Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần hệ thống 1V

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.07 KB, 42 trang )

TÓM LƯỢC
Mua bán hàng hóa là một hoạt động đã được hình thành từ lâu đời, nó xuất phát
từ nhu cầu trao đổi để thỏa mãn những mong muốn cá nhân của con người. Và ngày
nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động mua bán hàng hóa càng trở nên
phổ biến và trở thành một trong những hoạt động thương mại chủ yếu của thương
nhân.
Trong phạm vi khóa luận, em sẽ tập trung đi sâu làm rõ một số vấn đề pháp lý về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, và thực tế áp dụng tại Công ty Cổ phần hệ thống
1-V - địa điểm em chọn để thực tập tốt nghiệp. Khóa luận của em gồm có ba phần
chính:
Chương 1: Khóa luận nghiên cứu một cách chi tiết những lý luận cơ bản về pháp
luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, đồng thời, làm rõ được các vấn
đề có liên quan. Bao gồm: một số khái niệm cơ bản liên quan đến giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa; cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa và nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Chương 2: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa. Qua đó, rút ra được những bất cập của pháp luật hiện
hành, những khó khăn mà Công ty Cổ phần hệ thống 1-V còn tồn tại trong giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 3: Qua việc nghiên cứu lý luận pháp luật về vấn đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần hệ thống 1-V , đưa ra một
số kiến nghị nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại, hoàn thiện pháp luật, xây dựng
khung pháp lý hoàn chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.


LỜI CẢM ƠN
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay cũng như trong tình hình hội nhập ngày
càng sâu và rộng của nước ta thì hiểu biết pháp luật vừa là công cụ vừa là phương tiện
giúp các các doanh nghiệp nói riêng, các cá nhân, pháp nhân nói chung có thể thực
hiện tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong cuộc sống cũng như trong kinh


doanh.
Tìm hiểu về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là một vấn đề hết sức có
ý nghĩa không chỉ đối với các nhà làm luật mà còn đối với các nhà kinh doanh, các
doanh nghiệp và những ai quan tâm đến sự thay đổi và phát triển của luật pháp. Việc
các sinh viên chuyên ngành Luật Thương Mại, Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học
Thương Mại đi thực tập tại các cơ sở kinh doanh cũng không ngoài mục đích nêu trên.
Được Trường Đại học Thương Mại, Khoa Kinh tế - Luật, Thạc sĩ Phùng Bích
Ngọc , Công ty Cổ phần Hệ thống 1-V tạo điều kiện, giúp đỡ nên em đã có cơ hội tìm
hiểu về hoạt động kinh doanh của một đơn vị kinh doanh trên thực tế, qua đó có cơ hội
làm quen với môi trường pháp lý mà công ty đang hoạt động để vận dụng những hiểu
biết đã được tích lũy trong quá trình đào tạo của Khoa và Nhà trường.
Do những hạn chế về thời gian và kinh nghiệm,khóa luận tốt nghiệp của em
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và
chỉnh sửa quý giá từ phía quý Công ty và các thầy cô trong Khoa Kinh tế - Luật,
Trường Đại học Thương Mại.
Em xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1, Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.....................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................2
3. Xác lập tuyên bố vấn đề nghiên cứu.......................................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..........................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................4
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp..................................................................................5
CHƯƠNG 1 : NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN

HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM .........................................................................................6
1.1 Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa..........................................................6
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa...........................................................6
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa..........................................................6
1.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hơp đồng mua bán hàng
hóa.

8

1.3 Nguyên tắc điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa..........................16
1.3.1 Nguyên tắc tự do kinh doanh..............................................................................16
1.3.2 Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật................................................................17
1.3.3 Nguyên tắc tôn trọng quyền sở hữu...................................................................17
1.3.4 Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức
xã hội........................................................................................................................... 18
1.3.5 Nguyên tắc tự nguyện.........................................................................................18
1.3.6 .Nguyên tắc cùng có lợi......................................................................................19
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HỆ THỐNG 1-V........20
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến vần đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa......................................................................................................20


2.1.1 Tổng quan tình hình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.................................20
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa...............20
2.1.1.1 Nhân tố kinh tế.................................................................................................20
2.2 Phân tích thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.............................................................................................................22
2.2.1 Về chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa................................................22
2.2.2 Về đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa................................................22

2.2.3 Về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa...............................25
2.2.4 Về hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa............................................25
2.2.5 Về nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.............................................25
2.3 Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần hệ thống 1-V.....................................26
2.3.1 Khái quát về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần hệ
thống 1-V ................................................................................................................... 26
2.3.2 Những kết quả đạt được trong quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.. 27
2.3.3 Những hạn chế rủi ro công ty gặp phải trong quá trình giao kết.........................29
2.3.4 Phân tích, đánh giá và so sánh kết quả đạt được với mục tiêu đề ra đầu năm 2015..30
2.3.5 Các kết luận........................................................................................................30
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH..............................................33
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa..............................................................................................................33
3.2 Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa..............................................................................................................33
3.3 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu....................................................34
KẾT LUẬN.................................................................................................................36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT

LTM

Luật Thương Mại

BLDS


Bộ Luật dân sự

HĐMBHH

Hợp đồng mua bán hàng hóa

NĐ-CP

Nghị định chính phủ


LỜI MỞ ĐẦU
1, Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận
Ngày nay, hoạt động mua bán hàng hoá trong nước đã trở thành lĩnh vực kinh
doanh chủ đạo và đem lại nguồn doanh thu lớn cho các công ty. Tuy nhiên, để hoạt
động mua bán hàng hoá của công ty đi vào chiều sâu thì đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm
hiểu, tiếp cận và nhận thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo đúng luật, nhằm
hạn chế những tổn hại kinh tế không đáng có. Hợp đồng mua bán hàng hoá rất phong
phú, được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật và khá phổ biến trong hoạt động kinh
doanh của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Trong hệ thống pháp luật nước ta đã có
những quy định cụ thể về sự điều chỉnh quan hệ hợp đồng ngay từ Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế 1989, tiếp đến là Bộ luật Dân sự 1995, Luật Thương mại 1997… và cho đến
nay là các văn bản pháp luật mới được ban hành: Luật Thương mại 2005, Bộ Luật dân
sự nay hay là Bộ luật dân sự 2015 sẽ có hiệu lực vào ngày 1/7/2015.
Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các thương nhân, giữa các doanh
nghiệp với nhau ngày càng tăng về số lượng. Vấn đề đặt ra trong việc nâng cao hiệu
quả của việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, là liệu các doanh nghiệp có được sự
chủ động trong vấn đề giao kết, làm thế nào để hợp đồng được xác lập nhanh chóng,
đảm bảo hợp đồng được thực hiện một cách nghiêm túc đưa đến lợi nhuận tối ưu,
tránh các thiệt hại không đáng có. Do đó, giai đoạn giao kết hợp đồng là rất quan

trọng, điều này phụ thuộc trước hết vào hệ thống pháp luật hiện hành, đồng thời phụ
thuộc nhiều vào khả năng nhận biết cũng như trình độ áp dụng pháp luật của từng
doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy, sự hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp còn
bộc lộ nhiều hạn chế. Hiện nay pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa đang được
hoàn thiện theo hướng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và pháp luật hợp đồng của
thế giới.
Công ty cổ phần Hệ thống 1-V là công ty đầu tiên ở Việt Nam đi tiên phong
trong lĩnh vực triển khai hệ thống giải pháp phần mềm thế hệ mới của hãng 1C (Liên
bang Nga), chuyên sâu trong lĩnh vực tạo dựng, hỗ trợ và phân phối các giải pháp ứng
dụng tự động hóa quản trị doanh nghiệp… Công ty cổ phần hệ thống 1-V hàng năm ký
kết rất nhiều hợp đồng, chủ yếu là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa, nên việc tìm hiểu
pháp luật hợp đồng là điều cần thiết đối với công ty. Hơn nữa việc nghiên cứu áp dụng
pháp luật hợp đồng trên khía cạnh giao kết, hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ
phần hệ thống 1-V là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa với riêng công ty mà còn đối
với nhiều doanh nghiệp khác. Đây chính là lí do để em chọn đề tài “ Pháp luật về giao
1


kết hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần hệ thống 1V “ để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Những vấn đề pháp lý về hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng
mua bán hàng hóa nói riêng đã được đề cập trong Giáo trình Luật Thương mại của một
số trường như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
(2013) … hay Giáo trình pháp luật kinh tế (2005), của khoa Luật kinh tế, Đại học kinh
tế quốc dân. Nhưng các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các kiến thức
cơ bản. Ngoài ra, vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa cũng được nghiên cứu theo khía
cạnh hợp đồng trong thương mại với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó có thể
kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Chế độ hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không tồn tại” của GS.TS Lê Hồng

Hạnh đăng tại Tạp chí luật học số 3/2003
- “Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư- Những vấn đề pháp lý cơ
bản” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội do Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung chủ biên năm 2009
đã nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về các loại hợp đồng trong thương mại,
trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa.
- “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Lê Minh
Hùng, luận án Tiến sĩ Đại học Luật – Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010
đã nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam.
- “Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thị
Hường, luận văn Thạc sỹ năm 2010, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã nghiên
cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền tự do giao kết hợp đồng. Bên cạnh đó, luận
văn còn phân tích những khía cạnh cơ bản của nguyên tắc quyền tự do giao kết hợp
đồng và các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này và đề xuất những kiến nghị cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về tự do giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
- “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
- Kinh nghiệm so sánh với luật Trung Quốc và những định hướng hoàn thiện cho pháp
luật Việt Nam” của Trương Thị Bích, luận văn Thạc sỹ năm 2012, Chuyên ngành Luật
Quốc Tế, Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội luận giải những vấn đề lý luận và
pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài và
phân tích một cách có hệ thống về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam
về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài. So sánh pháp
luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài và đề xuất các khuyến nghị những định hướng hoàn thiện cho
2


pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài.
- “Một số bất cập của chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005” của Trần

Thị Huệ (2013), tạp chí dân chủ và pháp luật số định kỳ tháng 6 (255) đã nghiên cứu,
chỉ rõ một số bất cấp về vấn đề hợp đồng trong Bộ luật dân sự và đưa ra một số đề
xuất hoàn thiện chúng.
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quý báu giúp em có thêm
nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu bài khóa luận tốt nghiệp. Bởi
vậy, việc lựa chọn đề tài “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và thực
tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần hệ thống 1-V ” sẽ đi sâu phân tích cụ thể vấn đề
giao kết hợp đồng theo Luật hiện hành và áp dụng cụ thể vào Công ty Cổ phần Hệ
thống 1-V. Từ đó, chỉ ra các bất cập và đưa ra giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng.
3. Xác lập tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các tài liệu tham khảo và
thực tiễn áp dụng pháp luật tại đơn vị thực tập, khóa luận này sẽ đưa ra các cơ sở pháp
lý làm tiền đề để đi sâu vào phân tích lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, thực thi pháp
luật tại đơn vị, từ đó có những kiến nghị cần thiết nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa cũng như việc đảm bảo
thực thi pháp luật tại đơn vị nói riêng và các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt
động thương mại nói chung. Khóa luận đi sâu nghiên cứu các vấn đề sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.
- Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa tại Công ty Cổ phần Hệ thống 1-V theo quy định của pháp luật hiện
hành.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005
và thực tiễn áp dụng những quy định này tại Công ty Cổ phần Hệ thống 1-V để từ đó,

đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán

3


hàng hóa vào thực tiễn. Việc xác định đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng
trong việc triển khai nghiên cứu, đảm bảo cho khóa luận tốt nghiệp đi đúng hướng.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận sự cần thiết phải có một hệ thống pháp luật thống
nhất và chặt chẽ để quản lí hoạt đông mua bán và trao đổi hàng hóa trong bối cảnh
nước ta đã ra nhập WTO, sự hội nhập kinh tế đứng trước rất nhiều cơ hội và thách
thức.
- Phản ánh thực trạng tình hình pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
hiện nay ở nước ta. Tìm ra những ưu điểm đồng thời nhìn nhận lại những điểm còn
hạn chế trong hệ thống pháp luật hiện hành.
- Nêu lên thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động giao kết mua bán hàng
hóa của Công ty Tin Cổ phần hệ thống 1-V.
- Những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp trong quá trình áp dụng pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Từ đó đề xuất những giải pháp để giải quyết các
vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về thời gian, phạm vi nghiên cứu nên khóa luận chỉ tập trung làm
sáng tỏ một số vấn đề chính. Cụ thể phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn như
sau:
- Về nguồn tư liệu: Khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa kể từ khi Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 ban
hành cho đến nay.
- Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ vấn đề giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa tại Việt Nam, nghiên cứu điển hình tại Công ty Cổ phần Hệ thống 1-V.

5. Phương pháp nghiên cứu
Dưới đây là các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài:
- Phương pháp liệt kê: Phương pháp sẽ được áp dụng trong chương I của bài
khóa luận, phương pháp sẽ hệ thống, liệt kê tất cả các văn bản pháp luật có liên quan
để tiện theo dõi và phân tích, làm căn cứ cho phần lý luận.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp được áp dụng trong chương II
của bài khóa luận là phần thực tiễn liên hệ tại Công ty. Trên cơ sở giải thích các khái
niệm, quy phạm pháp luật liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa, người nghiên
cứu sẽ đi phân tích vai trò của các yếu tố này tới hoạt động của công ty. Ngoài ra, trên
cơ sở đánh giá những kết quả đã đạt được và hạn chế của hành lang pháp lý hợp đồng,

4


người nghiên cứu sẽ có một cái nhìn tổng quan, qua đó có phương hướng để giải quyết
những hạn chế phát sinh.
- Phương pháp suy luận từ thực trạng để đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung của bài khóa luận bao gồm 3 chương
Chương 1: Những lí luận cơ bản về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt
Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa tại Công ty cổ phần hệ thống 1-V.
Chương 3 : Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.

5



CHƯƠNG 1 : NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM .
1.1 Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo khoản 8 điều 3 LTM 2005: “Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại,
theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua
và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán và nhận hàng và
quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Ta có thể hiểu mua bán hàng hóa là sự đầu
tư tiền của, công sức của một cá nhân hay một tổ chức vào việc trao đổi hàng hóa để
kiếm lời. Đó là hoạt động cốt lõi để doanh nghiệp có thể duy trì và phát triển. Về cơ
bản hoạt động mua bán hàng hóa được diễn ra dưới hai hình thức chủ yếu đó là mua
bán hàng hóa trong nước và mua bán hàng hóa quốc tế.
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp
lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất pháp lý
chung là hợp dồng. Hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về
một hay một số vấn đề nhất định trong xã hội nhằm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt
các quyền hay nghĩa vụ của các bên. Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “ Hợp
đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Luật Thương mại 2005 quy định mua bán hàng hóa trong thương
mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ
thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Dù
Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa, song
có thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại
dựa trên cơ sở hợp đồng dân sự về hợp đồng mua bán tài sản. Nên có thể khẳng định
hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là hợp đồng giao kết giữa các thương
nhân với nhau hoặc thương nhân với bên khác không phải là thương nhân trong việc

mua bán tất cả các động sản, kể cả động sản được hình thành trong tương lai.Hợp đồng
mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Chủ thể
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương
nhân. Theo quy định tại Khoản 1- Điều 6 LTM 2005: “ Thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách đôc lập và
6


thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” . Thương nhân có thể là thương nhân Việt
Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Ngoài ra, các tổ chức – cá nhân không phải là
thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa và khi chủ
thể lựa chọn Luật Thương mại để áp dụng thì các hoạt động của các bên chủ thể trong
quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo Luật Thương mại. Hợp đồng thương mại có
thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.Các
thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa
phương, dưới các hình thức và theo phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra
hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác có hoạt động
liên quan đến thương mại. Một bên chủ thể giao kết hợp đồng có thể không phải là
thương nhân. Nếu căn cứ vào mục đích sinh lời thì nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân
không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng với thương nhân.
Chủ thể không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi
để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định hoặc
không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia đình, tổ hợp tác và không hoạt động
thương mại như một nghề.
- Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Nếu hiểu theo nghĩa

thông thường hàng hóa là những sản phẩm lao động do con người tạo ra nhằm mục
đích thỏa mãu nhu cầu của con người. Nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam
tại Khoản 2- Điều 3 LTM 2005:
“ Hàng hóa bao gồm:
- Tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai
- Những vật gắn liền với đất đai.”
Như vậy, có thể thấy đối tượng hàng hóa mà pháp luật Việt Nam quy định bao
gồm: các động sản được lưu thông trên thị trường hoặc bất động sản có thể kể đến
như: nhà cửa, đất đai, ruộng vườn… Các động sản hoặc bất động sản có thể đã hình
thành hoăc sẽ hình thành trong tương lai đều được coi là hàng hóa. Khái niệm này tuy
đã khắc phục được một số những bất cập trong quy định về hàng hóa của LTM 1997
khi quy định hàng hóa bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dưới hình
thức cho thuê hoăc mua bán nhưng vẫn là khá hẹp so với định nghĩa chung về hàng
hóa, đôi khi làm hạn chế các đối tượng hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường.
- Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa

7


Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ các bên
trong quan hệ mua bán hàng hóa, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng
hóa và trả tiền cho bên bán. Hành vi mua bán của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa là hành vi có tính chất thương mại và nhằm mục đích sinh lời.
Hợp đồng mua bán hàng hóa mang đặc điểm của hợp đồng mua bán tài sản đó là
sự chuyển giao quyền sử dụng, quyền sở hữu và quyền định đoạt. Khác với hợp đồng
cho thuê tài sản chỉ chuyển giao quyền sử dụng chứ không chuyển giao quyền sở hữu
và quyền định đoạt. Quyền sở hữu và quyền định đoạt vẫn thuộc về người có tài sản
đem đi cho thuê.

Đồng thời hợp đồng mua bán hàng hóa cũng khác với hợp đồng tặng cho tài sản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ, mang tính đền bù. Giá của hàng
hóa luôn được xác định cụ thể . Việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa luôn kèm theo
yêu cầu đền bù tương ứng với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận, qua đó thể hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán, bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; bên mua có nghĩa vụ nhận
hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Mục đích thông thường của các bên là lợi nhuận.
Trong khi đó ở hợp đồng tặng cho tài sản, bên tặng cho tài sản giao tài sản và giao
quyền sở hữu tài sản cho bên được tặng cho mà không cần thiết lập bất cứ một yêu cầu
đền bù nào.
- Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng mua bán hướng các bên tập
trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để
thực hiện và phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp
đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường phải chứa đựng sự thỏa thuận về
đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm nhận giao
hàng.
- Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi những
điều khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của
pháp luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa
thuận trong hợp đồng. Và các quy định được các bên quy định trong hợp đồng không
được trái với pháp luật hiện hành đang điều chỉnh.
1.2Nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hơp đồng
mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng trong thương mại nên đối với
các hoạt động mua bán hàng hóa trong nước, trước hết nó chịu sự điều chỉnh trực tiếp
của luật chuyên ngành là LTM 2005. Nhưng để xác định bản chất pháp lý về hợp đồng
8


mua bán hàng hóa trong thương mại thì đều cần dựa trên cơ sở quy định của BLDS

2005 về định nghĩa giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa , nên giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh của BLDS 2005.
Như vậy, với hợp đồng mua bán hàng hóa, LTM 2005 đóng vai trò là luật riêng
áp dụng, BLDS 2005 là luật chung áp dụng. Trình tự áp dụng luật được tuân theo quy
định chung, áp dụng luật riêng trước, nếu luật riêng không có những quy định có liên
quan thì sẽ áp dụng đến Luật chung tức là áp dụng LTM trước, khi LTM không quy
định những vấn đề có liên quan thì mới áp dung BLDS. Và vấn đề định nghĩa giao kết
hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ được phân tích theo quan điểm của Bộ
luật dân sự.
Bên cạnh LTM và BLDS là hai văn bản pháp luật chính điều chỉnh hoạt động
mua bán hàng hóa trong nước thì hợp đồng mua bán hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh
của nhiều Nghị định, Thông tư như là:
- Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sungdanh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP
- Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 05/06/2009 của Chính phủ Quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm,
hàng hoá.
- Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại mua
bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán gia công và quá cảnh hàng hóa
với nước ngoài.
Đối với các hoạt động mua bán bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh
luật quốc gia, các chủ thể còn phải chịu sự điều chỉnh của các điều ước quốc tế mà
điển hình là Công ước Viên 1980, các tập quán quốc tế khác về thương mại và hàng
hải.
Theo Khoản 1 – Điều 6 Luật ký kết gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm
2005 về Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước
“ 1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn
đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.”
Như vậy, nếu như trong trường hợp pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế cùng

quy định một vấn đề thì điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng trước.
1.2.1.1 Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình mà trong đó các bên
bảy tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thoả thuận trong việc cùng
nhau làm xác lập những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Thực chất, đó là quá trình mà
9


hai bên “mặc cả” với nhau về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng mua bán
hàng hóa. Quá trình này diễn ra thông qua hai giai đoạn:
Thứ nhất: Bên đề nghị đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai: Bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa và đi đến giao kết hợp đồng.
1.2.1.2 Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác
định cụ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Thực chất, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc một bên biểu lộ ý
chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia
giao kết với người đó một hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo điều 390, BLDS về Đề nghị giao kết hợp đồng thì
“1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
2. Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên
đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả
lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp
đồng nếu có thiệt hại phát sinh.”
Ta thấy rằng theo điều 390, BLDS 2005 thì :
Thứ nhất, đề nghị đó phải được xác định cụ thể. Thông thường một đề nghị được
coi là xác định nếu có chứa các nội dung của hợp đồng tương lai. Bất kỳ sự không xác

định nào liên quan đến nội dung của hợp đồng tương lai, quyền và nghĩa vụ cũng như
đối tượng của hợp đồng đều có thể dẫn đến các cách hiểu khác nhau về nội dung của
đề nghị gia kết hợp đồng và điều này có thể làm cho đề nghị giao kết hợp đồng mất đi
chức năng, mục đích của một đề nghị.
Thứ hai, Về nguyên tắc, khi đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng, bên đề nghị sẽ
bị ràng buộc bởi lời đề nghị của mình trong một thời hạn nhất định.Tuy nhiên, đây mới
chỉ là trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng với người thứ ba cùng với một nội
dung, một điều kiện với nội dung đề nghị với người được đề nghị mà không giao kết
hợp đồng. Điều luật không khẳng định rõ mức độ ràng buộc của bên đề nghị với lời
đề nghị. Tuy nhiên cũng thể hiểu rằng khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng, theo đúng nội dung, điều kiện và thời gian mà bên đề nghị đưa ra
thì bên đề nghị không bắt buộc phải thực hiện việc giao kết hợp đồng vì hợp đồng
chưa được ký kết giữa các bên nên chưa có cơ sở pháp lý để bắt buộc các bên thực
hiện nghĩa vụ, và bên đề nghị vẫn có quyền lựa chọn đối tác của mình. Mặc dù đã đưa
10


ra lời đề nghị giao kết hợp đồng dân sự nhưng bên đề nghị vẫn có quyền lựa chọn ký
kết hoặc không ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, bên đề nghị cũng không thể tùy tiện thay
đổi, rút lại hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng, mà tuân theo quy định tại điều 392,
393 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thứ ba Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu lộ ý chí của mình bằng
lời đề nghị giao kết hợp đồng với một chủ thể nào đó. Đề nghị đó phải là chủ định đích
thực, mong muốn xác lập quan hệ hợp đồng với mục đích làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ dân sự.Sự đề nghị có thể riêng cho một hoặc nhiều chủ thể, như một người
muốn bán một tài sản nào đó đề nghị cụ thể với người muốn mua với những điều kiện
cụ thể của vật đem bán, giá cả, v.v...
Đề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng để người được đề nghị biết dược ý muốn
của người đề nghị. Trong đề nghị phải nêu ra những nội dung cơ bản của hợp đồng để
người được đề nghị có thể đồng ý ngay hoặc tiếp tục đưa ra những yêu cầu của họ để

hai bên cùng thảo luận.Đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện một các trực
tiếp giữa hai người, đề nghị này được gọi là đề nghị trực tiếp. Hai người trao đổi với
nhau qua điện thoại cũng được coi là đề nghị trực tiếp. Đề nghị giao kết hợp đồng còn
có thể thực hiện bằng hình thức gián tiếp như thông qua thư, điện tín, v.v...
Trên thực tế, việc xác định đâu là đề nghị giao kết hợp đồng, đâu là đề nghị
chuẩn bị bàn bạc để thỏa thuận giao kết hợp đồng là một công việc vô cùng khó khăn,
phức tạp, cần phải xem xét thận trọng căn cứ vào các hình thức khách quan, chủ
quan trong từng vụ cụ thể.
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực:
Căn cứ theo Điều 391 BLDS 2005, thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu
lực được xác định là thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu
lực do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp
đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Điều 391,BLDS
2005 quy định về Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực
“ 1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:
a, Do bên đề nghị ấn định;
b, Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ
khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó.
2. Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
a. Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
b, Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;

11


c. Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các
phương thức khác. “
Ta thấy theo như điều 391, BLDS 2005 nêu trên thì
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực trước tiên do bên đề nghị ấn

định. Nếu bên đề nghị không ấn định thì thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu
lực được xác định từ thời điểm bên đề nghị nhận được đề nghị đó.
Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú của cá nhân, hoặc trụ sở của pháp nhân.
Đây là hình thức được thực hiện bằng văn bản được chuyển theo cách thông thường
mà bên đề nghị tự mình hoặc cử người mang đến hoặc chuyển qua bưu điện đến nơi cư
trú của cá nhân, hoặc trụ sở của pháp nhân. Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp
đồng được thực hiện trực tiếp, bên đề nghị trực tiếp trao đổi ( gặp mặt hoặc qua điện
thoại) thì thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định từ thời điểm
có cuộc điện thoại đó, hoặc buổi làm đó. Tất nhiên, trong thực tế, có trường hợp xác
định được chính xác giờ, phút trao đổi, nhưng cũng có trường hợp không thể xác định
được chính xác, trong trường hợp này thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực
được tính bằng ngày có cuộc trao đổi để bên đề nghị đưa ra trả lời đề nghị
Điểm a khoản 2 Điều 391 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: được coi là đã
chấp nhận được đề nghị giao kết hợp đồng khi đè nghị được chuyển đến trụ sở của
pháp nhân. Tuy nhiên, trên thực tế có những tổ chức có trụ sở riêng tại một địa điểm
cố định không phải là pháp nhân nhưng vẫn có tư cách chủ thể tham gia ký kết hợp
đồng dân sự.
- Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 392 BLDS 2005 quy định về Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết
hợp đồng thì “. Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết
hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
a) Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề
nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị
có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
2. Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề
nghị mới.”
Thứ nhất để đi đến bước ký kết hợp đồng, không chỉ đơn giản là một bên đưa ra
lời đề nghị và bên kia trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhân; cũng không phải chỉ có
bên được đề nghị mới có quyền trả lời lại, trong đó đưa ra điều kiện mới ( đề nghị

mới); mà ngay cả bên đề nghị cũng có thể thay đổi mới, rút lại lời đề nghị của mình.

12


Thứ hai Điều 392 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định bên đề nghị có thể thay đổi
hay rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong hai trường hợp;
Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước do đó việc thay đổi, rút lại đề nghị không ảnh hưởng đến lợi ích của bên được đề
nghị. Quy định bên đề nghị có thể thay đổi hay rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong
trường hợp nhận được đề nghị giao kết và đề nghị thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao
kết cùng một lúc là quy định mới được bổ sung vào Bộ Luật dân sự năm 2005 so với
quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995. Trên thực tế phát sinh nhiều trường hợp, bên đề
nghị gửi thư đường dài đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng sau đó lại thay đổi hoặc rút
lại đề nghị bằng thư điện tử nên bên được đề nghị nhận được hai thông tin này cùng
một lúc
Bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị, thì điều kiện
đó phát sinh bên đề nghị có quyền thay đổi hoặc rút lại đề nghị. Pháp luật không có
quy định bắt buộc về đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng hình thức nào, thì
sự thay đổi, hoặc rút lại lời đề nghị phải thực hiện bằng hình thức ấy. Khi bên đề nghị
thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới.
- Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 393 BLDS 2005 quy định về Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa thì : “Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực
hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo
cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận
được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng “
Về điều kiện, đối với rút lại đề nghị giao kết hợp đồng, bên đề nghị có quyền
thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong hai trường hợp: 1. Bên được đề

nghị chưa nhận được đề nghị hoặc nhận được đề nghị trùng với thời điểm nhận được
thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị; 2. Bên đề nghị nêu rõ điều kiện thay
đổi hoặc rút lại đề nghị và điều kiện này phát sinh. Đối với hủy bỏ đề nghị giao kết
hợp đồng, bên đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Về thời điểm nhận được thông báo, bên được đề nghị có thể nhận được thông
báo rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trước hoặc cùng thời điểm nhận được đề nghị
gioa kết. Còn trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng, bên được đề nghị phải chấp nhận
được thông báo hủy bỏ đề nghị trước thời điểm nhận được đề nghị giao kết.
Về hậu quả pháp lý, sau khi rút lại đề nghị, bên đề nghị có thể không giao kết
hợp đồng với bên được đề nghị nữa hoặc bên đề nghị thay thế đề nghị ban đầu bằng
13


một đề nghị mới. Còn sau khi hủy bỏ đề nghị, bên đề nghị không tiếp tục đề nghị giao
kết với bên được đề nghị này nữa.
- Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 394 Bộ luật dân sự 2005 quy định về Chấm dứt đề nghị giao
kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
“ 1. Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
2. Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
3. Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
4. Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực;
5. Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời.”
Đề nghị giao kết hợp đồng ràng buộc người đề nghị trong thời hạn đã nêu trong
đề nghị. Vì vậy, pháp luật cũng quy định khi nào thì coi đề nghị được chấm dứt và
người đềnghị giao kết hợp đồng được giải phóng khỏi trách nhiệm ràng buộc trong
quan hệ với người được đề nghị, Quy định này không những tạo điều kiện cho bên đề
nghị giao kết hợp đồng có thể đề nghị với chủ thể khác mà còn bảo về quyền lợi cho

cả bên được đề nghị giao kết hợp đồng
Theo Điều 394 Bộ luật dân sự năm 2005 thì đề nghị được coi là chấm dứt trong
các trường hợp sau:
Khi bên được đề nghị trả lời không chấp nhận, đề nghị giao kết hợp đồng dân sự
đương nhiên chấm dứt:
Hết thời hạn trả lời chấp nhận. Đây là trường hợp bao hàm cả bên được đề nghị
chậm trả lời hoặc bên được đề nghị im lặng không trả lời. Nếu việc trả lời được thực
hiện trực tiếp thì việc xác định thời gian trả lời dễ dàng. Còn nếu trả lời được chuyển
qua bưu điện bằng thư tín, hoặc chuyển qua internet trong trường hợp mạng internet bị
lỗi.v.v. mà sự trả lời đó còn đến sau thời hạn trả lời, thì phải lấy mốc thời gian mà
người gửi thư tín đi theo dấu bưu điện hoặc thời điểm gửi thư đi được xác định theo
phương tiện điện tử để xác định sự trả lời đó có đúng thời hạn hay không đúng thời
hạn. Nếu ngày gửi trong thời hạn trả lời thì không được coi là chậm trả lời.
Ngoài hai trường hợp quy định tại khoản 1 và 2 nêu trên của Điều 394, Bộ luật
dân sự năm 2005 còn quy định rõ một số căn cứ khác làm chấm dứt đề nghị giao kết
hợp đồng. Đó là trường hợp theo ý chí của bên đề nghị giao kết hợp đồng hoặc theo ý
chí của cả hai bên được đề nghị và bên đề nghị.
1.2.1.3 Chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thực chất là việc bên được đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nhận lời đề nghị và đồng ý tiến hành giao
14


kết hợp đồng mua bán hàng hóa với bên đã đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa đó.
- Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 397 BLDS 2005, khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì
việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó, nếu bên đề
nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này
được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.

Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do
khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo
chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay
không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận
hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời.
- Rút lại thông báo trả lời chấp nhận:
Căn cứ theo Điều 400 BLDS 2005, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể
rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng
với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
1.2.1.4 Hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Tự do thỏa thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao kết hợp
đồng. Điều này có nghĩa, các bên được tự do lựa chọn hình thức phù hợp khi giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, tự do lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật cho
phép.
Về nguyên tắc, hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải phù hợp với
hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa. LTM 2005 không quy định hình thức giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa, song có thể dựa vào quy định của LTM 2005 về hình
thức hợp đồng mua bán hàng hóa để xác định hình thức giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 24 LTM 2005 quy định, hình thức của hợp đồng mua
bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi
cụ thể. Do đó, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được xác lập dưới ba hình
thức: lời nói, văn bản hoặc hành vi.
- Đối với giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập bằng hình thức lời
nói (hay còn gọi là hình thức miệng), các bên tham gia giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng. Giao
kết hợp đồng dưới hình thức này rất thuận tiện, nhanh chóng và thường áp dụng cho
15



những trường hợp mà các bên tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa đã quen
biết và có sự tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa ngay
sau khi giao kết sẽ thực hiện và chấm dứt ngay.
- Đối với giao kết hợp đồng được xác lập bằng hình thức văn bản, các bên khi
tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa bằng một văn bản chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản của hợp
đồng và có chữ ký xác nhận của các bên. Hình thức này tạo ra chứng cứ pháp lý chắc
chắn hơn so với hình thức miệng. Thông thường theo hình thức này, hợp đồng được
lập thành nhiều bản mỗi bên giữ một bản làm bằng chứng chứng minh quyền của mỗi
bên. Căn cứ vào văn bản hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên dễ dàng xác định được
quyền và nghĩ vụ. Đặc biệt, các bên còn dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối
với bên kia. Hình thức này thường được áp dụng trong các quan hệ mua bán hàng hóa
mà việc thực hiện hợp đồng không cùng lúc với việc giao kết, các giao dịch mua bán
hàng hóa quan trọng, có giá trị lớn hay các hợp đồng mua bán hàng hóa có độ nhạy
cảm cao.
Ngoài hai hình thức nói trên, hợp đồng mua bán hàng hóa còn có thể được giao
kết bằng một hình thức khác đó là hình thức hành vi. Theo đó, hợp đồng mua bán hàng
hóa sẽ được giao kết miễn các hành vi đó chứa đựng những thông tin mà các bên trong
quan hệ mua bán hàng hóa đó hiểu và thực hiện trên thực tế. Giống với hình thức
miệng, hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết bằng hình thức hành vi có giá trị
pháp lý không cao, dễ xảy ra tranh chấp.
1.3 Nguyên tắc điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.3.1 Nguyên tắc tự do kinh doanh.
Quyền tự do kinh doanh tồn tại như một nhu cầu tất yếu của sự phát triển kinh tế,
xã hội. Quyền tự do kinh doanh là một phần hợp thành đóng vai trò quan trọng trong
hệ thống các quyền tự do của con người. Giá trị của quyền tự do kinh doanh được thể
hiện ở chỗ, mọi chủ thể trong nền kinh tế đều được tự do hoạt động kinh doanh của
mình theo khuôn khổ của pháp luật.

Dưới góc độ chủ thể, quyền tự do kinh doanh là khả năng hành động có ý thức
của các chủ thể trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong quá trình tồn tại
và phát triển. Quyền tự do kinh doanh bao gồm các khả năng mà cá nhân, pháp nhân
có thể xử sự như: Tự do đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn mô hình
tổ chức kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác để thiết lập quan hệ kinh doanh, tự do cạnh
tranh, tự do lựa chọn giải quyết phương thức tranh chấp trong kinh doanh,...

16


Dưới góc độ là một chế định pháp luật, quyền tự do kinh doanh là một chế định
pháp luật bao gồm hệ thống các quy định pháp luật và những bảo đảm pháp lý do Nhà
nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền tự do kinh doanh.
Như vậy, quyền tự do kinh doanh một mặt bao gồm những quyền mà các chủ thể
kinh doanh được hưởng, mặt khác là trách nhiệm của Nhà nước khi thực hiện chức
năng quản lý của mình. Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong các
hoạt động kinh doanh. Do đó được hưởng các quyền cũng như chịu trách nhiệm quản
lý của Nhà nước theo nguyên tắc tự do kinh doanh.
1.3.2 Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật hay còn gọi là nguyên tắc bính đẳng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Các bên tham gia quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hóa nói riêng hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và nghía vụ. Quyền và
nghĩa vụ của mỗi chủ thể bao giờ cũng tương xứng với nhau, quyền của bên này là
nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Điều này thể hiện ở chỗ khi đàm phán để ký kết
hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên đều có quyền đưa ra những yêu cầu của mình và
đều có quyền chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bên kia. Không bên nào có
quyền ép buộc bên nào. Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ hình thành khi các
bên thống nhất ý chí với nhau về các điều khoản hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.3.3 Nguyên tắc tôn trọng quyền sở hữu

Quyền sở hữu bao gồm ba quyền đó là: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt (căn cứ theo quy định tại Điều 164 BLDS 2005 về quyền sở hữu). Các
quyền này mang tính chất tuyệt đối và không bị hạn chế về thời gian. Trong đó:
Quyền chiếm hữu: Chủ sở hữu được quyền thực hiện các hành vi theo ý chí của
mình để nắm giữ quản lý tài sản nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Việc chiếm hữu không bị hạn chế, gián đoạn về thời gian trừ khi chủ sở hữu chuyển
giao cho người khác hay bị pháp luật có quy định khác.
Quyền sử dụng: Là quyền chủ sở hữu khai thác công dụng hưởng hoa lợi, lợi tức
tài sản theo ý chí của mình nhưng không gây thiệt hại, ảnh hưởng đến lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Quyền đinh đoạt: Là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu và chỉ có chủ sở hữu
mới được hưởng quyền này. Chủ sở hữu được thực hiện quyền định đoạt thông qua
việc chuyển giao quyền sở hữu cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Chủ sở
hữu có thể tự mình tặng cho, cho vay hay thực hiện các hoạt động mua bán đối với tài
sản mà mình sở hữu.

17


Quyền sở hữu thể hiện ở chỗ chủ sở hữu có thể tự mình thực hiện các quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt.
Như vậy, theo nguyên tắc này các chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ có
thể thực hiện giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa khi bên bán có quyền định đoạt đối
với hàng hóa đem ra trao đổi, mua bán. Hay nói cách khác, bên bán có quyền sở hữu
đối với hàng hóa đó. Bên cạnh đó, để tránh rủi ro trong quá trình giao kết cũng như
thực hiện hợp đồng, bên chủ thể còn lại (bên mua) cũng cần xác minh chính xác được
rằng bên bán có quyền sở hữu hợp pháp, có quyền định đoạt và đem ra trao đổi, mua
bán đối với hàng hóa đó.
1.3.4 Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội

Trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa các bên tham gia ký kết hợp đồng
mua bán hàng hóa có quyền tự do thoả thuận các điều khoản của hợp đồng. Pháp luật
hợp đồng mua bán hàng hóa tôn trọng ý chí của các bên. Tuy nhiên ý chí của các bên
chỉ được tôn trọng nếu ý chí đó phù hợp với pháp luật. Điều đó có nghĩa là các bên có
quyền thoả thuận nhưng mọi thoả thuận trong hợp đồng không được vi phạm điều cấm
của pháp luật, phải phù hợp với các quy định của pháp luật.
Quyền tự do giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Tự do lựa chọn bạn hàng.
Thứ hai: Tự do thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ ba: Tự do lựa chọn thời điểm giao kết hợp đồng mua ban hàng hóa.
Thứ tư: Tự do lựa chọn địa điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Tuy nhiên quyền tự do giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa bị giới hạn bởi các
điều kiện:
Thứ nhất: Việc ký kết hợp đồng phải phục vụ cho hoạt động kinh doanh đã đăng ký.
Thứ hai: Các bên không được lợi dụng quyền tự do giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa để hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại đạo đức xã hội vốn có.
1.3.5 Nguyên tắc tự nguyện
Nguyên tắc này được quy định nhằm đảm bảo trong việc giao kết hợp đồng
không bị ai cưỡng ép, thể hiện bản chất của quan hệ mua bán hàng hóa dựa trên sự
bình đẳng. Các cá nhân, tổ chức, các chủ thể trong nền kinh tế có quyền tự do cam kết,
thỏa thuận nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán hàng hóa, được
pháp luật bảo đảm nếu cam kết, thỏa thuận đó không trái với quy định của pháp luật và
không trái với đạo đức xã hội. Các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp
đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa hay ngăn cản bên nào.

18


Theo nguyên tắc này, một hợp đồng mua bán hàng hóa được hình thành phải
hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa các chủ thể (tự do ý chí) và không

do sự áp đặt ý chí của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Mọi sự tác động làm mất tính tự
nguyện của các bên trong quá trình giao kết đều làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp
đồng mua bán hàng hóa.
1.3.6 .Nguyên tắc cùng có lợi
Trong nền kinh tế thị trường mỗi bên tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế đều
xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Do đó, khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa, các bên cùng nhau thoả thuận những điều khoản hợp đồng theo hướng có lợi
nhất cho các bên, không bên nào được lừa dối hay chèn ép bên nào.


19


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HỆ THỐNG 1-V.
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến vần đề giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa.
2.1.1 Tổng quan tình hình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Ngày nay, mua bán hàng hóa là hoạt động chính trong hoạt động thương mại, là
cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, không chỉ giới hạn trong phạm vi mỗi quốc gia mà
còn mở rộng ra các quốc gia khác nhau trên thế giới. Hoạt động mua bán hàng hóa
diễn ra một cách thường xuyên, liên tục hình thành nên các hợp đồng mua bán hàng
hóa với số lượng tăng nhanh theo nhu cầu thị trường kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới WTO. Cùng với những biến đổi đa dạng của xã hội cũng như
nền kinh tế, hệ thống pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa đã bước đầu đi
vào cuộc sống, xác lập được sự ổn định trong các mối quan hệ kinh doanh, mua bán,
hình thành được nền tảng tư duy mới mẻ trong công tác quản lý nhà nước về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong mọi nền kinh tế thì quan hệ mua bán hàng hóa
luôn đóng vai trò quan trọng. Bởi đó là một khâu đảm bảo cho việc sản xuất được diễn
ra suôn sẻ- hàng sản xuất ra được tiêu thụ. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ngày

càng quan trọng, việc giao kết hợp đồng mua bán được diễn ra rất rộng rãi và ngày
càng được chú ý. Thông qua việc giao kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt
được nhu cầu thì trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính thực hiện của kế hoạch
sản xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua quá trình giao kết hợp
đồng các chủ thể chủ động cân nhắc để đạt được quyền lợi tối đa.
Là một chủ thể trong nền kinh tế, hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần hệ
thống 1-V tuân theo các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa cũng
như giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Cũng như thông qua việc giao kết hợp đồng
của Công ty Cổ phần hệ thống 1-V với các doanh nghiệp khác , khi giao kết hợp đồng
đúng quy định của pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tham giao giao kết hợp đồng.
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.
2.1.1.1 Nhân tố kinh tế
Nhờ thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, hợp tác với tất cả các nước trên thế
giớ trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 176 quốc
gia trên thế giới, có quan hệ kinh tế với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ và có
khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong đó có
20


×