho
các bên khi cùng nhau hợp tác.
Thứ ba, bảo vệ lợi ích của các bên khi có hành vi vi phạm xảy ra. Trong thương
mại, các bên thực hiện việc giao kết hợp đồng chủ yếu với mục đích lợi nhuận, và tất
nhiên là các thương nhân đều muốn kiếm về cho mình lợi nhuận cao hơn nữa. Từ đó,
đã xảy ra không ít các hành vi vi phạm hợp đồng như không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ các nghĩa vụ. Các hành vi này luôn tiềm ẩn cao những nguy cơ gây thiệt
13


hại cho đối tác. Vì vậy, pháp luật đã đưa ra quy định về các chế tài cũng góp phần bảo
vệ quyền lợi, lợi ích của bên bị vi phạm khi có hành vi vi phạm xảy ra; mặt khác nó
giúp bù đắp phần nào tổn thất bên bị vi phạm phải gánh chịu. Tuy nhiên, không chỉ
dừng lại ở đó, pháp luật cũng bảo vệ cho cả bên vi phạm trong các trường hợp được
miễn trách nhiệm, các căn cứ, chứng minh, thủ tục áp dụng, mức phạt… để đảm bảo
rằng bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đúng theo mức độ vi
phạm. Do đó, chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng và các chế tài khác nói chung

không chỉ bảo vệ quyền lợi, lợi ích cho bên bị vi phạm mà còn bảo vệ cho cả bên vi
phạm trong quan hệ hợp đồng thương mại.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng thương mại
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng thương mại
Nhìn chung, cơ sở ban hành pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại được dựa trên những cơ sở như: chính trị, kinh tế - xã hội:
Về cơ sở chính trị:
Trong giai đoạn nước ta đã và đang tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế
hiện nay, Nhà nước phải có một khung pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh các quan hệ
đa dạng và phức tạp về hợp đồng trong thương mại. Việc xây dựng một chế độ pháp lý
về Hợp đồng kinh tế hoàn chỉnh đã được quan tâm đến khi nước ta bắt đầu chuyển
hướng phát triển nền kinh tế.
Trước đây, các vấn đề pháp lý về hợp đồng được quy định trong ba văn bản:
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật dân sự 1995 và Bộ Luật thương mại 1997.
Trong các văn bản này lại có những quy định không thống nhất và cũng không có các
quy định về mối quan hệ giữa các văn bản với nhau, do đó đã khiến cho người áp dụng
và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp dụng văn bản pháp luật
về hợp đồng. Và cho đến nay, khi các hoạt động kinh tế càng phát triển và trở nên
phức tạp thì các văn bản này không còn phù hợp nữa, yêu cầu hoàn thiện và đổi mới
các quy định của pháp luật về hợp đồng là vấn đề hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất
quan trọng trong điều kiện hiện nay.
Ngày 14/06/2005, Bộ Luật Dân Sự mới nhất đã được Quốc hội khóa 11 thông
qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Bộ luật dân sự 2005 được ban hành
thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Đây được coi là
đạo luật chung, áp dụng cho tất cả các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại tạo sự
thống nhất về pháp luật, đặt biệt trong điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Luật thương mại

14



năm 1997 cũng được thay thế bởi Luật thương mại mới được Quốc hội thông qua ngày
14/06/2005, có hiệu lực từ ngày01/01/2006. Đây là nguồn luật chính điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Bên trong đó cũng chứa các
quy định của pháp luật về chế tài trong thương mại nói chung và chế tài bồi thường
thiệt hại nói riêng.
Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại là bên vi phạm phải trả cho bên bị
vi phạm giá trị vật chất bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra. Do
dó về nguyên tắc bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho
bên bị vi phạm, không giới hạn bởi giá trị hợp đồng. Sự ban hành của nhà nước về các
quy định liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại đã và đang thể hiện rõ tầm quan
trọng của nó trong việc điều chỉnh sự phát triển của các hợp đồng trong doanh
nghiệp, bản thân doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần xây dựng phát triển nền
kinh tế nói chung.
Về cơ sở kinh tế - xã hội:
Từ khi Luật thương mại 2005 ra đời, tình hình kinh tế xã hội, hoạt động thương
mại đã có nhiều sự thay đổi nhiều bước phát triển mới, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Hoạt động thương mại, số lượng các hợp
đồng thương mại được ký kết phát triển không ngừng, các chế tài thương mại nói
chung và chế tài phạt vi phạm nói riêng được quan tâm và thỏa thuận áp dụng nhiều
hơn để thực hiện hợp đồng một cách thuận lợi và đảm bảo quyền lợi của các bên.
Nhận thức của thương nhân về các chế tài thương mại đã thay đổi, tình hình kinh tế
thay đổi đó là những yếu tố ảnh hưởng tới thực tế áp dụng chế tài thương mại và chế
tài bồi thường thiệt hại hợp đồng thương mại.
1.2.2. Nội dung pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
Quan hệ hợp đồng là một một quan hệ hết sức phổ biến trong lĩnh vực thương
mại.Một hợp đồng sau khi được giao kết và phù hợp với quy định của pháp luật thì sẽ
phát sinh quyền và nghĩa vụ với các bên. Tuy nhiên, không ít hợp đồng đã bị vi phạm
do vô tình hay có hành vi cố ý vi phạm. Để phòng ngừa các hành vi này thì bồi thường

thiệt hại trong hợp đồng thương mại là một biện pháp và cũng là chế tài được sử dụng
hết sức phổ biến và được quy định tại Bộ luật dân sự 2015 và Luật thương mại 2005.
Trong lĩnh vực thương mại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại với tư cách là một chế tài
trong thương mại chỉ phát sinh từ hợp đồng thương mại khi một trong các bên có hành
vi vi phạm hợp đồng, tức là sự vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại cho đối tác. Như vậy
có thể thấy, bồi thường thiệt hại là chế tài dùng để bù đắp những thiệt hại vật chất thực
tế cho bên bị vi phạm. Để thực hiện trong thực tiễn một cách hiệu quả thì chúng ta nên
nắm bắt được các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương
15


mại. Do vậy, em xin tập trung vào một số nội dung cơ bản về pháp luật bồi thường
thiệt hại: đối tượng và phạm vi điều chỉnh, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, , xác định thiệt hại và mức bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại và các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thiệt
hại trong hợp đồng thương mại.
1.2.2.1. Đối tượng áp dụng và phạm vi điều chỉnh của chế tài bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng thương mại
Như chúng ta đã biết, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương
mại được quy định trong Luật thương mại 2005. Căn cứ vào Điều 1 và 2 của Luật
thương mại 2005 thì quy định về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng chủ yếu được áp
dụng cho đối tượng là thương nhân và giao kết hợp đồng nhằm mục đích kinh doanh,
sinh lời. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Khoản 1,
Điều 6 Luật thương mại 2005). Hoạt động thương mại một cách độc lập có thể được
hiểu là hoạt động của chủ thể nhân danh mình, vì lợi ích của bản thân, không bị ràng
buộc, không bị chi phối bởi ý chí của các chủ thể khác mà được hoạch định bởi chính
ý chí của chủ thể đó. Chủ thể hoạt động thương mại một cách độc lập được toàn quyền
quyết định nội dung hoạt động cũng như chịu trách nhiệm trực tiếp về hành vi của
mình. Trong hoạt động thương mại, việc nhân danh mình là một hệ quả chính yếu xuất

phát từ quyền độc lập kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Hoạt động thương mại
thường xuyên được hiểu: trên cơ sở có kế hoạch lâu dài, được thực hiện một cách thực
tế, lặp đi lặp lại, kế tiếp, liên tục mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên để kiểm
sống, tạo ra nguồn thu nhập cho thương nhân.
Như vậy, có thể thấy là việc doanh nghiệp ký kết một hợp đồng bất kỳ với một
chủ thể khác nhằm mục đích kinh doanh đều thuộc sự điều chỉnh của Luật Thương
mại. Do vậy, nắm bắt rõ chủ thể là ai, ký kết hợp đồng nhằm mục đích gì sẽ giúp làm
sáng tỏ cho đối tượng của luật mà chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng.
1.2.2.2. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại
Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng khi một trong các bên của quan hệ hợp
đồng thương mại không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
của mình làm cho mục đích của bên còn lại không đạt được và ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích của họ. Khi đó bên vi phạm phải có trách nhiệm bù đắp những tổn thất đủ để
bên bị vi phạm có thể khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi có hành vi vi phạm
gây thiệt hại và thỏa mãn những quyền lợi chính đáng của mình.

16


Tuy nhiên khác với các loại chế tài khác, chế tài bồi thường thiệt hại chỉ được đặt
ra khi có đầy đủ các yếu tố theo quy định của pháp luật: có hành vi vi phạm hợp đồng,
có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Thứ nhất, có hành vi vi phạm hợp đồng: Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ
pháp lý cần thiết để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng.
Việc xác định hành vi vi phạm hợp đồng đóng vai trò rất quan trọng và cần thiết vì nó
là căn cứ pháp lý không thể thiếu để áp dụng các hình thức chế tài do vi phạm hợp
đồng thương mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng. Nếu không có
hành vi vi phạm hợp đồng thì không thể áp dụng bất cứ một loại chế tài nào.
Thứ hai, có thiệt hại thực tế: Nếu như hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện cần,

là căn cứ cần phải có đối với việc áp dụng các hình thức chế tài thì xác định thiệt hại
thực tế chỉ mang tính chất bắt buộc đối với chế tài bồi thường thiệt hại. Bên có hành vi
vi phạm hợp đồng chỉ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm nếu hành
vi vi phạm gây ra thiệt hại trên thực tế cho bên bị vi phạm. Nói cách khác, bên bị vi
phạm chỉ có thể yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại khi chứng minh được có
thiệt hại thực tế xảy ra và nguyên nhân là do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi
phạm.
Thứ ba, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại:
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại, hay nói cách khác
là giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại có mối quan hệ nhân quả. Mối quan hệ
nhân quả là mối quan hệ biện chứng, nội tại giữa nguyên nhân và kết quả, trong đó
nguyên nhân phải có trước và chính nguyên nhân đó dẫn đến kết quả. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
thương mại nói riêng đòi hỏi giữa hành vi vi phạm và thiệt hại phải có mối quan hệ
nhân quả. Hành vi vi phạm là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả tất yếu của hành vi
vi phạm đó. Nếu không có vi phạm thì không thể làm phát sinh thiệt hại.
Việc làm rõ các căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại là vấn đề
pháp lý quan trọng trong việc xác định điều kiện để các bên trong quan hệ hợp đồng
cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp có thể áp dụng các chế tài xử lý hành vi vi
phạm. Có đủ các căn cứ để áp dụng chế tài sẽ cung cấp cơ sở pháp lý quan trọng trong
việc xác định điều kiện áp dụng chế tài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị
vi phạm hợp đồng.
1.2.2.3. Mức bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
Hiện nay, quy định về mức bồi thường thiệt hại được quy định tại Khoản 2, Điều
302 Luật thương mại 2005. Theo Luật Thương mại: “giá trị bồi thường thiệt hại bao
gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây
17


ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi

vi phạm”.
Theo điều luật này, mức bồi thường thiệt hại chỉ có thể là mức thiệt hại thực tế
trực tiếp và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng. Nói cách khác, có thể hiểu các bên
không được thỏa thuận một mức bồi thường thiệt hại cố định không tương ứng với các
khoản tiền này.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, khi tính toán các khoản thiệt hại về tài sản
phải bồi thường, bên vi phạm chỉ phải bồi thường đối với những tổn thất thực tế, những
khoản lợi ích đáng lẽ được hưởng nếu không có vi phạm hợp đồng và các khoản này
được quy thành tiền. Thiệt hại được bồi thường là toàn bộ những tổn thất thực tế phát
sinh. Do đó, thiệt hại thực tế là bao nhiêu, thì bên vi phạm bồi thường bấy nhiêu.
1.2.2.4. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thiệt hại trong hợp đồng
thương mại
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi một bên vi phạm hợp đồng, tức là thực
hiện không đúng hoặc không đầy đủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận thì phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Tuy nhiên, không phải bất cứ trường hợp có hành vi vi
phạm nào cũng dẫn đến hậu quả là bị áp dụng chế tài. Nếu hành vi vi phạm của một
bên thuộc các trường hợp được miễn trách nhiệm mà bên vi phạm có thể chứng minh
được, thì họ không bị yêu cầu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Quy định này của
pháp luật thương mại nhằm dự liệu trước những sự cố nằm ngoài dự đoán có thể xảy
ra khiến cho một hoặc cả hai bên trong quan hệ hợp đồng thương mại không thể thực
hiện được nghĩa vụ của mình dẫn đến việc vi phạm hợp đồng. Các trường hợp miễn
trách nhiệm này có thể được các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc được pháp luật
quy định.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các trường hợp miễn trách nhiệm này được
quy định tại khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005 đã quy định bốn trường hợp
miễn trách nhiệm: xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận, xảy
ra sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia,
hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.”
Thứ nhất là trường hợp miễn trách nhiệm theo thỏa thuận của các bên: Pháp luật

thương mại đề cao tính tự do trong hợp đồng. Do vậy, các bên được quyền tự thỏa
thuận các trường hợp miễn trách nhiệm khi giao kết hợp đồng thương mại. Thỏa thuận
giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi xảy ra vi phạm và
có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Khi hợp đồng được giao kết
bằng văn bản, thì thỏa thuận miễn trách nhiệm được ghi nhận trong nội dung hợp đồng
18


hoặc trong phụ lục hợp đồng. Nhưng kể cả khi hợp đồng đã ký kết các bên vẫn có thể
thỏa thuận bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc sửa đổi, bổ sung vào hợp đồng các
trường hợp miễn trách nhiệm. Khi hợp đồng được giao kết bằng lời nói hoặc hành vi
cụ thể thì thỏa thuận miễn trách nhiệm cũng có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc
hành vi cụ thể.
Thứ hai là miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng:
Theo quy định của pháp luật thương mại, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách
nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Điều này có nghĩa là dù hợp
đồng có quy định hay không thì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng dẫn đến việc vi phạm
hợp đồng, bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện
xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được
mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Thứ ba là hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia: Căn cứ
miễn trách nhiệm trong trường hợp này phải do lỗi của bên bị vi phạm. Lỗi này có thể
là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Ngoài ra, cũng có thể là một
hành vi vi phạm hợp đồng của bên bị vi phạm, tức là cả hai bên đều có hành vi vi
phạm hợp đồng.
Thứ tư là hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản
lý nhà nước: Miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm do thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết
được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp

đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm.
Quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là
phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi
phạm hợp đồng.
Như vậy, các quy định về chế định miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa đã tạo được một môi trường pháp lý công bằng đối với những thiệt hại
thực tế không do lỗi trực tiếp của người vi phạm gây ra.
1.3. Các nguyên tắc pháp luật điều chỉnh chế tài bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng thương mại
Trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại năm 2005 được xác
định là luật riêng, tức là các giao dịch thương mại là một loại giao dịch dân sự đặc thù,
có mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, Luật Thương mại năm 2005 cũng không thể quy định
chi tiết tất cả các hoạt động thương mại. Chính vì vậy, trong mối quan hệ với các luật
quy định các hoạt động thương mại đặc thù như tài chính, bảo hiểm,…thì Luật Thương
19


mại năm 2005 được xác định là luật chung, quy định nguyên tắc chung, còn những vấn
đề cụ thể trong các lĩnh vực đó thì phải do các luật chuyên ngành điều chỉnh.
Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại phù hợp với nguyên tắc của
Bộ Luật Dân sự năm 2005 cũng như thực tiễn hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Pháp luật dân sự là tổng hợp của tất cả các quy phạm pháp luật liên quan đến địa
vị pháp lý của các chủ thể pháp luật dân sự, còn pháp Luật Thương mại chỉ điều chỉnh
các hoạt động thương mại được thực hiện chủ yếu bởi thương nhân nhằm mục đích
sinh lời. Bộ luật Dân sự quy định 10 nguyên tắc cho các quan hệ dân sự, trên nền các
nguyên tắc đó, Luật Thương mại năm 2005 cũng có một số nguyên tắc thể hiện tính
đặc trưng của hoạt động thương mại. Các nguyên tắc đó là:
Thứ nhất, Luật Thương mại năm 2005 là tuyên ngôn về sự bình đẳng trước pháp
luật của thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong hoạt động thương mại (Điều 10).
Trong kinh doanh nói chung cũng như trong hoạt động thương mại, quyền bình

đẳng thể hiện ở chỗ, các thương nhân được pháp luật bảo đảm những cơ hội như nhau
để tham gia cạnh tranh trong các hoạt động thương mại. Các cơ hội kinh doanh đó có
tận dụng được hay không, phụ thuộc vào vị trí của từng thương nhân trên thị trường.
Bình đẳng do vậy được hiểu là bình đẳng trước pháp luật. Còn công bằng tuyệt đối
trong kinh doanh là điều không tưởng, vì cạnh tranh trên thị trường là phát huy các thế
mạnh riêng nhằm tiếp cận, mở rộng, giành giữ thị phần, chèn ép để đẩy lùi đối thủ
cạnh tranh là cần thiết và không thể tránh khỏi.
Thứ hai, Luật Thương mại năm 2005 khẳng định quyền tự do, tự nguyện thoả
thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11).
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng vì muốn cho hàng hoá lưu thông từ sản
xuất ra thị trường và đi vào giai đoạn tiêu thụ, thương nhân phải được đảm bảo quyền
tự do thoả thuận. Hợp đồng – nơi thể hiện kết quả của thoả thuận giữa các thương
nhân – phải trở thành công cụ hữu hiệu để tổ chức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có
liên quan. Quyền tự do thoả thuận đã được khẳng định trong Bộ luật Dân sự nhưng
Luật Thương mại khẳng định lại quyền này cho các thương nhân trong hoạt động
thương mại.
Thứ ba, Luật Thương mại năm 2005 đề cao trách nhiệm của thương nhân đối với
người tiêu dùng (Điều 14).
Người tiêu dùng có các quyền sau đây:
- Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ; được cung cấp các thông tin trung thực về chất
lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng hóa, dịch vụ; được bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe và môi trường khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ; được hướng dẫn những
hiểu biết cần thiết về tiêu dùng (Điều 8 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng).
20


×