Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn thành phố nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.55 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
NAM ĐỊNH

PHẠM NGỌC CHANH

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
NAM ĐỊNH

PHẠM NGỌC CHANH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI – 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Cưỡng chế thi hành án kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn thành phố Nam Định ” là công trình nghiên cứu
của riêng tác giả dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Anh Tuấn. Số liệu
và kết quả nghiên cứu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, không trùng lặp với
các đề tài nghiên cứu khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày
trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Ngọc Chanh


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa đào tạo Sau Đại học –
Trường Đại học mở Hà Nội đã tận tình truyền thụ kiến thức cho em trong thời gian
vừa qua. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Anh Tuấn đã hướng dẫn tận tình
để em hoàn thành luận văn với đề tài "Cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương
mại từ thực tiễn thành phố Nam Định". Em xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng
nghiệp đã cung cấp số liệu, giúp đỡ để em có thể phản ánh chính xác thực tiễn
cưỡng chế thi hành các bản án kinh doanh, thương mại trên địa bàn Thành phố Nam

Định.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Ngọc Chanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI ...........................................................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương
mại ...............................................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại ...............................7
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại .....11
1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại ........13
1.2. Các quy định về cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại ......................13
1.2.1. Kê biên xử lý tài sản ........................................................................................13
1.2.2. Các quy định về cưỡng chế trả vật, giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất trong
thi hành án kinh doanh, thương mại .........................................................................16
1.2.3. Xử lý tài sản kê biên ........................................................................................25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..........................................................................................39
CHƯƠNG 2 ..............................................................................................................35

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH………………35
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội cơ cấu tổ chức bộ máy Cơ quan thi hành án
dân sự thành phố Nam Định......................................................................................35
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Nam Định ..............................35
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định ....36
2.2. Những kết quả đạt được từ thực tiễn cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương
mại tại thành phố Nam Định .....................................................................................37
2.2.1. Kết quả thi hành án dân sự giai đoạn 2016 – 2018 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Nam Định ....................................................................................37


2.2.2. Số lượng và giá trị các vụ việc cưỡng chế tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại tại thành phố Nam Định ............................................................38
2.3. Những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn cưỡng chế thi hành án
kinh doanh, thương mại tại thành phố Nam Định .....................................................39
2.3.1. Vướng mắc xuất phát từ quy định của pháp luật ............................................40
2.3.2. Nguyên nhân của vướng mắc, bất cập ............................................................51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................56
CHƯƠNG 3 ..............................................................................................................57
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ...........................57
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh
doanh, thương mại .....................................................................................................57
3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh doanh,
thương mại ................................................................................................................61
3.2.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của người dân về các
quy định về cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại ....................................61
3.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng của Chấp hành viên về
cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại .......................................................62

3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp giữa Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và
các cơ quan, tổ chức liên quan trong cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại
...................................................................................................................................63
3.2.4. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, ngân hàng .........................64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..........................................................................................66
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHV

Chấp hành viên

KDTM

Kinh doanh thương mại

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

TAND

Tòa án nhân dân


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay, các hoạt động
kinh doanh thương mại (KDTM) diễn ra ngày càng đa dạng và phát triển. Tuy
nhiên, các tranh chấp nảy sinh trong các hoạt động này cũng đòi hỏi phải được Tòa
án giải quyết nhanh chóng và được Cơ quant hi hành án dân sự tổ chức thi hành một
cách hiệu quả. Hoạt động thi hành án kinh doanh thương mại (THAKDTM) là giai
đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng nhằm đưa bản án, quyết định về kinh doanh,
thương mại đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật
và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và Nhà nước. Vấn đề này đã được khẳng định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013,
theo đó “Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật được các
cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành”.
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thi hành án dân sự nói chung và án kinh doanh,
thương mại nói riêng, năm 2008, Nhà nước ta đã ban hành Luật Thi hành án dân sự
(THADS), được sửa đổi, bổ sung năm 2014, đồng thời ban hành các văn bản quy
phạm hướng dẫn, cụ thể hóa các quy định của Luật này vào cuộc sống. Tuy nhiên,
thực tiễn cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại cho thấy, một số quy định
về cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại cũng còn có những hạn chế nhất
định, dẫn tới những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, ảnh hưởng tới
hiệu quả cưỡng chế thi hành án. Sự không hợp tác, thậm chí là chống đối từ phía
các chủ thể liên quan, mà đặc biệt là người phải thi hành án (THA) dẫn tới hoạt

động cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại có nhiều khó khăn, thiếu hiệu
quả và tồn đọng án. Sự chủ quan, thiếu linh hoạt và cẩn trọng của cán bộ làm công
tác thi hành án có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của đương sự không được bảo
1


đảm thực hiện, dẫn tới việc khiếu nại, tố cáo, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả
THADS và làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, gây tâm lý cũng
như dư luận tiêu cực trong xã hội.
Vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án kinh doanh,
thương mại (THAKDTM) thì việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp
luật về cưỡng chế nói chung và cưỡng chế THAKDTM nói riêng là cần thiết. Với
những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Cưỡng chế thi hành án kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn thành phố Nam Định” làm Luận văn tốt nghiệp.
Việc nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản, thực trạng pháp luật
hiện hành về cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại, từ đó đề xuất những
giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án kinh doanh,
thương mại trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Luật THADS năm 2008 ra đời và được sửa đổi, bổ sung năm 2014
đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về biện pháp cưỡng chế
THADS nói chung và biên pháp cưỡng chế THAKDTM nói riêng như: “Cưỡng chế
THADS, những vấn đề lý luận và thực tiễn” khóa luận tốt nghiệp của tác giả Dương
Thu Hương – Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài
sản trong THADS” luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thanh Phong - Học
viện khoa học xã hội, năm 2011; “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trong THADS Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” khóa luận tốt nghiệp của tác giả Trương Minh
Anh – Đại Học Luật Hà Nội, năm 2012.v.v...
Ngoài ra, cũng đã có một số bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành về biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải THA như “Một
số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS” - Nguyễn Doãn

Phương - Tạp chí dân chủ và pháp luật, 2018; “Áp dụng điều luật nào trong kê biên,
xử lý tài sản của người phải THA trong khối tài sản chung với người khác để
THA”- Phạm Công Ý – Tạp chí dân chủ và pháp luật số Chuyên đề tháng 9/2017;
2


“Bán đấu giá tài sản trong THADS vẫn còn là điểm nghẽn”- Nguyễn Quang Thái
và Đào Thị Thúy Lan – Tạp chí dân chủ và pháp luật số tháng 4/2017; “Thực trạng
và các giải pháp nâng cao hiệu quả việc bán đấu giá tài sản THA” – Lê Anh Tuấn
và Nguyễn Thị Thanh Nhàn – Tạp chí dân chủ và pháp luật số Chuyên đề tháng
3/2016… Tuy nhiên, các bài viết nói trên mới chỉ phân tích, bình luận trên những
khía cạnh nhất định của biện pháp cưỡng chế THADS mà chưa đi sâu nghiên cứu
về biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại.
Với những phân tích trên cho thấy việc tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu
những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện biện pháp cưỡng
chế THAKDTM theo Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014, từ đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương
mại và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh,
thương mại trong thực tiễn là cần thiết, có cả ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu nhằm làm rõ bản chất, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp
cưỡng chế THAKDTM cũng như thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành
về các biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại. Bên cạnh đó, tác
giả còn nghiên cứu việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THAKDTM từ thực tiễn trên
địa bàn thành phố Nam Định nhằm chỉ rõ những kết quả đã đạt được cũng như
những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện. Từ đó, đề xuất
những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả cưỡng
chế thi hành án kinh doanh, thương mại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận về biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài
sản THADS, cụ thể hơn là những vấn đề chung về biện pháp cưỡng chế tài sản của
người phải thi hành án trong vụ án KDTM.
3


Thứ hai, đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật về cưỡng chế kê biên, xử lý
tài sản trong THAKDTM và thực tiễn áp dụng tại thành phố Nam Định, từ đó đi sâu
phân tích những kết quả đã đạt được và những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế THAKDTM và làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ ba, xây dựng những quan điểm, đề xuất các giải pháp kịp thời và lâu dài
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về cưỡng chế kê biên, xử
lý tài sản trong THADS nói chung và trong THAKDTM nói riêng được chuẩn xác,
thống nhất trong hệ thống cơ quan THADS ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu thực tiễn cưỡng chế THAKDTM tại
thành phố Nam Định những năm gần đây, đặc biệt là những vụ việc nổi cộm, có
nhiều vướng mắc. Trên cơ sở đó, luận văn làm rõ những bất cập, vướng mắc trong
thực tiễn thi hành biện pháp cưỡng chế THAKDTM tại thành phố Nam Định, từ đó
đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp này trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về cưỡng chế thi hành án kinh
doanh, thương mại; lược sử phát triển của pháp luật Việt Nam về cưỡng chế thi
hành án kinh doanh, thương mại.
Nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp
cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại.
Về không gian và thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng thực hiện
thủ tục thi hành các bản án kinh doanh, thương mại trên địa bàn thành phố Nam

định trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2018.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, hệ thống các quan điểm, học thuyết Mác - Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lý thuyết hệ thống, quy nạp,
diễn dịch, logic, lịch sử.v.v…
Các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu được sử dụng kết hợp với
nhau. Đồng thời, công trình nghiên cứu cũng kế thừa, phát triển các kết quả của các
công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài nhằm làm rõ nội dung cơ
bản của đề tài, bảo đảm tính khoa học và logic giữa các vấn đề chính của công trình
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội
dung của biện pháp cưỡng chế THAKDTM và cơ sở của việc quy định biện pháp
này; trên cơ sở đó, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng các quy định hiện hành
về cưỡng chế THAKDTM, đặc biệt là những hạn chế, bất cập trong các quy định về
cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại.
Về thực tiễn: Dựa trên thực tiễn thi hành các bản án KDTM thấy được khó
khăn vướng mắc, thực trạng trong quá trình THAKDTM tại thành phố Nam Định
và đưa ra đề xuất được những kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như giải pháp cụ
thể nâng cao hiệu quả cưỡng chế THAKDTM và rút ra bài học kinh nghiệm vận
dụng những kiến nghị, giải pháp cụ thể đó vào thực tế nhằm nâng cao hiệu quả công
tác THAKDTM tại thành phố Nam Định nói riêng cũng như công tác THADS nói
chung tại các địa phương trong toàn quốc. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể

sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu đối với sinh viên và
những cán bộ làm công tác thực tiễn có liên quan đến việc thi hành án đối với các
bản án kinh doanh, thương mại.
5


7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của Luận văn được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về cưỡng chế THAKDTM.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về cưỡng chế THAKDTM trên địa
bàn thành phố Nam Định.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế THAKDTM trên địa bàn
tỉnh Nam Định.

6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI
HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành án kinh doanh,
thương mại
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
Thi hành án được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật để thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án một mặt bảo đảm việc thực hiện
quyền tư pháp của Nhà nước, mặt khác là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại các
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân khi bị xâm phạm1.
Thi hành án kinh doanh, thương mại (THAKDTM) cũng là một phần của
THADS, mang những đặc điểm, tính chất của THADS. Hiện nay, vẫn có nhiều cách

hiểu khác nhau về THADS, nhìn chung THADS là một hoạt động hành chính – tư
pháp mang tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi
hành theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định, thông qua đó bản án, quyết định,
phán quyết của cơ quan có thẩm quyền được thi hành trên thực tế.
Trong phạm vi điều chỉnh của Luật THADS số 28/2008/QH12 sửa đổi, bổ
sung năm 20142 yếu tố “kinh doanh thương mại” chưa được thể hiện rõ (ngoài đối
tượng là quyết định của trọng tài thương mại). Tuy nhiên, án KDTM là loại án có vị
trí quan trọng trong lĩnh vực THA, xuất phát từ tính chất và giá chị cần được THA.
Để xác định yếu tố “kinh doanh thương mại” cần xem xét các quy định của pháp
luật liên quan.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2017 “Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
1
2

Nganhangphapluat.thukyluat.vn, truy cập ngày 10/9/2019.
Xem thêm: Giáo trình Luật Thi hành án dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2018,tr 9,10

7


tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Ngày nay
xã hội ngày càng phát triển và hội nhập thì các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
nhuận ngày càng nhiều, các hoạt động KDTM ngày càng đa dạng và phong phú,
cũng vì vậy các tranh chấp, các vụ việc liên quan đến hoạt động kinh doanh thương
mại xảy ra nhiều hơn.
Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 20153, những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm có:(1) Tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. (2) Tranh chấp về quyền sở hữu

trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích
lợi nhuận. (3) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty. (4) Tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người
quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám
đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn
giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. (5) Các tranh
chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó Điều 31 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, những yêu cầu về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bao gồm: (1) Yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành
viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. (2) Yêu cầu liên quan đến việc
Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật
về Trọng tài thương mại. (3) Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của
pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp
bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án. (4) Yêu cầu công nhận và cho
3

Luật Tố tụng dân sự 2015, NXB Chính trị quốc gia

8


thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương
mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh,
thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. (5) Yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của
Trọng tài nước ngoài. (6) Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường

hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp
luật.
Theo Điều 1, Điều 2 và Điều 3 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi
năm 2014)4 thì các bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại được thi hành
theo thủ tục thi hành án dân sự bao gồm bản án, quyết định về kinh doanh, thương
mại thuộc thẩm quyền giải của Tòa án theo Điều 30, Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân
sự (BLTTDS) năm 2015; bản án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan
đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương
mại. Khoản 3 Điều 3 Luật THADS “người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành”. Theo đó,
người phải thi hành án kinh doanh, thương mại (KDTM) là người phải thực hiện
nghĩa vụ trong các bản án, quyết định của Tòa án về kinh doanh, thương mại hoặc
phán quyết về kinh doanh, thương mại của Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh.
Cần hiểu rằng bản án, quyết định dân sự đề cập trong Luật THADS là bao
hàm cả bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại. Do tính chất tương đồng
giữa vụ án và việc dân sự với vụ án và việc kinh doanh, thương mại nên pháp luật
THADS không tách bạch giữa pháp luật THADS với pháp luật THAKDTM. Những
quy định của pháp luật THADS cũng chính là các quy định được áp dụng đối với
THAKDTM mà không tồn tại một hệ thống pháp luật THAKDTM chuyên biệt, độc
lập so với hệ thống pháp THADS nói chung.
4

Luật Thi hành án dân sự 2014 – NXB Tư pháp

9


Như vậy, THAKDTM là hoạt động hành chính – tư pháp, do các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo
đảm thi hành phần tài sản, lợi ích của các bên trong bản án, quyết định của Tòa án
hoặc cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Theo Điều 1,
Điều 2 và Điều 3 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi năm 2014) thì các bản
án, quyết định về kinh doanh, thương mại được thi hành theo thủ tục thi hành án
dân sự bao gồm bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án theo Điều 30, Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2015; bản án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của
bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại. Có thể sử
dụng một thuật ngữ khái quát các bản án, quyết định trên là bản án, quyết định về
kinh doanh, thương mại.
Như vậy, trong trường hợp, người phải thi hành án về kinh doanh, thương
mại không tự nguyện thi hành nghĩa vụ theo bản án, quyết định về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự; bản
án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, phán quyết của Trọng tài thương mại thì Cơ
quan thi hành án dân sự phải sử dụng các biện pháp luật định buộc người phải thi
hành án phải thực hiện nghĩa vụ của họ đã được xác định trong bản án, quyết định
về kinh doanh, thương mại. Các biện pháp này được gọi là biện pháp cưỡng chế thi
hành án kinh doanh, thương mại.
Từ các phân tích trên, có thể định nghĩa biện pháp cưỡng chế thi hành án
kinh doanh, thương mại là biện pháp THADS dùng quyền lực của Nhà nước do
Chấp hành viên (CHV) hoặc Thừa phát lại (TPL) thực hiện nhằm buộc người phải
thi hành án thực hiện nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định về kinh
doanh, thương mại trong trường hợp người phải THA có điều kiện thi hành án mà
không tự nguyện THA. Các biện pháp cưỡng chế THAKDTM chủ yếu được áp
dụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án kinh doanh, thương
10



mại là thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá, khấu trừ tiền trong tài khoản, kê biên, xử lý
tài sản hoặc khai thác tài sản, buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy
tờ của người phải THAKDTM nhằm thi hành nghĩa vụ trả tiền của người phải thi
hành án theo bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác về KDTM theo
quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại
Vì biện pháp cưỡng chế tài sản của người phải THAKDTM, kể cả tài sản
đang do người thứ ba giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế THADS nên
cưỡng chế THAKDTM cũng có những đặc điểm chung của biện pháp cưỡng chế
THADS như: Thể hiện quyền năng đặc biệt và được đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Được tiến
hành theo trình tự luật định; áp dụng trong trường hợp người phải THA không tự
nguyện thi hành nghĩa vụ mặc dù đã hết thời hạn tự nguyện thi hành; Người phải
THA bị cưỡng chế THA ngoài bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết
định của Tòa án còn phải chịu mọi chi phí cho việc cưỡng chế THA; Biện pháp
cưỡng chế THA không chỉ có hiệu lực với người phải THA mà còn có hiệu lực đối
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc THA. Cưỡng chế thi hành
án kinh doanh, thương mại chủ yếu là về tài sản. Do vậy, cưỡng chế thi hành án
kinh doanh, thương mại còn có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, cưỡng chế THAKDTM là biện pháp cưỡng chế được áp dụng
nhằm buộc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ trả tiền hoặc nghĩa vụ về tài
sản khác:
Theo quy định của pháp luật, hiện nay có rất nhiểu biện pháp cưỡng chế khác
nhau, các biện pháp sẽ được áp dụng cho phù hợp với trường hợp phải THA cụ thể.
Nghĩa vụ trả tiền, nghĩa vụ về tài sản khác của người phải THA phát sinh khi có bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Biện pháp cưỡng chế được áp
dụng khi người phải THA có nghĩa vụ thanh toán, trả tiền, trả, chuyển giao tài sản
khác nhưng lại cố tình không thực hiện trong thời gian tự nguyện THA mặc dù
11



người đó có điều kiện THA. Do đó, cơ quan THADS tiến hành việc cưỡng chế, kê
biên, xác định giá trị các tài sản hoặc buộc người phải thi hành án chuyển giao, trả
lại tài sản theo bản án, quyết định.
Thứ hai, đối tượng của cưỡng chế THADS có thể là động sản (ô tô, xe máy,
giường, tủ…), có thể là bất động sản (nhà cửa, công trình kiến trúc, quyền sở hữu
đất…), hoặc có thể là tài sản vô hình khác (quyền sở hữu trí tuệ…). Đối với thi
hành nghĩa vụ trả tiền, do người phải THA không có tiền hoặc cố tình không thực
hiện nghĩa vụ THA nên cơ quan THA tiến hành cưỡng chế tài sản của người phải
THA nhằm mục đích chuyển giá trị của tài sản đó thành tiền hoặc định lượng bằng
một giá trị tiền để thanh toán nghĩa vụ đối với người được THA. Đối với nghĩa vụ
chuyển giao, trả tài sản thì cơ quan thi hành án buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ.
Thứ ba, tài sản bị cưỡng chế có thể thuộc quyền sở hữu riêng, sở hữu chung
của người phải THA, đang do người thứ ba nắm giữ hoặc thuộc quyền sở hữu, sử
dụng của người được thi hành án.
Đây cũng là điểm khác biệt của cưỡng chế tài sản so với các biện pháp
cưỡng chế THADS khác. Với biện pháp này thì tài sản đó có thể là của người thứ
ba, người đã đứng ra cam kết cho thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của mình khi
người phải THA không thực hiện nghĩa vụ hoặc thuộc quyền sở hữu, sử dụng của
người được thi hành án.
Do đó, cơ quan THA phải xử lý nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá
trình cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản đã cưỡng chế thi hành án. Với những đặc
điểm này đòi hỏi áp dụng biện pháp cưỡng chế phải được tiến hành một cách thận
trọng, tuân thủ theo những nguyên tắc, thủ tục chặt chẽ. Để xác định tài sản THA
nào của người phải THA, tài sản nào của người khác là cả một vấn đề phức tạp, vì
nhiều khi tài sản đó là của chính người phải THA nhưng vì mục đích lẩn tránh nghĩa
vụ mà trước khi thi hành án, họ chuyển giao tên, tài sản cho người khác; ngược lại
có những tài sản của người thứ ba khác, nhưng lại đang do người phải THA quản lý,


12


sử dụng, đứng tên hoặc tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người được thi
hành án nhưng đang do người phải thi hành án hoặc người thứ ba nắm giữ.
1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THA nói chung và cưỡng chế
THAKDTM nói riêng là một giải pháp hiệu quả nhằm bảo đảm hiệu lực của bản
án, quyết định do Tòa án tuyên, giúp cho quá trình THA kết thúc nhanh chóng, bảo
vệ được quyền, lợi ích của người được THA, góp phần ổn định trật tự, an ninh xã
hội;
Biện pháp cưỡng chế THA thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, buộc
những người phải THA có ý định chống đối, trốn tránh nghĩa vụ, không hợp tác
phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó, biện pháp cũng cho thấy được sự
công bằng, hợp tình, hợp lý không chỉ đối với quyền lợi của người được THA mà
trong cả việc thực hiện nghĩa vụ của người phải THA cũng như lợi ích của toàn xã
hội.
- Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THA còn mang tính răn đe,
giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, trong xã hội; góp phần nâng cao hiệu quả
của hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong công tác THADS và bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Với những ý nghĩa trên, biện pháp cưỡng chế THA nói chung và biện pháp
cưỡng chế THAKDTM nói riêng đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS,
bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của chủ thể, củng cố niềm tin của nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
1.2. Các quy định về cưỡng chế thi hành án kinh doanh, thương mại
1.2.1. Kê biên xử lý tài sản
1.2.1.1. Quy định về tài sản không được kê biên
Theo Điều 87 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định những
tài sản không được kê biên, cụ thể như sau:

13


(1) Không được kê biên tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp
luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách
nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức.
Mặc dù chưa có văn bản nào quy định chi tiết về các loại tài sản bị cấm lưu
thông nhưng đối chiếu các quy định của pháp luật thì có thể kể đến một số loại tài
sản cấm lưu thông như như vũ khí, đạn dược, thuốc nổ, chất ma túy...; Tài sản phục
vụ quốc phòng, an ninh theo quy định tại Điều 31 Luật Quốc phòng năm 2015 bao
gồm: vũ khí, trang thiết bị, khí tài và vật chất phục vụ mục đích quốc phòng; đất đai
sử dụng vào mục đích quốc phòng; tài sản do các doanh nghiệp quốc phòng quản
lý…; Tài sản phục vụ cho lợi ích công cộng như đường giao thông, cầu, cống, vỉa
hè, hệ thống cấp thoát nước, sông, hồ, đê, đập, thủy lợi, trường học, bệnh viện, chợ,
công viên, vườn hoa, khu vui chơi cho trẻ em, quảng trường, sân vận động, sân bay,
bến cảng, nhà ga, bến xe và các công trình công cộng khác; Tài sản do ngân sách
nhà nước cấp bao gồm nhà, đất thuộc tài sản Nhà nước hoặc của Đảng, dùng làm
trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị
và những tài sản khác do ngân sách nhà nước cấp từ nguồn ngân sách.
(2) Không được kê biên một số tài sản thiết yếu của cá nhân người phải
THA:
+ Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải THA và gia đình
trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới;
+ Thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải THA và gia đình;
+ Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người
ốm;
+ Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương;
+ Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương
tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải THA và gia đình;
+ Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải THA và gia đình.

Đây là những quy định mang tính nhân văn của pháp luật liên quan đến cuộc
sống của người phải THA cũng như gia đình họ. Số lương thực như thóc, gạo, ngô,
14


khoại, sắn... hay đồ dùng sinh hoạt tối thiểu như bát, đũa, nồi niêu, xoong chảo,
chăn, màn… để duy trì cuộc sống tối thiểu cho đến khi có thu nhập mới, lương
thực; thuốc men cần thiết để đảm bảo sức khỏe và tính mạng cho người phải THA
và người thân trong gia đình nếu họ bị bệnh, ốm đau; hay những công cụ, phương
tiện được dùng làm phương tiện sinh sống đang có như xe đạp, xích lô, cày, bừa,
lưới bắt cá… giá trị không lớn nhưng có thể giúp người phải THA và gia đình có
thể tiếp tục duy trì cuộc sống hàng ngày.
- Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương cũng nằm
trong danh mục tài sản không được kê biên. Điều này thể hiện quan điểm tôn trọng
tập quán, tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta.
(3) Không được kê biên một số tài sản của người phải THA là doanh nghiệp,
hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:
Theo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án dân sự thì không được kê biên
những tài sản sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ:
- Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực,
thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;
- Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc
các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;
- Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng,
chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường;
Những quy định này nhằm đảm bảo cho cuộc sống, điều kiện làm việc của
người lao động trong các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh
không bị ảnh hưởng khi tiến hành kê biên tài sản; hay để tạo điều kiện phục vụ cho
xã hội, cộng đồng trong trường hợp tài sản kê biên không nhằm mục đích kinh

doanh.

15


1.2.1.2. Quy định về kê biên tài sản cụ thể trong thi hành án kinh doanh, thương
mại
* Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc
đăng ký giao dịch bảo đảm:
Việc kê biên quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc
đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo quy định tại Điều 89 Luật THADS
sửa đổi, bổ sung năm 2014. Ngoài ra, Luật THADS đã dành một mục (Mục 8
Chương IV) gồm 04 điều (từ Điều 110 đến Điều 113) quy định về việc cưỡng chế
đối với tài sản là quyền sử dụng đất trong đó có việc kê biên quyền sử dụng đất.
Theo đó, trước khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật, CHV
yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký. Việc
có được thông tin từ phía cơ quan đăng ký giúp CHV xác minh được thông tin về
tài sản đó thuộc quyền sở hữu của ai, có đang bị cầm cố, thế chấp hay không…, từ
đó có thể lựa chọn đúng tài sản cần kê biên.
Về điều kiện kê biên đối với tài sản là quyền sử dụng đất, CHV chỉ kê biên
quyền sử dụng đất của người phải THA thuộc trường hợp được chuyển quyền sử
dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Trường hợp người phải THA chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất
đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất nhưng chưa có quyết định thu hồi
đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó (Điều 110 Luật THADS sửa
đổi, bổ sung năm 2014).
Về thủ tục kê biên, khoản 1 Điều 88 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm
2014 quy định trước khi kê biên tài sản là bất động sản ít nhất là 03 ngày làm việc,
CHV thông báo cho đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ

chức cưỡng chế, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa
điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, huỷ hoại tài
sản, trốn tránh việc THA.
16


Tại Điều 111 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn quy định chi tiết
việc kê biên quyền sử dụng đất như sau:
Khi kê biên quyền sử dụng đất, CHV yêu cầu người phải THA, người đang
quản lý giấy tờ về quyền sở hữu sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho Cơ quan
THADS . CHV phải căn cứ vào các giấy tờ về quyền sử dụng đất, vào tình trạng
thực tế của tài sản để xác định chính xác vị trí, diện tích, ranh giới của thửa đất bị
kê biên.
Nếu trên đất có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải
THA thì kê biên cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; nếu trên đất có tài
sản gắn liền với đất mà không thuộc quyền sở hữu của người phải THA thì CHV
chỉ kê biên quyền sử dụng đất và thông báo cho người có tài sản gắn liền với đất.
Sau khi đã thực hiện xong việc kê biên, CHV phải thông báo bằng văn bản
cho cơ quan đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm về việc kê biên
đó để các cơ quan này xử lý theo khoản 1 Điều 178 Luật THADS sửa đổi, bổ sung
năm 2014 như: tạm dừng hoặc dừng việc thực hiện các yêu cầu liên quan đến các
giao dịch đối với tài sản của người phải THA đăng ký tại cơ quan đăng ký tài sản,
đăng ký giao dịch bảo đảm.
* Kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp:
Trường hợp người phải THA không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản
nhưng không đủ để THA, CHV có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải
THA đang cầm cố, thế chấp theo quy định tại Điều 90 Luật THADS sửa đổi, bổ
sung năm 2014. Theo quy định trên thì việc kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp
phải tiến hành theo những nguyên tắc sau:
(1) CHV chỉ tiến hành kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp khi người phải

THA không còn tài sản nào khác hoặc có nhưng không đủ để THA.
(2) Giá trị tài sản đang cầm cố, thế chấp phải lớn hơn nghĩa vụ được đảm
bảo và chi phí cưỡng chế THA.
Trong thực tiễn THA đã gặp rất nhiều trường hợp khi xác minh người phải
THA có tài sản nhưng tài sản đó đang được cầm cố hoặc thế chấp cho Ngân hàng
17


hoặc tổ chức, cá nhân. Nếu người phải THA không còn tài sản nào khác hoặc có
nhưng tài sản có giá trị nhỏ không đủ để THA thì CHV phải xác minh làm rõ tính
hợp pháp của việc cầm cố, thế chấp tài sản và giá trị tài sản đang cầm cố thế chấp
và nghĩa vụ được đảm bảo là bao nhiêu, đồng thời dự tính các chi phí cưỡng chế để
quyết định có kê biên hay không kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp. CHV cũng
cần xác minh để khẳng định người phải THA không còn tài sản nào khác để THA
hoặc có nhưng không đủ để THA.
Khi kê biên, CHV phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, thế chấp và
khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thì CHV phải ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ
được đảm bảo sau khi đã trừ các chi phí về THA theo quy định tại khoản 3 Điểu 47
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Ngoài ra, CHV cần lưu ý một số quy định về kê biên tài sản đang cầm cố,
thế chấp được hướng dẫn tại các văn bản khác như:
- Quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội
về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 15/8/2017 và
được thực hiện trong thời hạn 05 năm kể từ ngày có hiệu lực. Theo đó, từ ngày
15/8/2017, cơ quan THADS chỉ kê biên tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy
định tại Điều 90 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 khi thuộc một trong các
trường hợp sau: (i) để thi hành bản án, quyết định của Tòa án về cấp dưỡng, bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; (ii) có sự đồng ý kê biên bằng văn bản của
tổ chức tín dụng; Đối với trường hợp cơ quan THADS đã thực hiện việc kê biên
theo quy định tại Điều 90 Luật THADS trước ngày 15/8/2017 thì vẫn tiếp tục tổ

chức THA theo quy định của pháp luật về THADS.
- Quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC quy định về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong
THADS về trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp đủ điều kiện để kê biên, xử lý theo
quy định tại Điều 90 Luật THADS mà người nhận cầm cố, thế chấp đang tiến hành
xử lý để thu hồi nợ vay theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm thì
CHV không thực hiện việc kê biên, xử lý đối với tài sản đó nhưng phải có văn bản
18


×