Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.48 KB, 130 trang )

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.........................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và chính sách
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài...................................................................7
1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài.....................................................................7
1.1.2. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài....................................26
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện chính sách thu hút
FDI..................................................................................................................30
1.2.1. Môi trường chính trị - xã hội.................................................................30
1.2.2. Môi trường đầu tư.................................................................................32
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong nước về hoàn thiện chính
sách thu hút FDI..............................................................................................36
1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh...........................................36
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh............................................................38
1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương.......................................................39
1.3.4. Các bài học kinh nghiệm rút ra cho Hà Nội trong hoàn thiện chính sách
thu hút FDI......................................................................................................41
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở HÀ NỘI..........................44
2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của Hà Nội tác động tới quá trình
hoàn thiện chính sách thu hút FDI..................................................................44
2.2. Thực trạng tác động của quá trình hoàn thiện chính sách đến kết quả thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội........................................................52


2.2.1. Quá trình hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Hà Nội......................................................................................................52
2.2.2. Tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội.............58
2.2.3. Những hạn chế đặt ra đối với chính sách thu hút FDI ở Hà Nội...........66


2.3. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện chính sách thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thành phố Hà Nội.........................................80
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI VÀO HÀ NỘI ĐÊN NĂM 2020.....................................................83
3.1. Mục tiêu và phương hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Hà Nội
trong thời gian tới............................................................................................83
3.1.1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội đến năm 2020 của Thủ đô Hà Nội...83
3.1.2. Định h ướng thu hút FDI c ủa Hà N ội..................................................86
3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Hà Nội đến năm 2020............................................................87
3.2.1. Nâng cao năng lực quản lý điều hành của nhà nước đối với FDI.............87
3.2.2. Cải cách thủ tục hành chính..................................................................89
3.2.3. Nhóm giải pháp về hoàn thiện các chính sách trên các lĩnh vực cụ thể 92
3.2.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách đất đai................................................99
3.2.4. Giải pháp hoàn thiện chính sách lao động...........................................102
3.2.5. Giải pháp hoàn thiện chính sách thị trường.........................................109
3.2.6. Giải pháp hoàn thiện chính sách khoa học - công nghệ......................109
KẾT LUẬN..................................................................................................112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................113


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FDI Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
PCI Provincial Competitiveness Index - Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
VCCI Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam
KTXH Kinh tế xã hội
UBND Ủy ban nhân dân
KCX Khu chế xuất
KCN Khu công nghiệp

ĐTNN Đầu tư nước ngoài
MNCs Multi National Corporations
VĐK Vốn đăng ký
TP

Thành phố

TNHH Trách nhiệm hữu hạn


Lao động

TW Trung Ương
BOT Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao
BT

Xây dựng - Chuyển giao

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Bảng


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay đã và đang tạo ra xu
hướng nhất thể hóa các nền kinh tế trên thế giới. Việc Việt Nam ngày càng
khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế cùng với sự kiện chính
thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tạo ra
thời cơ và thách thức cho Việt Nam nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng
trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đóng vai trò quan trọng, tạo nguồn lực bổ sung về vốn, công nghệ,

thị trường, kinh nghiệm quản lý và lao động trình độ cao với tác phong công
nghiệp, góp phần tạo việc làm, nâng cao trình độ phát triển nhiều mặt của đất
nước nói chung và của Thành phố Hà Nội nói riêng.
Kể từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính hoạt động thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Thành phố có nhiều vấn đề cần xem xét một cách
toàn diện bởi những nét đặc thù riêng của từng địa phương về tự nhiên, dân
số, các vấn đề kinh tế - xã hội khác nhau, tạo nên sự đa dạng phong phú về
nguồn lực đồng thời là sự cồng kềnh hơn của bộ máy quản lý nhà nước đòi
hỏi Hà Nội nhìn nhận lại những thành tựu và hạn chế trong thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài của mình để đưa ra giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thành phố.
Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng với những biến động
của tình hình an ninh - chính trị trên thế giới thời gian gần đây đã ảnh hưởng
không chỉ đối với các nước đang phát triển mà với hầu hết các nước trên thế
giới làm di chuyển dòng vốn giữa các quốc gia. Để đẩy mạnh thu hút nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội đòi hỏi cần có những biện pháp
hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách phù
hợp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

1


Trong những năm qua Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi,
áp dụng nhiều cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Hà Nội.
Nhưng do cơ chế chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay của
nước ta còn nhiều bất hợp lý, chưa hấp dẫn và chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế, nên điều đó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ thu hút vốn FDI của
Hà Nội. Cụ thể là có những giai đoạn mà dòng vốn FDI vào Hà Nội đã giảm
sút rõ rệt, trong khi nhu cầu vốn FDI cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời
gian tới là rất lớn.

Với vị trí là đầu tàu, trung tâm kinh tế và giao dịch quốc tế, Hà Nội đặt
mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế, kiểm soát lạm phát, đi đôi với đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng, bảo đảm kinh tế phát triển bền vững. Hà Nội cũng sẽ phát
triển đô thị và xây dựng nông thôn mới theo hướng đồng bộ, văn minh và hiện
đại, phấn đấu để Hà Nội là địa phương đi đầu và về đích sớm 1 đến 2 năm
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần cùng cả nước thực
hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020; đóng góp ngày càng quan trọng vào sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi Chính phủ phải
tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút FDI ở Việt Nam nói chung và Hà
Nội nói riêng. Với mong muốn góp phần vào việc giải quyết vấn đề có ý
nghĩa quan trọng thiết thực và mang tính cấp bách này, tác giả đã lựa chọn đề
tài: “chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn
Thành phố Hà Nội hiện nay.” Để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang đóng vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Do đó,
chủ đề này đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài.
Một số công trình tiêu biểu đó là:

2


+ “FDI vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội”(2006), luận văn
thạc sĩ của học viên Trần Văn Lưu, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu này chủ yếu đi sâu phân tích đánh giá thực trạng thu hút và sử
dụng FDI vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
+ “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng phát
triển bền vững” (2008), luận văn thạc sĩ của học viên Trần Thị Tuyết Lan,

Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này tập trung đánh giá
thực trạng thu hút FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền vững nhằm chỉ ra
những mặt mạnh, mặt yếu và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở
tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền vững.
+ “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế - xã hội ở
Thành phố Đà Nẵng”(2006), luận văn Thạc sĩ của học viên Nguyễn Văn Chiến,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này đã đi sâu phân tích
những tác động tích cực và hạn chế của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
ở thành phố Đà Nẵng, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao tác động tích cực
của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng.
- - “Hoàn thiện thể chế về môi trường kinh doanh của Việt Nam” (PGS. TS
Lê Danh Vĩnh, NXB Chính trị Quốc gia, 2009). Tác giả đã nêu được thực trạng
về môi trường kinh doanh của Việt Nam, trong đó tập trung vào các yếu tố phản
ánh thể chế môi trường kinh doanh và các tiêu chí đánh giá mức độ cải thiện thể
chế môi trường kinh doanh của các tổ chức trong nước và quốc tế.
- “Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Thành phố Đà Nẵng” (Phạm Minh Nhựt, Luận văn Thạc sĩ, 2005). Đề tài đã
phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI, từ đó đưa ra các
giải pháp hợp lý cải thiện môi trường đầu tư để thúc đẩy việc thu hút nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

3


- “Thu hút nguồn lực của người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào phát
triển Kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội đến năm 2015 ” (TS Nguyễn Minh
Phong, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, 2009). Đề tài đã nêu
được những tiềm năng các nguồn lực của cộng đồng người Việt định cư ở
nước ngoài. Phân tích những thuận lợi và khó khăn và bài học kinh nghiệm
trong việc thu hút các nguồn lực của người Việt Nam định cư ở nước ngoài

cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên số liệu trích
dẫn chưa nêu cụ thể thời kỳ nào và một số số liệu trích dẫn chưa chính xác.
- “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội” (Trương Tuấn Anh, luận văn
Thạc sĩ kinh tế đối ngoại, 2009). Đề tài đã phân tích và đánh giá thực trạng
thu hút FDI vào Hà Nội trong giai đoạn từ khi Đổi mới đến trước khi Hà Nội
mở rộng. Do đó, đề tài chỉ phân tích về môi trường đầu tư cũng như tình hình
thu hút FDI của Hà Nội cũ mà chưa cập nhật các số liệu của Hà Nội mới.
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã có nhiều đóng góp
quan trọng trong việc lam rõ những vấn đề lý luận về FDI, phân tích vai trò
của FDI, đưa ra những giải pháp chung để đẩy mạnh thu hút FDI vào nước ta,
cũng như một số địa phương trong thời gian tới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về chính sách thu hút
FDI trên địa bàn Hà Nội một cách hệ thống cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì
vậy, việc nghiên cứu vấn đề này là quan trọng và cấp thiết.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách thu hút FDI. Đánh giá
tác động của sách thu hút FDI đến kết quả thu hút FDI vào Thành phố Hà
Nội. Đề xuất những giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách để tăng cường thu
hút FDI ở thủ đô Hà Nội đến năm 2020.

4


3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn cần tập trung giải quyết một
số nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách thu hút FDI ở Hà Nội trong

thời gian qua; Chỉ ra những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại, hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
thu hút FDI vào Hà Nội đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và
quá trình hoàn thiện chính sách thu hút FDI ở Hà Nội trong thời gian gần đây.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu chính sách thu hút FDI trên địa
bàn Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu chính sách thu hút FDI trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian từ 2009 - 2014 và đưa ra những giải pháp
đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước; Chủ trương, Chính sách của Thành
ủy, UBND thành phố Hà Nội; là những giá trị về lý luận khoa học của các
công trình nghiên cứu về hoàn thiện chính sách thu hút vốn FDI.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là các phương pháp triết học duy
vật biện chứng; cụ thể là các phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
thống kê, đối chiếu, so sánh...

5


6.Những đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận và
thực tiễn của việc hoàn thiện chính sách thu hút FDI ở Việt Nam nói chung và
Hà Nội nói riêng.

- Trên cơ sở phân tích thực trạng chính sách thu hút FDI của Hà Nội,
luận văn đã chỉ ra những thành tựu và hạn chế cần phải hoàn thiện chính sách
thu hút FDI của Hà Nội.
- Luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách
nhằm tăng cường thu hút FDI vào Hà Nội đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu như sau: ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Chương 2. Thực trạng hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Hà Nội
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện chính
sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội đến năm 2020.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.Những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1.Khái niệm, đặc điểm, bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), FDI được định nghĩa là “một khoản đầu
tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà
đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền
kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng
trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó”

Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) cũng
đưa ra một định nghĩa về FDI. Theo đó, FDI là “hoạt động đầu tư liên quan
đến một mối quan hệ lâu dài và phản ánh mối quan tâm dài hạn cùng với sự
kiểm soát bởi một thực thể trong công ty đầu tư(công ty mẹ) đầu tư vào một
tập đoàn kinh tế khác(công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hay công ty
thành viên hoặc công ty nước thành viên). FDI ngầm định các chủ đầu tư có
quyền ảnh hưởng đáng kể trong việc điều hành quản lý của công ty nhận đầu
tư. Hoạt động đầu tư này liên quan đến các khoản giao dịch ban đầu giữa hai
công ty và tất cả các khoản giao dịch sau đó giữa họ và các thành viên nước
ngoài có liên quan(bao gồm cả thành viên sát nhập và thành viên không sát
nhập)”. Như vậy theo UNCTAD, FDI gồm ba phần: vốn đầu tư ban đầu của
doanh nghiệp, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay nội bộ giữa các công ty
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “Đầu tư
trực tiếp nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp

7


đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc
quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: - Thành lập hoặc mở rộng một
doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư.
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
- Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
- Cấp tín dụng dài hạn(>5 năm).
Luật đầu tư của Việt Nam ban hành năm 2005 quy định: “Đầu tư trực tiếp
là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động
đầu tư.” “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.”
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư

quốc tế trong đó nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài
sản nào vào quốc gia đó để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát
hoạt động đầu tư.
* Đặc điểm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của các cá nhân
và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn
bộ hay từng phần cơ sở đó. Xuất phát từ khái niệm chúng ta có thể rút ra một
số đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Một là, các nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu
vào vốn pháp định, tùy theo quy định của luật đầu tư mỗi nước. Vốn pháp
định trong dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn tự có của chủ đầu tư được
quy định theo luật đầu tư. Sau khi góp vốn hợp lệ, nhà đầu tư có quyền tham
gia vào việc quản lý và điều hành dự án đầu tư.
Hai là, quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn của
mỗi bên. Nếu vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài là 100% thì nhà đầu tư nước

8


ngoài có toàn quyền quản lý doanh nghiệp.Tuy nhiên việc hoạt động của
doanh nghiệp có vốn góp nước ngoài cho dù dưới bất kì hình thức nào thì
cũng phải tuân theo quy định của nước sở tại.
Ba là, lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết
quả của hoạt động sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
Bốn là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua
việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh
nghiệp đang hoạt động hoặc mua cơ phiếu để thôn tính hoặc xát nhập các
doanh nghiệp với nhau
Năm là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với
việc di chuyển vốn mà còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến

thức và kinh nghiệm quản lý, tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía
nhận đầu tư.
Sáu là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với các
hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.Các công ty mẹ có
thể thông qua các công ty con để trực tiếp đầu tư vào các quốc gia có công ty
con đó.
1.1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Về bản chất, hình thức đầu tư thực chất là hình thức tổ chức kinh doanh
mà nhà đầu tư có thể sử dụng để thực hiện các hoạt động đầu tư. Theo Luật
đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn một trong các hình
thức tổ chức kinh doanh sau:
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Enterprise) là doanh nghiệp do
hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập thành lập tại Việt Nam trên cơ sở
hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp có vốn

9


đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp
liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chỉ
chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định
doanh nghiệp.
Như vậy có thể hiểu doanh nghiệp liên doanh là một hình thức tổ chức
kinh doanh có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các
bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hoá;
hoạt động trên cơ sở có sự đóng góp của các bên về vốn, quản lý lao động và

cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động
của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch
vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (100% Foreign - Invested
Enterprise) là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn, là
doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản
lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về
môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh
tế, luật pháp, văn hoá, mức độ cạnh tranh…
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là một thực
thể pháp lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập dưới dạng
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.

10


Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Co-operation Contract) là văn
bản được ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh,
trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
mà không thành lập pháp nhân mới.
Đặc điểm của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là:
- Các bên thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở ký kết một
hợp đồng hợp tác mà không hình thành một pháp nhân mới tách biệt với các
bên hợp doanh như hình thức doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài.

- Có sự phân chia kết quả kinh doanh giữa các bên hợp doanh, mỗi bên
được hưởng lợi hay phải chịu lỗ tương ứng theo tỷ lệ vốn góp.
- Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở
tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt
động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại.
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hợp doanh được ghi trong hợp đồng hợp
tác kinh doanh.
Đầu tư nước ngoài theo hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT
BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ
một số mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây
dựng cơ sở hạ tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự
án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận
hành một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể
là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành
doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài
hợp đồng BOT còn có hợp đồng BTO (xây dựng - chuyển giao - kinh doanh),
hợp đồng BT (xây dựng - chuyển giao).

11


Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với
cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh
trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó
chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây
dựng chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có
điểm khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được Chính phủ nước

chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong
một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về
công trình đã xây dựng và chuyển giao.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ
nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư
đã bỏ ra và một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý.
Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đồng BOT, BTO, BT mặc
dù hợp đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đồng là các cơ quan
quản lý nhà nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp
FDI khác, chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; được
hưởng các ưu đãi đầu tư cao hơn so với các hình thức đầu tư khác và điểm
đặc biệt là khi hết hạn hoạt đồng, phải chuyển giao không bồi hoàn công trình
cơ sở hạ tầng đã được xây dựng và khai thác cho nước sở tại.
Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company)
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lý được
thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.

12


Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở
mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó thông qua
việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hội đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới
hạn hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám
sát hoạt động quản lý của các công ty con. Các công ty con vẫn duy trì quyền
kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều
thuận lợi:

- Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư
khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các
công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiêu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu
nhập và các nghiệp vụ tài chính.
- Quản lý các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể
thống nhất và chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến
lược điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
- Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh
mục đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho
các công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
- Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ,
quan hệ đối ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát
triển (R&D)…
Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào
doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa không
hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của

13


công ty cổ phần là nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các
cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Về mặt cơ cấu tổ chức: công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội
đồng quản trị và giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông
hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia
giám sát quản lý hoạt động của công ty cổ phần. Đại hội cổ đông gồm tất cả cổ
đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần.

Ở một số nước khác, công ty cổ phần có vốn đầu nước ngoài được
thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động,
mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hoá.
Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn
nước ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong
khi công ty con thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty
con thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm
của chi nhánh theo quy định của một số nước, không chỉ giới hạn trong phạm
vi tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công
ty mẹ ở nước ngoài.
Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản
chi phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước
ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của
công ty mẹ ở nước ngoài vào phần thu nhập chịu thuế ở nước sở tại.
Hình thức công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp
danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành
viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp

14


và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của công
ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không được phát
hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Các thành viên hợp danh có quyền ngang
nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty, còn thành viên góp vốn có
quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty nhưng không

được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty.
Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A)
Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh
nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp
này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại
một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất
thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) lớn và tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn
thông, tài chính, ngân hàng, chứng khoán ở các nước phát triển. Trong tương
lai các thương vụ M & A sẽ ngày càng tăng cả về số lượng, hình thức và giá trị.
1.1.1.3.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đối với nước đi đầu tư:
Đứng trên góc độ quốc gia:
Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là cách để các quốc gia có thể
mở rộng và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đối với các quốc gia khác
mà mình sẽ đầu tư. Khi một nước đầu tư sang nước khác một mặt hàng thì
nước đó thường có những ưu thế nhất định về mặt hàng như về chất lượng,
năng suất và giá cả cùng với chính sách hướng xuất khẩu của nước này; thêm
vào đó là sự có một sự sẵn sàng hợp tác chấp nhận sự đầu tư đó của nước sở
tại cùng với những nguồn lực thích hợp cho sản phẩm đó. Mặt khác, khi đầu
tư FDI nước đi đầu tư có rất nhiều có lợi về kinh tế cũng như chính trị.

15


Thứ nhất, quan hệ hợp tác với nước sở tại được tăng cường và vị thế
của nước đi đầu tư được nâng lên trên trường quốc tế.
Thứ hai, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, khi trong nước
sản phẩm đang thừa mà nước sở tại lại thiếu.

Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động, vì khi đầu
tư sang nước khác, thì nước đó phải cần có những người hướng dẫn, hay
còn gọi là các chuyên gia trong lĩnh vực này. Đồng thời tránh được việc
phải khai thác các nguồn lực trong nước, như tài nguyên thiên nhiên hay ô
nhiễm môi trường.
Thứ tư, đó là vấn đề chính trị, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi
dụng những kẻ hở của pháp luật, sự yếu kém về quản lý hay sự ưu đãi của
Chính phủ nước sở tại sẽ có những mục đích khác như làm gián điệp.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp:
Mục đích của doanh nghiệp cũng như mục đích của một quốc gia
thường là lợi nhuận, lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Một khi trong nước hay
các thị trường quen thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm
cùng loại của đối thủ cạnh tranh thì họ phải đầu tư ra nước khác để tiêu thụ số
sản phẩm đó. Trong khi đầu tư ra nước ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm thấy ở
nước sở tại những lợi thế so sánh so với thị trường cũ như lao động rẻ hay tài
nguyên chưa bị khai thác nhiều.
Một nguyên nhân nữa là họ có thể bán được những máy móc và công
nghệ cũ kỹ lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao nhưng lại
là mới đối với nước nhận đầu tư (khi nước đầu tư là nước đang phát triển).
Thêm vào đó, là sản phẩm của họ được bán tại thị trường này sẽ ngày
càng tăng uy tín và tiếng tăm cho nó và làm tăng sức cạnh tranh đối với các
đối thủ có sản phẩm cùng loại.

16


Đối với nước nhận đầu tư:
Những mối lợi:
- Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn
lực): Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất chưa

được phát huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu
được một nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến
chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết.
Như ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá một đất nước đang phát triển như nước ta. Chúng ta
cần có vốn và công nghệ để có thể thực hiện được nó. Khi đầu tư trực tiếp
diễn ra thì công nghệ được du nhập vào trong đó có cả một số công nghệ bị
cấm xuất theo con đường ngoại thương, các chuyên gia cùng với các kỹ năng
quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công nghệ này, do vậy các cán bộ
bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ.
Trên thực tế có nhiều mức độ phụ thuộc khác nhau vào nguồn FDI ở
các nước đang phát triển. Từ năm 1973, khi có nhiều nước chuyển sang đi vay
các nước khác, những luồng vốn chảy vào đó đã góp phần quan trọng cho
việc hình thành vốn của một vài nước đang phát triển. Giữa năm 1979 và năm
1981, luồng vốn đầu tư trực tiếp chiếm khoảng 25% trong tổng số vốn cố định
được đầu tư của Singapore; 11% ở Malaixia; gần 5% ở Chile và Philipines;
khoảng 15% tại Brazil, Indonesia, Mehico, còn ở Hàn Quốc, Ấn Độ và
Nigeria không đáng kể. Tuy nhiên, những con số này chưa phản ánh đủ sự
đóng góp của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài vào tổng số vốn
được đầu tư. Lợi nhuận tái đầu tư đã không được kể đến ở một số nước đang
phát triển; ngoài ra, quĩ khấu hao của các doanh nghiệp FDI đã trang trải cho
một phần cơ bản của các khoản chi tiêu trong tổng số vốn của các nước này,
mà lại không đưa vào định nghĩa FDI.

17


Có những khác biệt lớn giữa các nước về mức độ thay thế của FDI cho
các luồng vốn nước ngoài khác, do những khác biệt trong cơ cấu kinh tế có
những tác động đến sức hấp dẫn của đất nước đối với các nhà đầu tư, cũng

như những khác biệt trong các yếu tố kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải có các luồng
vốn chảy vào. Các nước có thị trường nhỏ bé, ít các nguồn lực tự nhiên, kết
cấu hạ tầng yếu kém và ít khả năng xuất khẩu hàng công nghiệp thì ít có khả
năng thu hút các nguồn FDI lớn, ngay cả khi có những qui chế tự do và những
ưu đãi hào phóng. Về cơ bản, các nước đó nói chung cũng không có khả năng
vay nợ theo các điều kiện thương mại thông thường, và chủ yếu dựa vào kết
quả ưu đãi. Kết quả là những khả năng thay thế giữa tín dụng thương mại
nước ngoài và FDI chủ yếu có liên quan tới các nước lớn, có nguồn tài
nguyên thiên nhiên dồi dào, hoặc có khu vực công nghiệp khá phát triển. Các
nước đã có được một số lượng lớn các nguồn FDI nói chung cũng sẽ dễ tác
động hơn tới cơ cấu tương lai của nguồn vốn, bởi vì họ cũng có thể tác động
tới hoạt động FDI thông qua cơ cấu tài chính của các chi nhánh hiện hữu
thuộc các công ty nước ngoài, và cụ thể là tới số lượng vay từ các nguồn trong
nước và các nguồn khác ở nước ngoài. Nhưng so với vay nước ngoài, FDI có
xu hướng tập trung nhiều hơn tại một số ít nước.
Những nguyên nhân kinh tế vĩ mô của các luồng vốn vào cũng có thể
ảnh hưởng lớn tới mức độ thay thế giữa FDI và tín dụng thương mại với tư
cách là nguồn vốn nước ngoài. Tại các nước có các thị trường vốn phát triển,
các nguồn gốc mất cân bằng kinh tế vĩ mô riêng lẻ có thể chỉ có tác động hạn
chế tới cơ cấu luồng vốn vào. Tuy nhiên, phần lớn các nước đang phát triển
đều có các thị trường vốn trong nước phân tán, và đối với các nước này,
những nguyên nhân làm cho luồng vốn chảy vào có ý nghĩa lớn hơn. Có ba
loại yếu tố khiến cần thiết phải có các luồng vốn chảy vào ngày càng nhiều,
thể hiện khả năng thay thế khác nhau giữa FDI và vay nước ngoài.

18


Thứ nhất là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung do chỉ
tiêu tăng thêm vào các dự án đầu tư mà chúng được coi là có khả năng thành

công về mặt tài chính. Nếu hoạt động đầu tư ấy diễn ra trong khu vực tư nhân
thì khả năng thay thế sẽ cao, miễn là các qui định về thuế khoá và qui chế tỏ
ra thích hợp đối với FDI. Nếu hoạt động đầu tư ấy được thực hiện chủ yếu bởi
các doanh nghiệp nhà nước, thì tại nhiều nước, khả năng thay thế sẽ thấp do
các hàng rào thể chế ngăn cản hoạt động FDI. Tuy nhiên, vẫn có khả năng lớn
cho sự tham gia cổ phần của nước ngoài thông qua những thoả thuận đầu tư
liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước thích hợp, với điều kiện những
hình thức này là phù hợp với phương hướng phát triển chung của nước nhận
đầu tư. Những thoả thuận như vậy là phổ biến trong ngành thăm dò và khai
thác khoáng sản, một ngành có nhiều rủi ro với vốn cổ phần nước ngoài hoạt
động liên kết với các công ty nhà nước, nhưng chúng còn được thấy rõ trong
nhiều khu vực khác nữa. Brazil đã khuyến khích hoạt động đầu tư liên doanh,
bao gồm sự kết hợp của nhà nước với vốn cổ phần tư nhân trong nước cũng
như nước ngoài, đặc biệt là trong ngành công nghiệp hoá dầu. Kinh nghiệm
của Trung Quốc, một nước hiện nay đang sử dụng nguồn FDI nhiều hơn so
với hình thức vay tín dụng thương mại nước ngoài, cho thấy rằng hệ thống
doanh nghiệp nhà nước không nên cản trở sự thay thế giữa các hình thức khác
nhau của vốn nước ngoài. Một biện pháp chính để thường xuyên thay thế đó
là việc đưa ra những bảo đảm của nhà nước đối với các khoản vay do các
doanh nghiệp nhà nước vay của ngân hàng thương mại nước ngoài. Điều này
làm giảm bớt chi phí vay tín dụng thương mại cho doanh nghiệp, vì nhà nước
gánh chịu một phần sự rủi ro của người cho vay, do vậy, nó trở nên tương đối
hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp nhà nước, nếu so với hình thức tham
gia cổ phần của phía nước ngoài.

19


Thứ hai là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung, do chi
tiêu nhiều hơn cho tiêu dùng hoặc cho các dự án đầu tư được coi như không

khả thi về tài chính (bao gồm các dự án về kết cấu hạ tầng có thể đưa lại lợi
nhuận kinh tế nói chung cao hơn, nhưng lại không tạo ra một nguồn thu trực
tiếp nào). Sự vượt quá của nhu cầu như vậy thường xảy ra ở dưới dạng những
thâm hụt lớn về tài chính, ví dụ như chi tiêu nhà nước vào các khoản trợ cấp,
các khoản trả lương cao hơn hoặc sự mở rộng kết cấu hạ tầng xã hội. Trong
trường hợp này, FDI khó có thể thay thế việc Chính phủ hoặc ngân hàng TW
đi vay nước ngoài. Sẽ không có những dự án đầu tư bổ xung có khả năng thu
hút các nhà đầu tư trực tiếp. Về nguyên tắc, khoản vay mượn cao hơn ở trong
nước do Chính phủ thực hiện sẽ làm tăng mức lãi suất ở trong nước và dẫn tới
các luồng vốn chảy vào hoặc đầu tư trực tiếp lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực
tế, những ảnh hưởng gián tiếp đó tới các luồng vốn nước ngoài là có hạn, bởi
vì ở nhiều nước đang phát triển, thị trường vốn bị phân tán và không có các
chính sách linh hoạt.
Cuối cùng, một phần vốn vay nước ngoài của các nước đang phát triển
thường không dùng để trang trải cho sự gia tăng trong tổng chi phí quốc nội
mà để bù vào luồng vốn chảy ra của tư nhân. Khả năng thay thế sự vay mượn
đó bằng đầu tư trực tiếp là thấp, đặc biệt là do chính sách tỷ giá hối đoái và lãi
suất không thích hợp. Những chính sách này thường gây ra sự thất thoát vốn,
và như vậy cũng thường không thúc đẩy được hoạt động FDI.
Do đó, mức độ thay thế vay nước ngoài bằng FDI trong thập kỷ vừa
qua của các nước đang phát triển có lẽ phụ thuộc vào cách thức sử dụng
khoản vay mượn đó. Phần lớn số vốn vay sau hai lần tăng đột biến giá dầu lửa
là nhằm hỗ trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán ngắn hạn. Đối với khoản vay
đó, khả năng thay thế là rất thấp. Tuy nhiên, phạm vi chuyển dịch giữa các
hình thức vốn vào có lẽ đã tăng lên theo độ dài của thời kỳ diễn ra sau sự mất

20


cân đối đối ngoại ban đầu. Về vấn đề này, bằng chứng nêu ra trên tờ Triển

vọng Kinh tế Thế giới 1983 về nguồn vốn đã cho thấy rằng, đối với hầu hết
các nước vay mượn lớn nhất trong số các nước đang phát triển không sản xuất
dầu lửa, sự gia tăng nợ nước ngoài trong thập kỷ vừa qua đã gắn liền với mức
đầu tư cao hơn và phần lớn không sử dụng vào việc chi cho tiêu dùng. Tuy
nhiên, một bộ phận đầu tư lớn cần được dành cho các dự án về kết cấu hạ
tầng, nhưng chúng không thu hút được FDI.
Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực quản lý
và marketing) khó đo lường hơn so với các luồng chảy vào, nhưng phần lớn
chuyển giao đã diễn ra ở công ty mẹ ở nước ngoài và các chi nhánh của
chúng. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tầm quan trọng của các hoạt động
chuyển giao công nghệ trong nội bộ các công ty như thế tuỳ thuộc vào những
chuyển giao từ các phía khác nhau. Tại Hàn Quốc là nơi FDI được điều chỉnh
và hướng vào các khu riêng biệt, gần 3/4 số hợp đồng cấp giấy phép sản xuất
của nước ký kết; tuy nhiên, ở Singapore là nơi có tương đối ít những hạn chế
về đầu tư trực tiếp, hầu hết các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất đã được ký
kết bởi các công ty có ít nhất một phần thuộc quyền sở hữu nước ngoài. Trong
các ngành sử dụng kỹ thuật mới hoặc kỹ thuật đặc thù của doanh nghiệp (như
các ngành điện tử), đa số các hoạt động chuyển giao diễn ra giữa các công ty
mẹ và chi nhánh thuộc quyền sở hữu hoàn toàn hoặc sở hữu một phần lớn của
công ty mẹ; do có sự lo lắng tới việc duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với kỹ
thuật công nghệ có liên quan. Tuy nhiên, trong nhiều ngành khác, các hoạt
động chuyển giao công nghệ diễn ra thông qua các hợp đồng cấp giấy phép
sản xuất khác nhau đã tăng lên nhanh hơn so với sự chuyển giao công nghệ
thông qua FDI.
- Các nhà đầu tư gánh chịu rủi ro: Đầu tư trực tiếp khác với đầu tư gián
tiếp là nhà đầu tư phải tự đứng ra quản lý đồng vốn của mình, tự chịu trách

21



nhiệm trước những quyết định đầu tư của mình, do vậy độ rủi ro cao hơn so
với đầu tư gián tiếp. Các nước nhận đầu tư trực tiếp do vậy cũng không phải
lo trả nợ hay như đầu tư gián tiếp theo mức lãi suất nào đó hay phải chịu trách
nhiệm trước sự phá sản hay giải thể của nhà đầu tư nước ngoài.
- Tăng năng suất và thu nhập quốc dân; cạnh tranh hơn, hiệu quả kinh
tế hơn: Do có công nghệ cùng với trình độ quản lý được nâng lên nên đối với
các ngành sản xuất thì việc tăng năng suất là điều tất yếu. Không những thế
những công nghệ này còn cho ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, tính
năng đa dạng hơn, bền hơn và với những mẫu mã đa dạng, hàng hoá lúc này
sẽ nhiều và tất nhiên sẽ rẻ hơn so với trước. Điều này chính là cung tăng lên
nhưng thực ra nó tăng lên để đáp ứng lại lượng cầu cũng tăng lên rất nhanh do
quá trình đầu tư có tác động vào. Tốc độ quay của vòng vốn tăng lên nhanh
hơn, do vậy sản phẩm cũng được sản xuất ra nhiều hơn và tiêu thụ cũng nhiều
hơn. Do sự tiêu thụ được tăng lên do vậy các ngành sản xuất, dịch vụ được
tiếp thêm một luồng sức sống mới, nhân lực, máy móc và các nguyên vật liệu
được đem ngay vào sản xuất, từ đó sức đóng góp của các ngành này vào GDP
cũng đã tăng lên.
Việc có được những công ty có hiệu quả với khả năng cạnh tranh trên
thị trường thế giới có thể đưa lại một sự khai thông quan trọng, tiềm tàng cho
việc chuyển giao các kỹ năng quản lý và công nghệ cho các nước chủ nhà.
Điều này có thể xảy ra ở bên trong một ngành công nghiệp riêng rẽ, trong đó
có những người cung ứng các đầu vào cho các chi nhánh nước ngoài, những
người tiêu dùng trong nước đối với các sản phẩm của chi nhánh này và những
đối thủ cạnh tranh của chúng, tất cả đều muốn lựa chọn những phương pháp
kỹ thuật có hiệu quả hơn. Nó cũng có thể diễn ra một cách rộng rãi hơn trong
nội bộ nền kinh tế thông qua sự tăng cường có kết quả công tác đào tạo và
kinh nghiệm của lực lượng lao động và thông qua sự khuyến khích có thể có

22



×