Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa từ thực tiễn huyện khoái châu, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 110 trang )

LÊ THỊ CHUNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN

LÊ THỊ CHUNG

2017-2019
HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN

LÊ THỊ CHUNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan mọi kết quả trong đề tài này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác cho
tới thời điểm này.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận văn

năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin đươ ̣c chân thành cảm ơn Khoa Đào tạo sau Đại học cùng toàn bộ các
cán bô ̣, giảng viên đã giảng da ̣y, hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá triǹ h ho ̣c tâ ̣p,
nghiên cứu và hoàn thành bản luâ ̣n văn thạc sĩ này.
Đă ̣c biê ̣t, em xin đươ ̣c bày tỏ lòng biế t ơn sâu sắ c đến cô Nguyễn Thị Dung
là giáo viên trực tiế p hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Em xin chân tro ̣ng cảm ơn sự giúp đỡ nhiê ̣t tình của các cơ quan chuyên môn
đã tạo điều kiện cho em thu thâ ̣p số liê ̣u, những thông tin cầ n thiế t để hoàn thành
luâ ̣n văn.
Dù đã hế t sức cố gắng, song chắ c chắ n luâ ̣n văn không tránh khỏi những sai

sót, em rấ t mong nhâ ̣n đươ ̣c những ý kiế n đóng góp quý báu của các thầy cô để em
chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện luận văn đạt chất lượng tốt hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luâ ̣n văn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................9
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐẤT TRỒNG LÚA VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA.................................16
1.1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ............................16
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của đất trồng lúa....................................................16
1.1.2. Vai trò của đất trồng lúa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ............21
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa 22
1.1.4. Sự cần thiết của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ....25
1.1.5. Cơ sở lý luận của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ..26
1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ............29
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa 29
1.2.2. Vai trò của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa30
1.2.3. Cơ cấu của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ....... 32
1.2.4. Những yếu tố chi phối pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
trồng lúa ............................................................................................................35
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI HUYỆN KHOÁI
CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN ......................................................................................39
2.1. Nội dung pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa .........39
2.1.1. Các quy định về nguyên tắc và điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất trồng lúa ................................................................................................39
2.1.2. Các quy định về phạm vi bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa
...........................................................................................................................44


2.1.3. Các quy định của pháp luật về trình tự và thủ tục bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất trồng lúa .................................................................................50
2.1.4. Các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo khi Nhà nước thực hiện bồi
thường do thu hồi đất trồng lúa .........................................................................62
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng
lúa tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên ............................................................67
2.2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của huyện Khoái Châu tỉnh
Hưng Yên ..........................................................................................................67
2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường đất trồng lúa khi Nhà nước
thu hồi đất tại huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên.............................................73
2.2.3. Đánh giá việc thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trồng lúa ở Khoái Châu tỉnh Hưng Yên ......................................................85
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TRỒNG LÚA TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN ....93
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thương khi Nhà nước thu hồi đất
trồng lúa.................................................................................................................93
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng
lúa ..........................................................................................................................94
3.2.1. Hoàn thiện quy định về tính giá bồi thường ...........................................94
3.2.2. Thay đổi mức bồi thường ........................................................................96
3.2.3. Thay đổi cách thức thu hồi đất trồng lúa để phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, công cộng ...............................................................................97
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất trồng lúa từ thực tiễn huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên ..................99

3.3.1. Giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và chủ đầu
tư khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ...............................................................99
3.3.2. Tăng cường công khai, minh bạch hơn trong công tác thu hồi và bồi
thường đất trồng lúa ........................................................................................102


3.3.3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo phát sinh từ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất trồng lúa kịp thời ...........................................................................102
KẾT LUẬN .............................................................................................................105
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................107
PHỤ LỤC .................................................................. Error! Bookmark not defined.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Giải nghĩa

GPMB

Giải phóng mặt bằng

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

NN

Nhà nước


TĐC

Tái định cư

TAND

Tòa án nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam với xuất phát điểm là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp là
chủ yếu, do vậy đất đai là một trong những tư liệu sản xuất rất quan trọng đối với
con người. Với chủ trương của Đảng, xây dựng đất nước ta trở thành nước công
nghiệp vào năm 2025 nên quá trình đô thị hóa diễn ra rất nhanh ở các địa phương
trên cả nước ta. Các dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ
tầng…. khiến Nhà nước phải tiến hành thu hồi một diện tích đất lớn trong đó có đất
nông nghiệp trồng lúa để giải phóng mặt bằng phục vụ các dự án đầu tư.
Việc thu hồi đất đã đem lại những kết quả tích cực trong yêu cầu phát triển
cơ sở hạ tầng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động từ
ngành nghề nông, lâm nghiệp sang ngành công nghiệp, dịch vụ; các dự án thu hồi
đất để xây dựng các công trình an sinh xã hội cũng góp phần đảm bảo hơn nữa đời
sống của nhân dân. Nhà nước, người sử dụng đất và các nhà đầu tư cũng tìm được
“tiếng nói” đồng thuận. Bởi lẽ, người bị thu hồi đất chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ
việc thu hồi đất nông nghiệp, họ là người bị mất đất sản xuất nông nghiệp, mất tư

liệu sản xuất, trở thành người thất nghiệp và đời sống gia đình rơi vào hoàn cảnh
khó khăn. Hơn nữa, thu hồi đất nông nghiệp còn đặt ra thách thức mà xã hội phải
giải quyết; đó là việc giảm sút diện tích đất nông nghiệp sẽ ảnh hưởng lớn đến an
ninh lương thực quốc gia, làm giảm sản lượng gạo xuất khẩu hàng năm… Mặc dù
các ngành, các cấp đã có nhiều cố gắng tuy nhiên cả chính sách và tổ chức thực hiện
việc đền bù thiệt hại vẫn còn nhiều tồn tại: hiện tượng khiếu kiện kéo dài, một số
nơi chậm triển khai hoặc triển khai chưa phù hợp với chính sách, hồ sơ quản lý đất
đai chưa đầy đủ, nhiều địa phương phải điều chỉnh lại quy hoạch, sửa đổi thiết kế
dự án, chờ đợi do không giải phóng được mặt bằng hoặc do cơ sở hạ tầng không
đảm bảo. Hậu quả là làm ảnh hưởng tiến độ, gây thiệt hại lớn về kinh tế của các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng đất và Nhà nước, làm mất ổn định
tình hình chính trị - xã hội ở các địa phương.

9


Huyện Khoái Châu nằm phía Tây của tỉnh Hưng Yên, toàn huyện có 25 đơn
vị hành chính (gồm 24 xã và 01 thị trấn) với tổng dân số tính đến năm 2017 của
huyện là 208.376 người tăng 2.993 người so với năm 2016 và tổng diện tích đất tự
nhiên của toàn huyện tính đến năm 2017 là 13.097,59 ha. Đồng đất Khoái Châu
thích hợp trồng cây lúa, trồng rau màu, cây công nghiệp, cây ăn quả. Theo Quyết
định số 3276/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hưng Yên về Phê duyệt kế hoạch sử dụng
đất năm 2018 của huyện Khoái Châu thì huyện có diện tích đất đất nông nghiệp là
8.508,08 ha; trong đó diện tích đất trồng lúa là 2.126,49 ha (chiếm trên 24% diện
tích đất nông nghiệp). Cũng theo Quyết định này thì diện tích đất trồng lúa thu hồi
năm 2018 là 308,71 ha để tiến hành các quy hoạch phát triển kinh tế của huyện.
Trong quá trình triển khai thu hồi đất trồng lúa của người dân cũng xảy ra khá nhiều
tranh chấp như vụ việc Dự án Chợ và hạ tầng kỹ thuật khu nhà ở thương mại ở Dân
Tiến… Khi bồi thường giải phóng mặt bằng không thỏa đáng khiến người dân
khiếu kiện kéo dài, vượt cấp…

Từ những cơ sở lí luận và thực tiễn như vậy nên tác giả chọn đề tài “Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa từ thực tiễn huyện Khoái
Châu, tỉnh Hưng Yên” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong nhiều chuyên đề nghiên cứu, bài báo khoa học, công trình nghiên cứu
khoa học khác đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến các nội dung liên quan đến
vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất hoặc giải phóng mặt bằng. PGS. TS
Doãn Hồng Nhung (chủ biên) (2013), với sách chuyên khảo “Pháp luật về định giá
đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam”; Cuốn sách “Cơ chế Nhà
nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam; Cuốn “Đổi mới
chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa ở Việt Nam” của Nguyễn Quốc Hùng - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
năm 2006. “Phương pháp tiếp cận, định giá và giải quyết khiếu nại của người dân”
của Ngân hàng Thế giới, Hà Nội, 2011. Những công trình nghiên cứu của các tác

10


giả này chủ yếu tập trung vào vấn đề pháp luật định giá đất khi bồi thường giải
phóng mặt bằng hoặc cơ chế thu hồi đất hoặc yêu cầu về đổi mới chính sách chuyển
đổi mục đích sử dụng đất đai ở Việt Nam.
Đỗ Xuân Cảnh (2016), “Pháp luật bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi
đất từ thực tiễn thực hiện tại Huyện Mường La, Tỉnh Sơn La”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội. Luận văn tìm hiểu và đánh giá việc thực hiện
chính sách bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi để phục vụ cho mục đích quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Qua đó,
luận văn rút ra những ưu điểm và những vấn đề còn tồn, vướng mắc trong việc thực
hiện chính sách bồi thường về đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Mường La,
tỉnh Sơn La và đề xuất ý kiến, góp phần hoàn thiện pháp luật và đẩy mạnh công tác
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Đinh Thiết Dũng (2017), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
từ thực tiễn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Đại
học Mở Hà Nội. Luận văn có mục đích đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Trong báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2011) về Phương pháp
tiếp cận, định giá và giải quyết khiếu nại của người dân, các nhà khoa học đã xác
định được các phương pháp tiếp cận, định giá cũng như giải quyết khiếu nại tố cáo
của người dân trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị về chính sách cho Chính
phủ Việt Nam.
Hay Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Ngọc Minh (2010), “Pháp luật về bồi
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và Trung Quốc –
Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học số 10/2010. Trong bài báo này, hai tác
giả đã có những nghiên cứu về pháp luật bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ở hai quốc gia Singapore và Trung Quốc. Đó là những quốc gia Châu Á có

11


những nét tương đồng nhất định với Việt Nam, từ đó gọi mở một số giải pháp để
hoàn thiện pháp luật về bồi thường và tái định cư khi Nhà nước tiến hành thu hồi
đất ở nước ta.
Tiến sĩ Phạm Thị Thu Thủy (2014) với luận án Pháp luật về bồi thường đất
nông nghiệp ở Việt Nam đã nghiên cứu khá tổng quát về pháp luật bồi thường đất
nông nghiệp ở Việt Nam về lý luận và thực trạng pháp luật. Trên cơ sở đó, tác giả
đã có những phân tích sâu sắc về thực trạng pháp luật bồi thường đất nông nghiệp ở
Việt Nam và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này để
hạn chế được những bất cập, khó khăn khi tiến hành thực hiện pháp luật về bồi
thường đất nông nghiệp.

Đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng là tài sản vô cùng quý
báu của người nông dân Việt Nam với truyền thống lâu đời trồng lúa nước. Không
còn đất có nghĩa là kế sinh nhai cũng mất, chính vì vậy, nghiên cứu về đất nông
nghiệp nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
cũng đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy vậy, đề tài của tác giả tập trung vào
nghiên cứu vấn đề pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa từ
thực tiễn tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên là không trùng lặp với các công
trình nghiên cứu đã công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung vào các mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa
- Trình bày, phân tích và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa qua thực tiễn áp dụng tại huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất trồng lúa và nâng cao hiệu quả thực hiện tại huyện Khoái Châu về
vấn đề này trong thời gian tới.

12


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa từ thực tiễn tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các quy định của pháp luật về quy định
của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa từ thực tiễn tại

huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Phạm vi về không gian: Huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2013 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác –Lênin
để thực hiện mục tiêu nghiên cứu. Phương pháp duy vật biện chứng giúp
cho tác giả có góc nhìn các sự vật hiện tượng được phản ánh một cách lôgic, khoa
học và trong những mối liên hệ của sự vật, hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng
khác để từ đó có thể rút ra những kết luận mang tính khoa học.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu các lịch sử của các
quy định của pháp luật về đất đai nói chung và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
trồng lúa qua thực tiễn thi hành tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng số liệu thống kê của các cơ quan
có liên quan (cơ quan thống kê, phòng Tài nguyên môi trường, Sở Tài nguyên môi
trường, TAND, UBND huyện Khoái Châu…) công bố về việc thực hiện pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng

13


Yên để từ đó rút ra những đánh giá về vấn đề thực hiện pháp luật nhằm hoàn thiện
quy định pháp luật trong công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa.
- Phương pháp chuyên gia: Nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn trực
tiếp các chuyên gia các nhà khoa học, các nhà quản lý để tham khảo các ý kiến
chuyên môn về pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ở huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
- Phương pháp thống kê: Xử lý số liệu thu thập được bằng phương pháp này,
đồng thời để tài tổng hợp được những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên

nhân.
- Phương pháp phân tích: Phân tích số liệu thu được từ đó đánh giá được
pháp luật về thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ở
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
- Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh số liệu thực
tiễn qua các mốc thời gian đồng thời so sánh quy định pháp luật về thực hiện pháp
luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa qua các thời kỳ và rút ra các kết
luận, nhận định phù hợp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài tập trung làm rõ những quy định của pháp luật bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất trồng lúa theo quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, phản
ánh, phân tích và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất trồng lúa ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên từ khi thực hiện Luật đất
đai năm 2013 đến nay. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về vấn đề này ở huyện Khoái Châu trong thời gian tới.
Về khoa học, đề tài giúp các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, những người
khác có quan tâm đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đặc biệt là

14


đất trồng lúa. Đề tài tìm hiểu, hệ thống hóa và phân tích các quy định pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể mang tính chất tham khảo
cho các nhà lập pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất, là cơ sở cho các nhà quản lý, những người bị thu hồi đất trồng lúa của
huyện Khoái Châu nói riêng và tỉnh Hưng Yên nói chung áp dụng pháp luật một
cách hiệu quả.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học

viên nghiên cứu về lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của
luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1. Lý luận về đất trồng lúa và pháp luật về bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất trồng lúa
Chương 2. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
trồng lúa và thực tiễn áp dụng tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất trồng lúa và nâng cao hiệu quả thực thi tại huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên

15


Chương 1.
LÝ LUẬN VỀ ĐẤT TRỒNG LÚA VÀ PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TRỒNG LÚA
1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của đất trồng lúa
1.1.1.1. Khái niệm đất trồng lúa
Việt Nam đến nay cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp. Nông nghiệp, nông
thôn và nông dân Việt Nam hiện vẫn đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh
tế đất nước. Từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đến nay nước ta đã
chuyển đổi cơ chế kinh tế với những thành tựu về kinh tế đáng kể như tốc độ tăng
trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người… Nhưng đồng nghĩa với vấn đề kinh
tế phát triển thì Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh, sức ép
của quá trình đô thị hóa và sự gia tăng dân số khiến đất nông nghiệp nước ta bị suy
giảm đáng kể. Con người đang khai thác quá mức mà chưa có biện pháp bồi đắp

nguồn tài nguyên quý giá này. Đối với người nông dân thì đất đai là tài sản vô cùng
quý báu, nhất là với một quốc gia nông nghiệp như nước ta thì hiểu về đất nông
nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng chính là góp phần phát triển nền nông
nghiệp và toàn bộ nền kinh tế nước ta phát triển bền vững.
Đất trồng lúa là ruộng, nương, rẫy trồng lúa từ một vụ trở lên hoặc trồng lúa
kết hợp với sử sụng vào các mục đích khác được pháp luật cho phép nhưng trồng
lúa là chính; bao gồm đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại, đất
trồng lúa nương [1].
Đất chuyên trồng lúa nước là ruộng lúa nước cấy trồng từ hai vụ lúa mỗi năm
trở lên kể cả trường hợp luân canh với cây hàng năm khác, có khó khăn đột xuất mà
chỉ trồng cấy được một vụ hoặc phải bỏ hóa không quá một năm. Đất trồng lúa

16


nước còn lại là ruộng lúa nước không phải chuyên trồng lúa nước. Đất trồng lúa
nương là đất nương, rẫy để trồng từ một vụ lúa trở lên.
Theo quy định của Nghị định 35/2014/NĐ-CP về quản lý sử dụng đất trồng
lúa thì: “Đất trồng lúa là đất có các điều kiện phù hợp để trồng lúa, bao gồm đất
chuyên trồng lúa nước và đất trồng lúa khác. Đất chuyên trồng lúa nước là đất trồng
được hai vụ lúa nước trở lên trong năm. Đất trồng lúa khác bao gồm đất trồng lúa
nước còn lại và đất trồng lúa nương. Đất trồng lúa nước còn lại là đất chỉ phù hợp
trồng được một vụ lúa nước trong năm” (Khoản 1,2,3,4 Điều 3). Theo đó, đất trồng
lúa ở đây là đất dùng để trồng lúa, bao gồm: Đất chuyên trồng lúa nước và đất trồng
lúa khác. Các loại đất trồng lúa này được phân biệt dựa vào số vụ lúa một năm được
canh tác trên đó. Quan điểm xác định đất trồng lúa này cho thấy, Luật xác định đất
trồng lúa trên cơ sở mục đích sử dụng đất. Diện tích lúa cả năm 2017 ước tính đạt
7,72 triệu ha, giảm 26,1 nghìn ha so với năm 2016. Diện tích lúa cả năm 2018 ước
tính đạt 7,57 triệu ha, giảm 134,8 nghìn ha so với năm trước; năng suất lúa ước tính
đạt 58,1 tạ/ha, tăng 2,6 tạ/ha. Mặc dù diện tích lúa giảm nhưng năng suất tăng cao

nên sản lượng lúa cả năm 2018 ước tính đạt 43,98 triệu tấn, tăng 1,24 triệu tấn so
với năm 2017 [29]. Như vậy, ở nước ta đang có quá trình chuyển dịch mục đích sử
dụng đất cho một số diện tích đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình đô thị hóa, dự
án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế và thay đổi do nhu cầu của người
sử dụng đất.
1.1.1.2. Đặc điểm của đất trồng lúa
Ngoài những đặc điểm chung của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói
riêng, như đó là tài sản không do con người tạo ra, có tính cố định và không thể di
dời,… Đất nông nghiệp là loại đất mà giá trị sử dụng phụ thuộc chủ yếu vào chất
lượng đất đai, độ màu mỡ phì nhiêu của đất. Giá trị của đất đô thị, đất ở hay một số
loại đất chuyên dùng khác phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như vị trí địa lý của
khu đất đó, khả năng sinh lợi, mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng, hướng,
hình thể, kích thước, diện tích v.v. Đối với đất nông nghiệp, do sử dụng làm tư liệu

17


sản xuất, nên giá trị của loại đất này lại phụ thuộc vào các yếu tố nông, hóa, thổ
nhưỡng như độ phì nhiêu, tầng dày của lớp đất mặt, độ dốc, độ PH (độ chua) v.v..
Độ phì hay độ màu mỡ là một thuộc tính tự nhiên của đất nông nghiệp và là yếu tố
quyết định chất lượng của đất. Đây là một đặc trưng của đất nông nghiệp, thể hiện
khả năng cung cấp thức ăn, nước cho cây trồng trong quá trình phát triển. Đặc điểm
này của đất nông nghiệp đã minh chứng rõ vì sao trong các quy định của pháp luật
hiện hành về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về các trường hợp thu hồi đất, về
chuyển mục đích sử dụng đất v.v. thì đối với loại đất nông nghiệp có giá trị cao, đặc
biệt là đất trồng lúa nước - loại đất mà nguồn sống và thu nhập của gần 70% dân số
trông chờ vào đó, được Nhà nước quy định hết sức nghiêm ngặt, với chủ trương hạn
chế thu hồi để đảm bảo đời sống cho họ và cao hơn là vì sự an toàn lương thực của
quốc gia.
Đất trồng lúa có những đặc điểm chính sau:

Thứ nhất, đất trồng lúa là tư liệu sản xuất trực tiếp và không thể thay thế
trong hoạt động nông nghiệp trồng lúa của nước ta. Đất trồng lúa có những yêu cầu
riêng về độ phì, về tính chất lý hóa của đất phù hợp với cây lúa. Do vậy, đất trồng
lúa được chia thành đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại và đất
trồng lúa nương. Đất trồng lúa thường canh tác tác lúa một năm hai vụ lúa trở lên
theo vụ lúa ở từng vùng, như ở Đồng bằng sông Cửu Long có ba vụ lúa chính gồm
vụ mùa thường gieo trồng vào đầu mùa mưa (tháng 5, tháng 6) và thu hoạch vào
cuối mùa mưa (tháng 11); Vụ đông xuân, thời điểm gieo trồng vụ đông xuân là sau
khi vụ mùa kết thúc, thường vào cuối mùa mưa (tháng 11, tháng 12) và thu hoạch
vào đầu tháng 4; Vụ hè thu bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 8.
Đây là điểm khác biệt với các loại đất khác như đất trồng cây hàng năm khác,
đất trồng các cây hàng năm không phải là trồng lúa, như các loại cây rau, màu; kể
cả cây dược liệu, mía, đay, gai, cói, sả, dâu tằm và đất trồng cỏ hoặc cỏ tự nhiên có
cải tạo để chăn nuôi gia súc. Đất trồng cây hàng năm khác bao gồm đất bằng trồng
cây hàng năm khác và đất nương rẫy trồng cây hàng năm khác. Đất trồng các loại

18


cây hàng năm thường không chia vụ như đất trồng lúa mà vào thời điểm trồng loại
cây hàng năm thì người dân tiến hành trồng và kết thúc thời gian sinh trưởng của
loại cây đó thì người nông dân thu hoạch. Hơn nữa, các loại đất nông nghiệp khác
khá phong phú về mục đích sử dụng có loại đất được sử dụng cho mục đích sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp, có loại đất được sử dụng không vì mục đích kinh
doanh nhưng nó là địa bàn, nền tảng để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp; có loại đất
được sử dụng cho mục đích ngắn hạn hoặc trồng các loại cây hàng năm, có loại đất
được sử dụng cho mục đích dài hạn và trồng các loại cây lâu năm. Tuy nhiên, trong
thực tế khai thác và sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, có những loại
đất mà khởi nguồn chúng được sử dụng cho mục đích chính là sản xuất nông nghiệp
như: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng các loại cây ăn quả hay các

loại cây lâu năm, song do nhu cầu tự thân của mỗi chủ thể muốn thay đổi mục đích
sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hoặc trong nhiều trường hợp vì lợi
ích của những loại đất sử dụng cho mục đích khác có giá trị cao hơn so với đất nông
nghiệp mà họ đang sử dụng nên các chủ thể đã tự ý thay đổi mục đích so với ban
đầu - và chúng trở thành đất phi nông nghiệp. Sự thay đổi mục đích này có thể Nhà
nước kiểm soát được và cho phép, song cũng có trường hợp Nhà nước không kiểm
soát được. Trong trường hợp này, mục đích sử dụng đất trong hồ sơ, giấy tờ là đất
nông nghiệp, song trên thực tế họ lại sử dụng cho mục đích phi nông nghiệp như: sử
dụng đất vườn ao để làm nhà ở, sử dụng đất nông nghiệp tiếp giáp với trục giao
thông để làm địa điểm kinh doanh phi nông nghiệp, chuyển từ loại đất trồng cây
hàng năm sang loại đất trồng cây lâu năm...
Thứ hai, diện tích đất trồng lúa có hạn và đang bị thu hẹp bởi quá trình đô thị
hóa, công nghiệp hóa hiện đại hóa của quốc gia. Theo Niên giám thống kê năm
2018 của Việt Nam thì diện tích lúa cả năm 2017 ước tính đạt 7,72 triệu ha, giảm
26,1 nghìn ha so với năm 2016. Diện tích lúa cả năm 2018 ước tính đạt 7,57 triệu ha,
giảm 134,8 nghìn ha so với năm trước; năng suất lúa ước tính đạt 58,1 tạ/ha, tăng
2,6 tạ/ha. Như vậy, vấn đề đặt ra đối với diện tích đất trồng lúa ở nước ta đang bị
thu hẹp thì cần có biện pháp cải thiện năng suất lúa bởi đây là loại nông sản xuất

19


khẩu chủ lực của nước ta cũng như nếu sản lượng giảm theo diện tích thì sẽ đe dọa
đến an ninh lương thực của quốc gia.
Thứ ba, điều kiện nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng
đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp của
đất trồng lúa được quy định tại khoản 3 Điều 193 Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể,
người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích phi nông
nghiệp từ đất chuyên trồng lúa nước phải nộp một khoản tiền để thực hiện việc khai
hoang, cải tạo đất; đầu tư cơ sở hạ tầng của địa phương (Điều 45 Nghị định số

45/2013/QH13). Tùy theo điều kiện cụ thể tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định mức nộp cụ thể nhưng không thấp hơn 50% số tiền được xác định
theo diện tích đất chuyên trồng lúa nước phải chuyển sang đất phi nông nghiệp nhân
với giá của loại đất trồng lúa tính theo Bảng giá đất tại thời điểm chuyển mục đích
sử dụng đất. Người được nhà nước giao đất, cho thuê đất lập bản kê khai số tiền
phải nộp, tương ứng với diện tích đất chuyên trồng lúa nước được nhà nước giao,
cho thuê và nộp vào ngân sách cấp tỉnh theo quy định.
Với những trường hợp này, việc nghiên cứu đặc điểm của đất nông nghiệp là
loại đất được sử dụng cho mục đích "chủ yếu" là sản xuất nông nghiệp sẽ có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc xác định loại đất được bồi thường và mức bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Điều này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc
ngăn ngừa các sai phạm của người có đất bị thu hồi, cố tình kê khai gian dối loại đất
có giá trị cao hơn, để được bồi thường nhiều hơn khi Nhà nước thu hồi đất. Để làm
tốt điều này, bên cạnh việc quản lí và theo dõi sát sao tình hình biến động đất đai tại
địa phương mình, các cơ quan quản lí đất đai cần phải nắm rõ mục đích sử dụng đất
chủ yếu, là đất được sử dụng cho một mục đích chính có thời hạn dài nhất, trong
quá trình kể từ khi sử dụng cho đến thời điểm Nhà nước có thông báo thu hồi đất.
Có như vậy, việc xác định bồi thường và mức bồi thường mới được chính xác. Với
những phân tích trên đây, có thể thấy đất nông nghiệp là loại đất khá đặc thù trong
vốn đất quốc gia, đặc biệt đối với một đất nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp
như ở Việt Nam. Chính những đặc điểm riêng có của đất nông nghiệp đã chi phối,

20


ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách, pháp luật của Nhà nước về bồi thường khi
thu hồi đất. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi đất
nông nghiệp chuyển sang mục đích phi nông nghiệp là cần thiết nhưng không có
nghĩa là phát triển công nghiệp bằng mọi giá mà không tính đến sự phát triển bền
vững của đất nước.

Vì vậy, pháp luật đất đai cần có sự kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông
nghiệp, nhất là đất trồng lúa, đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác, nhằm
đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái và đặc
biệt là quyền lợi chính đáng của người dân. Chính vì vậy, khi thu hồi đất nông
nghiệp, việc bồi thường không đơn giản là việc trả lại giá trị quyền sử dụng đất bị
thu hồi mà cần phải tính đến những tác động sâu sắc của việc thu hồi đất gây ra cho
người nông dân như mất việc làm, mất kế sinh nhai, bất ổn định đời sống và sản
xuất. Từ đó đặt ra vấn đề, song song với bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp,
Nhà nước cần phải có kế sách an dân, chú trọng thực hiện chính sách hỗ trợ để ổn
định đời sống, ổn định.
1.1.2. Vai trò của đất trồng lúa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
Trong nền kinh tế quốc dân vai trò của ngành nông nghiệp vô cùng quan
trong. Ngành nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp.
Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ
thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh
học – cây trồng, vật nuôi. Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
năm 2018, Việt Nam xuất khẩu 6,1 triệu tấn lúa gạo, trị giá 3,06 tỷ USD, tăng 5,1%
về lượng và 16,3% về giá trị so với năm 2017. Song song đó, Việt Nam cũng đứng
thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Đất trồng lúa đóng vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển của ngành nông nghiệp.
Đất trồng lúa là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế được
đối với hoạt động nông nghiệp. Đất trồng lúa đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại
và phát triển của nông nghiệp trồng lúa nước. Với sinh vật, đất đai không chỉ là môi

21


trường sống mà còn là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Năng suất cây
trồng, vật nuôi phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đất đai. Trên phương diện này,
đất trồng lúa sẽ phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Việc quản lý và sử

dụng tốt đất trồng lúa sẽ góp phần làm tăng thu nhập cho người nông dân, tạo ra sản
lượng lúa lớn góp phần cho hoạt động xuất khẩu lúa gạo mà Việt Nam đang có lợi
thế so sánh, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội. Chính sách và quy hoạch về đất
trồng lúa đúng đắn có tác dụng quyết định đến sự thành công của các chính sách
kinh tế khác. Từ đó, người sử dụng đất trồng lúa cần phải bảo vệ đất đai và quản lý
đất đai theo đúng luật, còn Nhà nước thì xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến
lược sử dụng, quản lý đất trồng lúa chính xác, khoa học.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa
1.1.3.1. Khái niệm về bồi thường của Nhà nước khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa
Trong đời sống hàng ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách
nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Theo Từ điển
tiếng Việt thông dụng, “Bồi thường” là “Đền bù những tổn hại gây ra” [32]. Trong
lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ thể có hành vi
vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm này xuất
hiện trong nhiều ngành luật như: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong lĩnh vực dân sự; trách nhiệm bồi thường oan, sai do hành vi của các cơ quan
tố tụng gây ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự; trách nhiệm vật chất do hành vi của
người lao động gây ra trong lĩnh vực pháp luật lao động… Đối với lĩnh vực Luật đất
đai nói riêng, thuật ngữ “bồi thường” khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra từ rất
sớm.
Khi đề cập đến thuật ngữ “đền bù” thiệt hại người ta hay nghĩ đến việc đền
bù 100% giá trị của mảnh đất bị thu hồi. Trong khi đó, thuật ngữ “bồi thường”
lại cho thấy rằng Nhà nước chỉ bồi thường những giá trị, thiệt hại hợp lý về đất và
tài sản trên đất cho người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất. Mặt khác, nội

22


hàm của thuật ngữ “đền bù” chỉ là việc Nhà nước đền bù thiệt hại do hành vi thu hồi

đất gây ra cho người sử dụng đất mà không đi liền sau đó việc thực hiện các chính
sách hỗ trợ, tái định cư. Do đó, khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất
đai năm 2001 được Quốc hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại
và tiếp tục xuất hiện trong Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản đi kèm. Tiếp tục
kế thừa Luật Đất đai 2003, thuật ngữ “bồi thường” cũng được sử dụng tại các văn
bản luật đất đai hiện hành: Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP
ngày 15/05/2014 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Đất đai; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định về giá đất,
Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/06/2014 Quy định chi tiết về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…
Theo quy định tại Khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 có giải thích về
thuật ngữ “bồi thường” như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. Như
vậy, song song với việc thu hồi đất, Nhà nước tiến hành bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư cho người sử dụng đất bị thu hồi. Việc bồi thường được nhà nước tiến hành
trên cơ sở trả lại giá trị quyền sử dụng đất được tính bằng tiền đối với diện tích đất
thực tế bị thu hồi. Trong luật không quy định cụ thể về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất trồng lúa nhưng ta có thể hiểu rằng, Bồi thường về đất trồng lúa là việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất trồng lúa đối với diện tích đất đã thu hồi cho
người sử dụng đất trồng lúa.
Từ khái niệm trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất trồng lúa như sau:
- Vấn đề bồi thường đất trồng lúa là trách nhiệm nhà nước. Loại trách nhiệm
này chỉ đặt ra khi nhà nước có hành vi thu hồi đất trồng lúa. Nói cách khác, bồi
thường về đất này là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất trồng lúa.

23



- Bồi thường nhằm bù đắp tổn thất xảy ra đối với quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng đất trồng lúa khi họ bị thu hồi đất. Trách nhiệm bồi thường được
quy định trong Luật đất đai và văn bản hướng dẫn thi hành.
- Căn cứ xác định bồi thường là diện tích đất trồng lúa thực tế bị thu hồi,
thiệt hại thực tế về cây lúa hoặc cây trồng đang được trồng trên diện tích đất trồng
lúa bị thu hồi và khung giá đất do nhà nước quy định tại thời điểm thu hồi đất trồng
lúa.
- Vấn đề bồi thường chỉ phát sinh trực tiếp sau khi có hành vi thu hồi đất
trồng lúa của nhà nước, nên phải có quyết định hành chính về thu hồi đất trồng lúa
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì nhà nước mới tiến hành các biện pháp bồi
thường. Người sử dụng đất trồng lúa ngoài được bồi thường các giá trị quyền sử
dụng đất trồng lúa, thiệt hại về cây trồng còn được hỗ trợ các biện pháp khác như hỗ
trợ ổn định đời sống, sản xuất; hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm…
- Người sử dụng đất trồng lúa khi bị nhà nước thu hồi đất trồng lúa muốn
được bồi thường phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định.
Tóm lại, bồi thường đất trồng lúa có những điểm khác biệt so với bồi thường
các loại đất khác bởi khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa thì Nhà nước phải có quy
hoạch rõ ràng và hạn chế việc thu hồi đất trồng lúa bởi đất trồng lúa là một loại đất
vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động sống của
người dân cũng như có vai trò quan trọng đối với an ninh lương thực của một quốc
gia ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Khi có quy hoạch được ban
hành theo quy định của pháp luật thì Nhà nước phải bồi thường cho người sử dụng
đất trồng lúa bị thu hồi đất những khoản: bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất
còn lại. Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong hạn
mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật Đất đai năm 2013 và diện tích
đất do được nhận thừa kế; Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định
tại Điều 129 của Luật Đất đai năm 2013 thì không được bồi thường về đất nhưng
được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại; Đối với diện tích đất nông nghiệp do

24



nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn mức trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có
hiệu lực thi hành thì việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định của
Chính phủ.
1.1.4. Sự cần thiết của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn gốc của mọi ngành
sản xuất và mọi sự tồn tại, kết tinh trong đó là sức lao động của con người. Từ xưa,
nhân dân ta đã có câu “Tấc đất, tấc vàng”. Nhất là đất trồng lúa vì nước ta là nước
nông nghiệp lúa nước. Vì vậy, việc quản lý, bảo vệ tốt tài nguyên đất đai nói chung
và đất trồng lúa nói riêng là mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia, mọi thời đại nhằm
bảo vệ quyền sở hữu về đất đai của quốc gia.
Đất trồng lúa có tầm quan trọng như vậy nên Nhà nước phải quản lý đất để
đảm bảo sử dụng đất trồng lúa có hiệu quả nhất, phát huy vai trò của đất đối với sự
phát triển kinh tế, đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người cũng
như toàn thể xã hội. Thông qua việc xác lập cơ chế thu hồi đất trồng lúa, các chính
sách bồi thường, hỗ trợ, Nhà nước thực hiện việc quản lý đất đai để điều chỉnh các
quan hệ đất đai thông qua việc tác động, điều tiết lợi ích kinh tế của các bên.
Khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất theo mục đích an ninh – quốc phòng,
phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng, điều này sẽ có sự thay đổi
lớn trong quyền sử dụng đất giữa chủ sở hữu cũ – mới, những lợi ích được hưởng
trên đất của động kinh doanh, sản xuất của họ bị xáo trộn. Chính vì tính “nhạy cảm”
trong vấn đề thu hồi đất có thể thấy rằng, nếu không có cơ chế pháp luật hợp lý, giải
quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước và người dân thì sẽ gây ra sự
bất bình, bức xúc cho người dân, đồng thời cũng khiến cho những dự án của nhà
nước sẽ không thể tiến hành được. Việc bồi thường, hỗ trợ sẽ không tuân theo trình
tự nào cả, thiếu tính công bằng, công khai và minh bạch. Do đó dẫn đến việc xảy ra
mâu thuẫn giữa đại bộ phận dân chúng với các cơ quan chính quyền là điều không
thể tránh khỏi.


25


×