Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH

TRẦN THỊ VÂN

HÀ NỘI – 2019

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH

TRẦN THỊ VÂN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS TRẦN ANH TUẤN


HÀ NỘI – 2019

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa đào tạo Sau Đại học – Trường Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Trần Thị Vân

iii


LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa đào tạo Sau Đại
học – Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức quý báu trong
thời gian vừa qua. Tác giả cũng bảy tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS. Trần

Anh Tuấn đã hướng dẫn tận tình trong quá trình thực hiện bản luận văn với đề tài
"Kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn
Tỉnh Nam Định". Tác giả xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp
số liệu, giúp đỡ để có thể hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Trần Thị Vân

iv


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH
ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ...................................................................... 07
1.1. Khái niệm và đặc điểm kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh,
thương mại ............................................................................................................... 07
1.1.1. Khái niệm kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại . 07
1.1.2. Đặc điểm kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại .. 09
1.1.3. Ý nghĩa của Kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại 14
1.2. Quy định của pháp luật về kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh,
thương mại .................................................................................................................... 15


1.2.1. Căn cứ cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án ............. 15
1.2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản ...................... 16
1.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản ................... 17
1.2.4. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản của người phải thi hành án.................. 20
1.2.5. Trình tự, thủ tục xử lý tài sản kê biên của người phải thi hành án ................ 28
1.2.6. Kê biên tài sản của người phải thi hành án trong một số trường hợp cụ thể: 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 44
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI
SẢN TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TỈNH NAM
ĐỊNH ........................................................................................................................ 45
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức bộ máy Cơ quan thi hành
án dân sự tỉnh Nam Định.......................................................................................... 45
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định ....................................... 45
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Nam Định ................. 456
2.2. Tình hình thi hành án kinh doanh, thương mại tại tỉnh Nam Định ................... 46
2.3. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân ................................................. 52
2.3.1. Khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn ............................................................... 522
2.3.2. Nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc ........................................................... 588

v


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 62
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KÊ BIÊN,
XỬ LÝ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ....... 633
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại .................................................................................................... 63
3.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại .................................................................................................. 656
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 75

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 766
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 777

vi


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

LTHADS
Nghị

định

62/2015/NĐ–CP

Luật Thi hành án dân sự
số Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm
2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự

THADS

Thi hành án dân sự

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

vii



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là khâu quan trọng, đảm bảo cho bản án, quyết định của
Tòa án được đưa ra thi hành trên thực tế (Điều 2). Theo Điều 4, Luật thi hành án
dân sự năm 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì bản án, quyết định về kinh
doanh, thương mại phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân,
tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm
chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành
án. Kết quả của hoạt động thi hành án dân sự cao hay thấp không những ảnh hưởng
đến uy tín của cơ quan thi hành án, hệ thống cơ quan tư pháp mà còn ảnh hưởng đến
uy tín của Đảng, chính quyền, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Do đó, việc
giải quyết dứt điểm những vụ việc thi hành án nói chung và những vụ việc thi hành
án kinh doanh thương mại nói riêng là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra cho hệ
thống cơ quan thi hành án dân sự và mỗi Chấp hành viên, mỗi công chức của
ngành.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay các hoạt động
kinh doanh thương mại (KDTM) thường diễn ra ngày càng đa dạng và phát triển.
Do đó, việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ để
các chủ thể kinh doanh hoạt động thuận lợi đồng thời các cơ quan nhà nước dễ dàng
quản lý đã trở thành một yêu cầu cấp thiết. Trong đó cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện
pháp luật thi hành án dân sự (THADS) nói chúng và thi hành án KDTM nói riêng.
THADS là hoạt động đảm bảo cho bản án, quyết định của Toà án, Trọng tài thương
mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp hành, góp phần bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và
công dân.
Những năm gần đây, cả nước nói chung và tại tỉnh Nam Định nói riêng, số
vụ việc thi hành án kinh doanh, thương mại ngày càng nhiều, số tiền phải thi hành
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tiền thi hành án dân sự. Việc tổ chức thi hành loại án


1


này gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp do tài sản phải xử lý hết sức đa dạng, phong
phú, mang tính đặc thù như: nhà xưởng, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, đất đai...
Để thi hành loại án này nhất là khi áp dụng biện pháp kê biên, xử lý cần thiết phải
có sự tham gia, phối hợp tích cực của nhiều cơ quan hữu quan. Hiện nay, tỷ lệ thi
hành án kinh doanh, thương mại rất thấp, đặc biệt số tiền phải thi hành chuyển kỳ
sau rất lớn dẫn đến việc một số năm gần đây nhiều cơ quan thi hành án không hoàn
thành chỉ tiêu, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân không
được đảm bảo.
Xuất phát từ những trăn trở về công tác thi hành án dân sự nói chung và thi
hành án kinh doanh, thương mại nói riêng, mong muốn nâng cao nhận thức cho bản
thân và hy vọng sẽ đóng góp được một phần vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
trong hoạt động thi hành án KDTM tại tỉnh Nam Định, tôi đã chọn đề tài “Kê biên,
xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Nam Định”
để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, công tác thi hành án dân sự đã từng bước được
quan tâm chú trọng cả về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng. Với các văn bản pháp
luật về thi hành án dân sự như Luật THADS năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Thi hành án dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành ngày càng được
cải cách và phù hợp với thực tiễn hơn. Văn bản pháp luật liên quan như Luật Ngân
hàng Nhà nước năm 2010, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, Bộ luật dân sự
2015, Luật Đất đai 2013, Luật Doanh nghiệp năm 2014.... và các văn bản dưới luật
với những điểm mới, hoàn thiện và tiến bộ đã giúp cho việc tổ chức thi hành án dân
sự được thực hiện một cách có hiệu quả trong thực tiễn.
Trước đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự thời gian qua đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là:
- Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án

VIE/98/QQ1" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án.

2


- Luận án tiến sĩ Luật học: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay" của Nguyễn Thanh Thủy, năm 2008.
- “Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân
sự và một số khuyến nghị”, tác giả: Ths. Trần Công Thịnh, Tạp chí Khoa học Đại
học quốc gia Hà Nội.
- “Những khó khăn, vướng mắc khi thi hành bản án, quyết định của Tòa án
liên quan đến các tổ chức tín dụng để thu hồi nợ”, tác giả: Phạm Quang Dũng - Chi
cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
- “ Thi hành án kinh doanh, thương mại – Thực trạng và những giải pháp
nâng cao kết quả trong thời gian tới (2018)” Nguyễn Thị Nhàn Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 03, Hà Nội;

Ngoài ra, cũng đã có một số bài viết được đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành về biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA như
“Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA dân sự” Nguyễn Doãn Phương - Tạp chí dân chủ và pháp luật, 2018; “Áp dụng điều
luật nào trong kê biên, xử lý tài sản của người phải THA trong khối tài sản
chung với người khác để THA”- Phạm Công Ý – Tạp chí dân chủ và pháp luật
số Chuyên đề tháng 9/2017; “Bán đấu giá tài sản trong THA dân sự vẫn còn
là điểm nghẽn”- Nguyễn Quang Thái và Đào Thị Thúy Lan – Tạp chí dân chủ
và pháp luật số tháng 4/2017; “Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu
quả việc bán đấu giá tài sản THA” – Lê Anh Tuấn và Nguyễn Thị Thanh
Nhàn – Tạp chí dân chủ và pháp luật số Chuyên đề tháng 3/2016.v.v… Tuy
nhiên, các bài viết nói trên mới chỉ phân tích, bình luận trên những khía cạnh
nhất định của biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA mà chưa đi
sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về vấn đề này.

Những công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở
những khía cạnh, góc độ và mức độ khác nhau. Trong một số công trình cũng đã đề
cập đến việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự ở một số địa

3


phương cụ thể nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu biện pháp cưỡng chế kê
biên, xử lý tài sản theo Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 ở
tỉnh Nam Định trong điều kiện pháp luật thi hành án dân sự đã có sự thay đổi căn
bản như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật về biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án KDTM trên
địa bàn tỉnh Nam Định. Từ đó, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói chung và việc kê biên, xử lý tài sản trong
thi hành án KDTM tại tỉnh Nam Định nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận về biện pháp kê biên, xử lý tài sản thi hành
án dân sự, cụ thể hơn là những vấn đề chung về biện pháp kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án trong vụ án KDTM.
Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật về kê biên, xử lý tài sản trong thi hành
án KDTM và thực tiễn áp dụng tại Nam Định, từ đó đi sâu phân tích những kết quả
đã đạt được và những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng biện pháp kê biên, xử lý
tài sản trong thi hành án KDTM và làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ ba, xây dựng những quan điểm, đề xuất các giải pháp kịp thời và lâu dài
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về kê biên, xử lý tài sản
trong THADS nói chung và trong thi hành án KDTM nói riêng được chuẩn xác,
thống nhất trong hệ thống cơ quan THADS ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận, lịch sử phát triển của pháp luật Việt
Nam về biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA;

4


- Nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp LTHADS hiện hành
về biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA, đồng thời kết hợp với
việc phân tích, so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới để từ đó
thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế, bất cập trong các quy định của
pháp luật Việt Nam về vấn đề này;
- Nghiên cứu thực tiễn của biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người
phải THA trong những năm gần đây, gắn với những vụ việc cụ thể, nổi cộm,
có nhiều vướng mắc. Trên cơ sở đó, luận văn làm rõ những bất cập, vướng
mắc trong thực tiễn thi hành biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải
THA, từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp này trong thực tiễn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Triết học duy vật biện
chứng và Triết học duy vật lịch sử, chú trọng các phương pháp kết hợp lý luận với
thực tiễn, phân tích, tổng hợp, lịch sử và một số phương pháp nghiên cứu khác như
so sánh, thống kê tổng hợp, tham khảo các tài liệu về lĩnh vực thi hành án dân sự
của một số địa phương để qua đó đánh giá thực trạng kê biên, xử lý tài sản trong thi
hành án kinh doanh, thương mại tại tỉnh Nam Định từ năm 2015 đến tháng 6 năm
2019.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm
kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại; trình tự, thủ tục

thực hiện việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương
mại; góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về
pháp luật trong lĩnh vực THADS.
Luận văn đã phân tích, đánh giá được thực trạng áp dụng biện pháp cưỡng
chế kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại tại tỉnh Nam
Định hiện nay, phân tích những kết quả đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại,

5


nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng của hoạt động cưỡng chế này.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, Luận văn đã đưa ra những giải pháp
đảm bảo thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án dân
sự nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực, chất lượng công tác thi hành án dân sự nói
chung và thi hành án kinh doanh, thương mại nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các
chữ viết tắt, luận văn được kết cấu theo 03 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh
thương mại.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về kê biên, xử lý tài sản trong thi
hành án kinh doanh, thương mại tại tỉnh Nam Định
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên, xử lý tài sản
trong thi hành án kinh doanh thương mại.

6


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI SẢN TRONG

THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

1.1. Khái niệm và đặc điểm kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh,
thương mại
1.1.1. Khái niệm kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định “Bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Để
các bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án và
các cơ quan có thẩm quyền khác (Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh) được thi hành trên thực tế, trong quá trình tổ chức thi hành, cơ quan thi
hành án luôn lựa chọn biện pháp vận động, thuyết phục người phải thi hành án tự
nguyện thi hành. Tuy nhiên, không phải lúc nào người phải thi hành án cũng tự
nguyện thi hành theo đúng phán quyết của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền
khác. Trong rất nhiều trường hợp, người phải thi hành án có điều kiện nhưng không
tự nguyện thi hành, buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế theo quy định
của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi năm 2014) thì các bản án,
quyết định về kinh doanh, thương mại được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự
bao gồm bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải của
Tòa án; bản án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên
phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại. Bản án, quyết
định dân sự đề cập trong Luật THADS là bao hàm cả bản án, quyết định về kinh
doanh, thương mại. Do vậy các quy định của pháp luật THADS cũng được áp dụng

7


đối với THAKDTM.

Trường hợp, người phải thi hành án về kinh doanh, thương mại không tự
nguyện thi hành nghĩa vụ theo bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự; bản án, quyết định
của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh, phán quyết của Trọng tài thương mại thì Cơ quan thi hành án
dân sự phải sử dụng các biện pháp cưỡng chế buộc người phải thi hành án phải thực
hiện nghĩa vụ của họ đã được xác định trong bản án, quyết định về kinh doanh,
thương mại.
Hiện nay, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì có 6 nhóm biện
pháp cưỡng chế thi hành án là khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy
tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án;
Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba
giữ; Khai thác tài sản của người phải thi hành án; Buộc chuyển giao vật, chuyển
giao quyền tài sản, giấy tờ; Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được
thực hiện công việc nhất định.
Trong các biện pháp cưỡng chế nói trên thì biện pháp kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án là một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả
tiền trong bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại. Việc kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án chính là việc cơ quan thi hành án tước đi quyền định
đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu, sử dụng, quản lý tài sản. Do đó, bên cạnh việc
đảm bảo quyền và lợi ích của người được thi hành án là doanh nghiệp thì cũng phải
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án đối với tài sản bị kê
biên, xử lý. Việc kê biên, xử lý tài sản phải tuân theo trình tự, thủ tục được quy định
hết sức chặt chẽ qua nhiều giai đoạn từ tiến hành kê biên, định giá tài sản, bán đấu
giá tài sản và giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
Theo Từ điển Luật học thì kê biên, xử lý tài sản là biện pháp cưỡng chế
nhằm đảm bảo việc thi hành án. Trong thời gian kê biên, đối tượng bị áp dụng bị

8



hạn chế quyền về tài sản [19?, tr 243]1. Theo Giáo trình Luật Thi hành án dân sự
Việt Nam thì “Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng
chế thi hành án do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án
có nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi hành án nhưng không tự
nguyện thi hành”2.
Xét về lý luận thì bản án quyết định về kinh doanh, thương mại là một trong
các loại bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Do vậy, từ
các phân tích trên có thể định nghĩa: “Kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại là việc Chấp hành viên ghi lại lần lượt tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản của người phải THAKDTM làm cơ sở cho việc xử lý
tài sản kê biên nhằm thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định của Toà án
và các quyết định khác theo quy định của pháp luật được áp dụng trong trường hợp
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án không tự nguyện thi hành trong thời
hạn do pháp luật quy định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi huỷ hoại, tẩu tán hoặc trốn nghĩa vụ thi hành án”.
* Như vậy, hậu quả pháp lý của kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại chính là: Việc hạn chế quyền định đoạt về tài sản của người phải
thi hành án kinh doanh thương mại nhằm đảm bảo hoạt động thi hành án.
1.1.2. Đặc điểm kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại
Kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại có những
đặc điểm chung của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án
dân sự. Đồng thời, cũng mang những đặc điểm riêng của việc kê biên, xử lý tài sản
trong thi hành án kinh doanh, thương mại.
1.1.2.1. Đặc điểm chung của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trong
thi hành án kinh doanh, thương mại

1
2


Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 243.
Giáo trình Luật Thi hành án dân sự (2018), Nxb Công an nhân dân, tr. 251.

9


Biện pháp kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại là
một trong những biện pháp cưỡng chế THA dân sự. Do vậy, biện pháp kê biên, xử
lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại mang đầy đủ những đặc điểm
của các biện pháp cưỡng chế THA dân sự nói chung.
- Biện pháp kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại
thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh của nhà nước.
Chỉ có cá nhân được Nhà nước trao quyền mới có thẩm quyền tiến hành các
biện pháp cưỡng chế nói chung và biện pháp kê biên tài sản nói riêng. Ở nước ta
hiện nay, thẩm quyền tổ chức THA dân sự chủ yếu thuộc về các cơ quan THADS
(việc cưỡng chế còn có thể được thực hiện bời Thừa phát lại, tuy nhiên trên thực tế
là không nhiều). Khi cần thiết phải tiến hành các vụ cưỡng chế thì CHV được phân
công nhiệm vụ sẽ đại diện cho cơ quan THADS ra quyết định cưỡng chế buộc cá
nhân, tổ chức nhất định phải chấp hành để thi hành bản án. Quyết định được thi
hành theo thủ tục nhất định và có chế tài xử lý nghiêm bằng các phương thức như
xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, bồi thường thiệt hại trong trường
hợp người phải THA không chấp hành, gây cản trở hay chống đối việc cưỡng chế.
- Biện pháp kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại
được áp dụng trong trường hợp người phải THA có điều kiện THA nhưng không tự
nguyện thi hành nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án,
quyết định có hiệu lực của pháp luật.
Trên thực tế không phải tất cả các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
đều được người phải THA tự nguyện thi hành. Trong những trường hợp như vậy thì
biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án được xem là giải pháp

cuối cùng và cần thiết để có thể buộc người phải THA thực hiện nghĩa vụ của mình,
bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của người được THA, đồng thời thể hiện tính
nghiêm minh của pháp luật.

10


- Đối tượng của biện pháp kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại là động sản, bất động sản hoặc quyền sở hữu trí tuệ của người
phải THA do chính họ hay người thứ ba nắm giữ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng của biện pháp kê biên, xử lý tài sản
trong thi hành án kinh doanh, thương mại có điểm khác biệt so với đối tượng của
các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền khác. Đối tượng của biện pháp
cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải THA hay cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền bằng biện pháp trừ vào thu nhập
của người phải THA chỉ có thể là tiền, giấy tờ có giá. Trong khi đó, đối tượng của
biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương
mại lại là những tài sản có thể chuyển thành tiền để thi hành án thông qua việc bán
tài sản, bao gồm động sản, bất động sản hoặc quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản kê biên
có thể là tài sản hữu hình như nhà ở, phương tiện giao thông, tài sản gắn liền với
đất, hoa lợi hoặc có thể là tài sản vô hình như quyền sở hữu trí tuệ.v.v...
Tài sản kê biên có thể do người phải THA giữ nhưng cũng có thể do người
thứ ba giữ, tuy nhiên, tài sản đó phải là thuộc sở hữu của người phải THA. Tài sản
thuộc quyền sở hữu của người phải THA có thể là tài sản thuộc sở hữu riêng của
người phải THA hoặc tài sản thuộc sở hữu với người khác. Do đó, việc xác minh
điều kiện để THA, tức là xác minh người phải THA có tài sản hay không, và tài sản
đó có thuộc sở hữu của người phải THA hay không, do ai giữ là hết sức quan trọng
trong công tác kê biên, xử lý tài sản của người phải THA.
1.1.2.2. Đặc điểm riêng của kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại

Ngoài những đặc điểm chung của việc kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án
dân sự, có thể thấy rằng chủ thể của án kinh doanh, thương mại chủ yếu là các
doanh nghiệp. “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục
đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh, nghĩa là thực hiện một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [30, tr

11


133]. Do vậy, việc kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại
ngoài những đặc điểm của kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án dân sự còn có
những đặc điểm riêng như sau:
- Thứ nhất, chủ thể của án kinh doanh, thương mại thường là doanh nghiệp.
Do vậy, khi kê biên, xử lý tài sản đối với các chủ thể này cần phải xác định rõ loại
hình doanh nghiệp để có cơ sở pháp lý xem xét tư cách chủ thể, từ đó mới có thể có
cơ chế giải quyết đối với từng chủ thể trong từng vụ việc cụ thể. Chủ thể là doanh
nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tham gia giải quyết và có thể có ý kiến quyết
định vế các nội dung liên quan trong quá trình giải quyết vụ việc. Đối với vụ việc
thi hành án mà đương sự là công ty cổ phần thì phải xem xét tại Điều lệ công ty về
quy định tổng giám đốc, giám đốc có đại diện để giải quyết các vấn đề xử lý tài sản
của doanh nghiệp hay không hay người đó chỉ đại diện và quyết định trong các quan
hệ trong sản xuất kinh doanh hoặc một số công việc nhất định. Trong trường hợp
này cơ quan thi hành án phải hết sức thận trọng trong quá trình tiến hành các trình
tự, thủ tục thi hành án, tránh tình trạng người tham gia ký nhận văn bản không có
thẩm quyền để quyết định những nội dung, vấn đề liên quan đến hoạt động thi hành
án kinh doanh, thương mại.
- Thứ hai, tài sản phải kê biên, xử lý trong thi hành án kinh doanh, thương
mại phức tạp hơn tài sản phải kê biên, xử lý trong các loại việc dân sự khác. Tài sản
phải kê biên, xử lý để thi hành án kinh doanh, thương mại có tính đặc thù, hầu hết là

tài sản của doanh nghiệp như nhà xưởng, máy móc, nguyên nhiên vật liệu, hàng
hóa. Những tài sản này nhiều khi có giá trị rất lớn, mang yếu tố kỹ thuật, công
nghệ... do vậy nếu không nắm được các quy định của pháp luật có liên quan và xử
lý không triệt để sẽ dẫn đến khiếu nại, vi phạm và nhiều trường hợp Cơ quan
THADS, Chấp hành viên phải bồi thường số tiền rất lớn. Nhiều tài sản của người
phải thi hành án là doanh nghiệp còn gắn với đất thuê trả tiền hàng năm của Nhà
nước nên khi kê biên, xử lý thì gắn với nhiều vấn đề nảy sinh phải giải quyết như:
tiền doanh nghiệp bỏ ra để san lấp, tiền xây tường rào, các đầu tư khác. Tồn tại rất
nhiều vấn đề liên quan phải xử lý đối với tài sản kê biên trong các vụ án kinh doanh,

12


thương mại. Liên quan đến xử lý tài sản kê biên để thi hành án kinh doanh, thương
mại đối với công ty cổ phần còn phải xem xét đến việc thực hiện phần vốn góp của
các thành viên góp vốn thì mới có thể xử lý, đảm bảo việc thi hành án, đảm bảo
quyền lợi cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba, việc kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh thương
mại trên thực tế nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến người lao động. Đây là vấn đề
nhạy cảm và phức tạp mà về mặt pháp lý hầu như không có quy định làm cơ sở để
giải quyết. Thực tiễn khi kê biên tài sản của các doanh nghiệp đang có người lao
động là phức tạp và khó khăn. Nhiều trường hợp cơ quan thi hành án lúng túng
không biết xử lý ra sao, dẫn đến chậm trễ thi hành án hoặc vi phạm khác, có trường
hợp còn dẫn đến khiếu kiện đông người, gây mất ổn định an ninh, chính trị địa
phương.
- Thứ tư, tài sản phải kê biên, xử lý trong thi hành án kinh doanh, thương
mại thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đặc
biệt liên quan đến vấn đề an sinh xã hội và người lao động nên không kê biên các
tài sản như: số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương
thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động; nhà

trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này,
nếu không phải là tài sản để kinh doanh; trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo
đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường.
Cơ quan thi hành án dân sự chỉ kê biên tài sản khác của doanh nghiệp phải
thi hành án nếu sau khi đã khấu trừ tài khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý
khác, giấy tờ có giá của doanh nghiệp đang do doanh nghiệp quản lý hoặc đang do
người thứ ba giữ mà vẫn không đủ để thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định
có quyết định khác hoặc đương sự có thỏa thuận khác.
- Thứ năm, việc kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương
mại phải tiến hành đồng bộ nhiều thủ tục, không chỉ với doanh nghiệp phải thi hành
án mà còn liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân như cơ quan quản lý

13


kinh doanh, cơ quan bảo hiểm, cơ quan tài nguyên môi trường, chính quyền sở tại...
nên rất khó khăn và phức tạp, lượng việc mà cơ quan thi hành án phải thực hiện là
rất nhiều và khó thực hiện.
- Thứ sáu, hiện nay hầu hết các án kinh doanh, thương mại có tài sản phải kê
biên, xử lý để thi hành án liên quan đến thế chấp tại các tổ chức tín dụng, do đó theo
quy định của pháp luật dân sự thì khi xử lý tài sản phải ưu tiên thanh toán cho bên
nhận thế chấp, cầm cố. Tuy nhiên Luật thi hành án quy định nếu tài sản đó lớn hơn
nghĩa vụ thế chấp thì cơ quan thi hành án phải kê biên, xử lý để đảm bảo quyền lợi
cho người được thi hành án nhưng hiện không có quy định để thực hiện việc xác
định xem tài sản đó có lớn hơn nghĩa vụ thế chấp hay không.
- Thứ bảy, quá trình kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh,
thương mại là quá trình phức tạp, thời gian cưỡng chế, xử lý có thể bị kéo dài do có
tranh chấp về tài sản kê biên hoặc hợp đồng bán đấu giá. Do đó, đòi hỏi Chấp hành
viên phải chủ động về phương án xử lý, phải nắm vững không chỉ các quy định của
pháp luật thi hành án dân sự mà còn phải nắm vững các quy định của pháp luật tố

tụng dân sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, xác định chủ sở
hữu, sử dụng của tài sản bị kê biên.
1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA

Biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA là một trong những
biện pháp được áp dụng nhiều nhất trong hoạt động cưỡng chế THA. Với tầm
quan trong như vậy, biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA có
những ý nghĩa nhất định đối với hoạt động THA dân sự. Cụ thể:
- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THA nói chung và kê biên, xử lý
tài sản của người phải THA nói riêng là một giải pháp hiệu quả nhằm bảo
đảm hiệu lực của bản án, quyết định, giúp cho quá trình THA kết thúc nhanh
chóng, bảo vệ được quyền, lợi ích của người được THA, góp phần ổn định
trật tự, an ninh xã hội;

14


- Biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA thể hiện tính
nghiêm minh của pháp luật, buộc những người phải THA có ý định chống
đối, trốn tránh nghĩa vụ, không hợp tác phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bên cạnh đó, biện pháp cũng cho thấy được sự công bằng, hợp tình, hợp lý
không chỉ đối với quyền lợi của người được THA mà trong cả việc thực hiện
nghĩa vụ của người phải THA cũng như lợi ích của toàn xã hội thông qua việc
quy định những tài sản không được kê biên.
- Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải THA còn mang tính răn đe, giáo dục ý thức pháp luật trong nhân
dân, trong xã hội; Góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tuyên truyền,
phổ biến pháp luật trong công tác THA và bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Với những ý nghĩa trên, biện pháp cưỡng chế THA dân sự nói chung và

biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản nói riêng đã góp phần nâng cao
hiệu quả công tác THA dân sự, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh
đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
1.2. Quy định của pháp luật về kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thương mại
1.2.1. Căn cứ cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
- Cưỡng chế thi hành án là một biện pháp nghiêm khắc trong quá trình Chấp
hành viên tổ chức thi hành án. Do đó, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật
sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy định rất chặt chẽ về cưỡng
chế trong thi hành án dân sự, đặc biệt biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án trong thi hành án kinh doanh, thương mại.
- Tại Điều 70 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì căn cứ
để cưỡng chế thi hành án nói chung và cưỡng chế kê biên nói riêng bao gồm:
“ 1. Bản án, quyết định;
2. Quyết định thi hành án;

15


3. Quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết
định đã tuyên kê biên, phong toả tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án”.
1.2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản
Để áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản, cần phải hội đủ các
điều kiện sau đây:
- Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản án,
quyết định hoặc phải nộp phí thi hành án. Nghĩa vụ thanh toán tiền của người phải
thi hành án được ấn định trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc của các cơ quan
có thẩm quyền (Trọng tài thương mại hoặc Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) như:
người phải thi hành án phải trả tiền bồi thường do làm mất, làm hỏng, bồi hoàn chi

phí đào tạo, bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe… hoặc là việc trả tiền nợ, tiền
thanh toán theo hợp đồng, tiền công lao động, tiền chênh lệch giá trị tài sản khi
phân chia tài sản… hoặc cũng có thể là nghĩa vụ nộp phí thi hành án khi người được
thi hành án đã nhận tài sản nhưng không tự nguyện nộp.
- Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Đó là những người mà
Chấp hành viên đã xác minh khẳng định được người đó có tài sản có thể là động sản
hoặc bất động sản và kể cả quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, vốn góp… Tài
sản này có thể do người phải thi hành án quản lý, sử dụng hoặc cũng có thể đang do
người thứ ba quản lý, sử dụng.
- Hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành hoặc chưa hết thời gian tự nguyện nhưng người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án.
Để tổ chức thi hành một bản án, quyết định trước tiên người phải thi hành án được
tự nguyện thi hành án trong thời hạn là 10 ngày kể từ ngày người phải thi hành án
nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành
án. Hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành
hoặc thi hành chưa xong nghĩa vụ thì Chấp hành viên buộc phải áp dụng biện pháp

16


cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ thi hành theo đúng bản án, quyết định.
1.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản
Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trong kinh doanh thương mại là một biện pháp
nghiêm khắc do đó Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành không được áp
dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định sau:
- Việc tổ chức cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản phải tương ứng với nghĩa vụ của
người phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác, trừ trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP.
Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn

hơn so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó là một khối thống nhất, không
thể phân chia được hoặc nếu phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì
Chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó theo quy định tại khoản 1 Điều 13
Nghị định 62/2015/NĐ-CP. Số tiền thu được do bán tài sản kê biên sẽ được thanh
toán theo Điều 47 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014, số tiền còn lại Chấp
hành viên sẽ trả lại cho người phải thi hành án.
Nguyên tắc này chỉ áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
nhiều tài sản mà các tài sản đó có tổng giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án và
các chi phí phát sinh hoặc có một tài sản có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án
và các chi phí phát sinh mà tài sản đó có thể phân chia được, việc phân chia không
làm ảnh hưởng đến giá trị tài sản.
Nguyên tắc tương ứng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp nói chung và
quyền tài sản nói riêng của người phải thi hành án đồng thời ngăn chặn sự “lạm
quyền” của Chấp hành viên trong việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành
án.
- Nguyên tắc không được kê biên những tài sản mà pháp luật quy định không được
kê biên quy định tại Điều 87 Luật THADS.
Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật như thuốc nổ, thuốc

17


phiện...; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh như súng, đạn...; tài sản do ngân sách
Nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức như phương tiện giao thông, tiền lương của cán
bộ, công chức trong đơn vị. Đối với những tài sản này, Chấp hành viên không được
kê biên trong mọi trường hợp.
Nếu người phải thi hành án là cá nhân thì không được kê biên các tài sản cụ
thể sau:
+ Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia
đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới. Quy định trên nhằm bảo đảm

cuộc sống tối thiểu của người phải thi hành án và gia đình.
+ Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia
đình.
+ Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm.
+ Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương. Đó là đồ thờ
cúng chỉ được sử dụng vào mục đích thờ cúng theo tập quán của địa phương. Một
số đồ thờ cúng có giá trị lớn như lư hương, bộ lục bình cổ… không được xem là đồ
thờ cúng thông thường nên Chấp hành viên vẫn có thể tiến hành kê biên nếu xác
định đó là tài sản của người phải thi hành án.
+ Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương
tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình như
cày, bừa, xe đạp thồ, xe xích lô… Các công cụ có giá trị lớn như xe máy, ô tô, máy
cày, máy xay xát thì vẫn có thể kê biên, xử lý để thi hành án.
+ Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
Nếu người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ thì không được kê biên tài sản:
+ Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực,
thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động.

18


×