Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại tại các tòa án nhân dân thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.34 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
PHẠM THỊ MỸ HẰNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380108

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Triều Dương

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Các
số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn

Phạm Thị Mỹ Hằng

2


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập, nghiên cứu. Để hoàn thành luận văn này tôi xin bày tỏ


sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Thầy giáo trực tiếp hướng dẫn: T.S Nguyễn Triều Dương, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
- Các thầy, cô giáo Khoa Sau Đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài nghiên
cứu khoa học này.
- Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Lãnh đạo Phòng
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự và các đồng
nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên
cứu.
- Bên cạnh đó sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè và người thân đã luôn ủng hộ
và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể tập trung nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
Do về mặt kiến thức và thời gian còn hạn chế, luận văn còn nhiều khiếm
khuyết. Tôi mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô và mọi người để luận
văn hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn

Phạm Thị Mỹ Hằng

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI......................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.....................7
1.1.1. Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.........................................7

1.1.2. Đặc điểm việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.................................... 10
1.1.3. Ý nghĩa việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM........................................18
1.2. Cơ sở để quy định chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM trong pháp luật tố
tụng dân sự................................................................................................................21
1.2.1. Đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án chính xác, khách quan và có căn
cứ pháp luật...............................................................................................................21
1.2.2. Đảm bảo vấn đề về quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng
dân sự........................................................................................................................22
1.2.3. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự....................................... 22
1.3. Nội dung hoạt động tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án
KDTM.......................................................................................................................23
1.4. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM.......................................................................................................................32
1.4.1. Quy định pháp luật tố tụng dân sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM........................................................................................................................32
1.4.2. Trình độ hiểu biết pháp luật của người tham gia tố tụng...............................33
1.4.3. Năng lực, trình độ chuyên môn và đạo đức của Thẩm phán........................ 34

4


1.4.4. Cơ chế kiểm sát hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM của Viện
kiểm sát.....................................................................................................................35
1.4.5. Sự phối hợp, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan...................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.........................................................................................37
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ
VIỆC CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN KDTM........................................39
2.1. Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM...........................39
2.2. Các công việc tiến hành sau khi thụ lý vụ án KDTM........................................41
2.2.1. Phân công, xem xét thay đổi người tiến hành tố tụng.....................................42

2.2.2. Thông báo về việc thụ lý vụ án KDTM............................................................46
2.2.3. Lập hồ sơ vụ án KDTM...................................................................................50
2.2.4. Nghiên cứu hồ sơ vụ án KDTM.......................................................................55
2.2.5. Quy định pháp luật tố tụng về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ...................................................................................................60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.........................................................................................63
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN KINH
DOANH THƯƠNG MẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TẠI
CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG.....................................64
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án KDTM....................................................................................64
3.1.1. Kết quả đạt được.............................................................................................64
3.1.2. Hạn chế, tồn tại khi thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM.....................................................................................................71
3.1.3. Nguyên nhân hạn chế, tồn tại..........................................................................82
5


3.2. Kiến nghị hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.................................................................84
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thông báo
thụ lý vụ án................................................................................................................85
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải............................86
3.2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về hoạt động
nghiên cứu hồ sơ vụ án KDTM.................................................................................88
3.2.4. Kiến nghị đảm bảo thực hiện tốt các quy định của pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM.....................................................................................................................88
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.........................................................................................90

KẾT LUẬN...............................................................................................................91
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................93

6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội của đất nước, cùng với yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp. Đồng thời, để phát triển và nâng cao chất lượng hoạt
động tố tụng dân sự, của TAND, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong khi đó
quá trình thi hành BLTTDS năm 2011 đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân
sự. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2011 là yêu cầu cần thiết. Cùng với
đó là sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, các văn bản pháp luật khác như: Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Do đó, vấn đề cấp bách đặt ra là cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản
pháp luật tố tụng dân sự mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Thực hiện chủ
trương của Đảng về cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ chính
trị ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ
chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. BLTTDS
năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ
họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 đã
sửa đổi, bổ sung nhiều điều luật, trong đó có nhiều quy định về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM, cụ thể: khi Tòa án thụ lý vụ án thì thông báo cho nguyên đơn
biết (Điều 196 BLTTDS năm 2015), mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ (Điều 208), việc nộp đơn (Điều 190 và Điều 191), việc trả lại

đơn khởi kiện (Điều 192), … Mặc dù, đã có sửa đổi, bổ sung nhiều điều luật nhưng
một số quy định tại phần chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM vẫn còn một số điều
luật chưa có văn bản hướng dẫn hoặc có văn bản hướng dẫn nhưng chưa rõ ràng, cụ
thể, dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật của Tòa án và Viện kiểm sát trong quá

1


trình giải quyết các vụ án KDTM khác nhau, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự.
Vì vậy, mà việc tiếp tục nghiên cứu các quy định pháp luật về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án của cả nước nói chung và thành phố Hải Phòng
nói riêng là cần thiết. Đồng thời để tiếp tục hiểu sâu hơn nữa về vấn đề lý luận, thực
tiễn áp dụng, phát hiện những bất cập, mâu thuẫn. Từ đó, đề ra các giải pháp hoàn
thiện. Với lý do trên, tôi chọn đề tài: “chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh
thương mại tại các Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng” để làm đề tài nghiên cứu
luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là chuẩn bị những điều kiện cần thiết
cho việc mở phiên tòa sơ thẩm. Trước khi BLTTDS năm 2015 ban hành, có nhiều
đề tài nghiên cứu như sau:
- Một số đề tài cấp Bộ, cấp cơ sở như đề tài: “Một số vấn đề về cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS”, do Tòa án nhân dân tối cao thực hiện
năm 1996; đề tài “những quan điểm cơ bản của BLTTDS Việt Nam”, “một số vấn
đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay” do Viện Nhà
nước và Pháp luật của Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện năm 2002, năm
2010 là đề tài cấp Bộ, đề tài “Thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải
quyết các vụ án dân sự, thực trạng và giải pháp”, do Viện khoa học xét xử của Tòa
án nhân dân tối cao thực hiện năm 2002, là đề tài cấp cơ sở.
- Các bài viết đăng báo, tạp chí khoa học pháp lý gồm: bài “Chứng cứ và

chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của
tác giả Tưởng Duy Lượng - nguyên Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao, cho Hội
thảo “Bộ luật tố tụng dân sự - Những điểm mới và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn
thi hành”, Học viện Tư pháp tổ chức tại Hà Nội năm 2004, bài đăng trên Đặc san về
BLTTDS, Tạp chí Luật học năm 2005 như bài “Chế định biện pháp khẩn cấp tạm
thời” của tác giả Trần Phương Thảo.
2


Các bài khóa luận, luận văn Thạc sĩ, luận án tiến sĩ như: Khóa luận tốt nghiệp
“Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả
Đào Thị Hải Yến năm 2010; “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự” của tác giả Lê
Thị Lan năm 2011; “Một số vấn đề về Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo
quy định của BLTTDS năm 2004” của Nguyễn Thị Ngọc Mai, bảo vệ tại Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013; Luận án Tiến sĩ “Giai đoạn giải quyết sơ
thẩm vụ án kinh tế theo pháp luật Việt Nam”, của Đoàn Đức Lương, bảo vệ tại Viện
Nhà nước và Pháp luật năm 2006...
Qua các công trình nghiên cứu về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM trước
khi có BLTTDS năm 2015 ra đời thấy: phần lớn các công trình này dựa vào Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế, BLTTDS năm 2011, được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau,
đi vào từng vấn đề nhỏ lẻ. Tuy nhiên, chưa nghiên cứu toàn diện chế định chuẩn bị
xét xử vụ án KDTM.
Sau khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực đã có nhiều công trình nghiên cứu
như: “Quy định về hòa giải vụ án dân sự trong BLTTDS năm 2015 và những nội
dung cần làm rõ” của tác giả Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí Luật học năm 2015;
“Những điểm mới của BLTTDS năm 2015 liên quan đến tranh chấp KDTM” của
tác giả Tống Anh Hào đăng trên Tạp chí thông tin pháp luật dân sự năm 2018...
Các công trình này đã phân tích những điểm mới trong quy định của BLTTDS
năm 2015. Song, bài viết nghiên cứu về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM

không nhiều, nghiên cứu chưa được sâu, còn có những vấn đề mới chưa được
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu và vận dụng quy định về
thủ tục chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM khoa học, phù hợp với thực tiễn giải
quyết các vụ án KDTM trên cả nước nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng,

3


tạo điều kiện tốt nhất để cho Tòa án chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra
xét xử.
Để thực hiện tốt mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Nghiên cứu, làm rõ hơn nữa vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của việc quy định chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM trong tố tụng dân sự, nội dung các hoạt động và các yếu tố chi
phối đến hiệu quả việc thực hiện hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.
- Nghiên cứu nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện nay về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM, những tồn tại và kiến nghị hoàn thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng là nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án KDTM, những quy định pháp luật hiện nay về chuẩn bị xét xử vụ án KDTM tại
Tòa án cấp sơ thẩm.
Phạm vi: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
theo thủ tục thông thường, không nghiên cứu theo thủ tục rút gọn, vụ án KDTM có
yếu tố nước ngoài, thủ tục chuẩn bị giải quyết việc KDTM.

- Luận văn nghiên cứu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM dưới góc độ các
quy định của pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM và thực tiễn hoạt
động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM tại Tòa án nhân dân các cấp trên địa
bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2016 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu

4


Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như:
- Phương pháp phân tích: Các vấn đề nghiên cứu được nêu ra có sự phân tích
về mặt lý luận.
- Phương pháp so sánh: So sánh những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM với quy định pháp luật hiện hành, qua đó rút ra vấn đề phù hợp,
vấn đề còn tồn tại, bất cập.
- Phương pháp tổng hợp: Từ việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm các vụ án KDTM, rút ra những vấn đề lý luận điều
chỉnh các nội dung trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm các vụ án KDTM.
- Phương pháp lịch sử: Làm rõ sự phát triển của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM qua các thời kỳ, để thấy được có sự kế thừa, phát triển.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống từ những quy định
về mặt lý luận, thực tiễn áp dụng, đến những hạn chế, tồn tại, bất cập. Từ đó, nhằm
đưa ra những giải pháp, có sự liên hệ chặt chẽ giữa giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM và các giai đoạn khác trong tố tụng dân sự giúp Tòa án và những
người làm công tác thực tiễn hiểu biết sâu sắc hơn về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM.
Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn như sau:

- Về nội dung liên quan đến chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM: Luận văn
nêu ra những quan điểm về nội dung liên quan đến chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM, có sự so sánh, đánh giá, giúp cho việc hiểu thế nào là chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM ở nhiều góc độ, qua đó giúp hiểu sâu sắc hơn về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án KDTM.

5


- Phân tích, đánh giá nội dung của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM theo
pháp luật Việt Nam hiện hành, có sự đối chiếu, so sánh những quy định mới về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM đối với các quy định trước đây. Từ đó, giúp
cho việc vận dụng pháp luật của Tòa án, Viện kiểm sát và các Cơ quan liên quan
được chính xác hơn.
- Phân tích, đánh giá hạn chế trong việc áp dụng những quy định của pháp luật
tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM trong thực tiễn.
Từ đó, đề ra các giải pháp cụ thể, hữu hiệu nhằm khắc phục hạn chế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có bố cục gồm 03
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về việc chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án KDTM
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự năm
2015 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM và kiến nghị hoàn thiện pháp luật tại
các Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

6



Chương 1: NHỮNG

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ

CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM
1.1.1. Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM
“Chuẩn bị” là “làm cho có sẵn để làm việc gì”, còn “xét xử” là “xem xét và
xử các vụ án” [34]1. Dưới góc độ này thì chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là
chuẩn bị các điều kiện cần thiết nhằm bảo đảm cho việc xét xử được chính xác và
khách quan.
Dưới góc độ pháp lý thì chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là một hoạt
động tố tụng trong sơ thẩm vụ án KDTM. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm được bắt đầu, từ
khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án KDTM. Trước tiên, Tòa án phải thông báo việc
thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức, Viện kiểm
sát về việc thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn. Sau đó, Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ, lập hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ vụ án và ra các quyết định tố tụng theo quy
định của pháp luật.
Để giải quyết vụ án KDTM thì những người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng phải xác định được đầy đủ các chứng cứ, tài liệu, căn cứ pháp lý và lý lẽ,
lập luận. Vì vậy, trong giai đoạn này, các bên đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ, thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình có căn cứ. Tuy nhiên,
tùy theo pháp luật của mỗi nước về vai trò của Tòa án trong TTDS mà việc hỗ trợ
của Tòa án đối với việc thu thập chứng cứ của đương sự được quy định ở mức độ
khác nhau [8]2.

[34]1. Từ điển Luật học
[8]2. Bùi Thị Huyền (2011), Phiên tòa sơ thẩm dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội

7


Trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật là hệ thống pháp luật án lệ
(common law) và hệ thống pháp luật châu âu lục địa (continental law hoặc civil
law). Mặc dù, thủ tục tố tụng giải quyết các vụ án KDTM ở các nước có những
điểm khác nhau. Tuy nhiên, vẫn có điểm chung là thực hiện tốt các nội dung, trình
tự tố tụng đúng quy định.
Đối với những nước theo truyền thống tố tụng tranh tụng điển hình như Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Anh thì vai trò của các bên đương sự được đề
cao. Do đó, việc thu thập chứng cứ do các bên đương sự hoặc Luật sư của họ thực
hiện với sự trợ giúp của Tòa án. Thông qua việc buộc bên kia phải trả lời, tuyên thệ,
đối chất, đưa ra các tài liệu để làm sáng tỏ nội dung vụ việc. Cộng hòa Pháp là nước
điển hình theo truyền thống tố tụng xét hỏi, vai trò của Thẩm phán trong việc thu
thập chứng cứ được đề cao nên Thẩm phán có quyền tự mình quyết định áp dụng
mọi biện pháp thẩm cứu mà pháp luật cho phép. Các bên đương sự có nghĩa vụ giúp
Thẩm phán thực hiện các biện pháp thẩm cứu và phải chịu hậu quả trong trường
hợp không giúp đỡ hoặc từ chối giúp đỡ. Đối với Nhật Bản việc thu thập chứng cứ
và kiểm tra người làm chứng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử do các bên đương sự
tự thực hiện, Tòa án chỉ hỗ trợ trong những trường hợp đặc biệt [9]3.
“Từ đó có thể hiểu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là việc chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để xét xử sơ thẩm vụ án KDTM, tạo tiền đề, cơ sở pháp lý vững
chắc đảm bảo cho việc xét xử và ra các phán quyết của Tòa án được khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật” [4]4.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM
được nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án KDTM là một giai đoạn của quá trình TTDS; chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
[9]3. Bùi Thị Huyền (2011), Phiên tòa sơ thẩm dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội
[4]4. Nguyễn Thị Ngọc Mai (2013), Một số vấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo qui định của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

8


KDTM là một hoạt động tố tụng; chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là một thủ
tục tố tụng dân sự; chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là một chế định pháp luật.
Trong phạm vi nghiên cứu luận văn của chúng tôi chỉ nghiên cứu các quy định của
pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm (dưới góc độ chế định pháp luật) và thực tiễn
áp dụng (dưới góc độ thủ tục tố tụng).
- Dưới góc độ là chế định của pháp luật tố tụng dân sự: Chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các chủ
thể trong quá trình giải quyết vụ án KDTM vào thời gian trước khi Tòa án mở phiên
tòa sơ thẩm. Các chủ thể ở đây là Tòa án, Viện kiểm sát, đương sự, người tham gia
tố tụng khác. Cá nhân, tổ chức gửi đơn khởi kiện đến Tòa án, khi đơn đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật TTDS thì Tòa án thụ lý vụ án. Tòa án phân công
Thẩm phán giải quyết vụ án. Do đó, làm phát sinh quan hệ giữa các chủ thể. Chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM quy định nhiều vấn đề các chủ thể cần thực hiện
như: quy định về thời hạn chuẩn bị hạn xét xử sơ thẩm vụ án KDTM, về lập hồ sơ
vụ án, về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải, về các quyết định trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM...
Như vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM được hiểu là “tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình Tòa án cấp sơ
thẩm chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa vụ án KDTM ra xét xử lần đầu tại
phiên tòa sơ thẩm” [3]5.
- Dưới góc độ là một thủ tục tố tụng dân sự: chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM là những công việc Thẩm phán thực hiện sau khi thụ lý vụ án nhưng trước
khi mở phiên tòa sơ thẩm. Những công việc này được thực hiện theo trình tự tố tụng

do BLTTDS quy định, có mối liên quan mật thiết với nhau nhằm chuẩn bị các điều
kiện cần thiết cho việc mở phiên tòa sơ thẩm. Quá trình giải quyết một vụ án

[3]5. Nông Thị Biển (2017), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật
Hà Nội

9


KDTM đòi hỏi các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng phải thực hiện nhiều thủ tục. Về phía người tham gia tố tụng phải
tự khai nêu ý kiến của mình về vấn đề giải quyết trong vụ án, xuất trình chứng cứ để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án án phải
thực hiện nhiều công việc có liên quan chặt chẽ với nhau như: nghiên cứu hồ sơ,
kiểm tra, đánh giá các chứng cứ do đương sự xuất trình, trường hợp đương sự
không thể thu thập tài liệu, chứng cứ thì có quyền yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ để làm rõ thêm vụ án hoặc trong trường hợp cần thiết Tòa án có thể tiến
hành một số biện pháp để thu thập tài liệu, chứng cứ. Sau khi xác định được tư cách
của các đương sự, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì Tòa án mở phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nghiên cứu hồ sơ vụ án
KDTM, ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (nếu các đương sự
thỏa thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án), đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
(nếu có căn cứ) hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử... Các thủ tục trên của Tòa án
phải thực hiện đúng theo thời hạn, trình tự pháp luật quy định. Từ phân tích trên có
thể thấy:“chuẩn bị xét xử là hoạt động tố tụng do Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành
nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết để lần đầu đưa vụ án KDTM ra xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm được khách quan, công bằng và đúng pháp luật” [3]6.
Như vậy, dưới góc độ là một thủ tục tố tụng dân sự, chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án KDTM là cách thức, trình tự thực hiện các công việc theo quy định của
BLTTDS nhằm chuẩn bị các điều kiện cho việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm được

khách quan, công bằng, đúng quy định của pháp luật.
Dù nghiên cứu dưới góc độ nào thì mục đích của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án KDTM là chuẩn bị những điều kiện cần thiết trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.
1.1.2. Đặc điểm việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM

[3]6. Nông Thị Biển (2017), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật
Hà Nội

10


Khi có đơn khởi kiện vụ án KDTM gửi đến Tòa án, Tòa án sẽ xem xét đơn,
nếu thấy đủ điều kiện về hình thức, nội dung thì Tòa án sẽ thụ lý vụ án KDTM. Sau
khi thụ lý vụ án, Tòa án phải thực hiện nhiều công việc để chuẩn bị cho phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án KDTM. Vì vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM có
những đặc điểm chung như sau:
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM bắt đầu từ sau khi thụ lý vụ án cho
đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử do Thẩm phán giải quyết vụ án tiến hành
“Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là giai đoạn tố tụng được thực hiện
sau khi Tòa án thụ lý vụ án [2]7. Các hoạt động tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước
thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử là do Thẩm phán và Thư ký tiến hành.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM, Thẩm phán phải thực hiện
các hoạt động như: xác định tư cách đương sự, yêu cầu đương sự cung cấp chứng
cứ, mở phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải. Vụ án liên quan đến tài
sản có thể xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản,... Trong quá trình thực hiện
các thủ tục tố tụng trên thì có thể tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Nếu các đương sự không thỏa thuận được với
nhau mà việc thu thập tài liệu, chứng cứ đã đầy đủ thì Thẩm phán ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Quyết định này là căn cứ chấm dứt các hoạt động chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án KDTM. Kể từ khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu các đương

sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án và đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa
thuận đó, nguyên đơn có đơn xin rút đơn khởi kiện, đương sự có đơn đề nghị hoãn
phiên tòa... thì Thẩm phán cũng không được tự quyết định mà phải chờ đến ngày
mở phiên tòa, Hội đồng xét xử (Thẩm phán chỉ là một trong 3 thành viên của Hội
đồng xét xử) sẽ quyết định tại phòng xử án. Tuy nhiên, sau khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử Tòa án vẫn phải thực hiện một số hoạt động hành chính tư pháp tại Tòa
án như: tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự biết để đến tham gia

[2]7. Nguyễn Công Bình (chủ nhiệm đề tài). Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định
cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

11


phiên tòa, chuyển hồ sơ cùng quyết định xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện
kiểm sát nghiên cứu trong trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa theo
quy định của TTDS, chuẩn bị cơ sở vật chất khác cho ngày mở phiên tòa.
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM tạo các điều kiện cần thiết để phiên
tòa sơ thẩm vụ án KDTM đạt hiệu quả
Bất kỳ vụ án KDTM nào Tòa án cũng phải xem xét toàn diện về nội dung vụ
án. Tòa án cần xác định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp? Yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn? Ý kiến của bị đơn về khởi kiện của nguyên đơn hoặc có yêu cầu
phản tố gì? Yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan?... Trong những vấn
đề trên thì việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là quan trọng nhất. Vì có xác
định quan hệ pháp luật đúng thì quá trình thu thập chứng cứ mới đầy đủ. Việc xác
định tư cách đương sự cũng rất quan trọng, nếu xác định tư cách không đúng, bỏ sót
người tham gia tố tụng thì phiên tòa mở ra sẽ bị hoãn hoặc khi xét xử xong phiên
tòa sơ thẩm, nếu có kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát thì cấp
phúc thẩm xét xử lại, bản án có thể bị hủy do không đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự. Do đó, để phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM đảm bảo thì các

hoạt động trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM phải thực hiện
đúng, đầy đủ, chính xác, tránh trường hợp vụ án phải bị đưa xét xử nhiều lần, qua
nhiều cấp xét xử.
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM gồm nhiều hoạt động do Tòa án tiến
hành trên cơ sở quy định của pháp luật, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc
xét xử sơ thẩm vụ án KDTM
Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, công bằng, đúng quy
định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Để
việc xét xử vụ án KDTM tại phiên tòa sơ thẩm có hiệu quả, Tòa án phải tiến hành
các hoạt động tố tụng như: thông báo thụ lý vụ án, xác định tư cách người tham gia
tố tụng, nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, ra
12


một trong các quyết định tố tụng như: quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Đây là những điểm khác để phân biệt với chuẩn bị xét xử phúc
thẩm vụ án KDTM. Vì do tính chất xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án, Tòa án cấp
phúc thẩm không phải xây dựng hồ sơ vụ án mà dựa trên hồ sơ Tòa án cấp sơ thẩm
đã xây dựng. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử nội dung kháng cáo, kháng nghị và
những phần liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp cần thiết thì
Tòa án cấp phúc thẩm có thể thu thập thêm chứng cứ mới để đảm bảo việc giải
quyết vụ án khách quan, có căn cứ theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM có nhiều chủ thể tham gia
với vị trí, vai trò khác nhau
Sau khi thụ lý vụ án, đương sự chuẩn bị cho những buổi làm việc tại Tòa án,
tranh tụng tại phiên tòa. Nguyên đơn đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ, bị đơn chuẩn bị chứng cứ để phản bác lại yêu cầu của nguyên
đơn hoặc đưa ra yêu cầu phản tố. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (nếu có)

chuẩn bị chứng cứ chứng minh cho việc liên quan của mình hoặc đưa ra yêu cầu
độc lập. Người tham gia tố tụng khác như: người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự cũng thu thập chứng cứ, yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức nắm giữ
chứng cứ cung cấp, nếu không thu thập được, đương sự có thể yêu cầu Tòa án thu
thập chứng cứ. Tòa án chỉ thu thập tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu của đương sự
hoặc khi thấy cần thiết thì Tòa án thu thập chứng cứ.
Bên cạnh việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM của đương sự thì Viện kiểm sát với vai trò là cơ quan tiến hành
tố tụng. Nếu trong BLTTDS năm 2011 Viện kiểm sát tham gia phiên tòa chỉ để phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng,
kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án thì vai trò của Viện
kiểm sát trong BLTTDS năm 2015 rộng hơn, ngoài kiểm sát về quá trình tiến hành
13


tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát còn phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ
án. Vì vậy, hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM của Viện kiểm sát bao
gồm: “kiểm sát thụ lý vụ án, giải quyết vụ, việc KDTM, nghiên cứu hồ sơ vụ việc;
yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc
KDTM... thu thập tài liệu, chứng cứ” [19]8.
Ngoài ra, còn có hoạt động chuẩn bị xét xử của Thẩm phán, Thư ký Tòa án.
BLTTDS của Việt Nam được xây dựng theo mô hình tố tụng xét hỏi nên vai trò của
Thẩm phán trong việc chuẩn bị thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án rất cao. Tòa
án giữ vai trò trung tâm trong số các chủ thể tham gia vào việc chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM. Để giải quyết vụ án đúng đắn, có căn cứ trên cơ sở pháp luật thì
Tòa án phải chuẩn bị hồ sơ toàn diện, kỹ càng, thận trọng.
Như vậy, các chủ thể tham gia hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
KDTM nhiều, phạm vi rộng, mỗi chủ thể có vai trò khác nhau. Tuy nhiên, phạm vi
luận văn của chúng tôi chỉ nghiên cứu về hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án

KDTM của Tòa án.
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM gồm các hoạt động do Tòa án cấp sơ
thẩm tiến hành trên cơ sở các quy định pháp luật tố tụng dân sự
Để có thể mở phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM, Tòa án cần phải tiến hành các
hoạt động chuẩn bị xét xử như: Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, thông báo
việc thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án
thực hiện một hoạt động khác rất quan trọng là hòa giải giữa các bên đương sự.
Trong giai đoạn này, Thẩm phán có quyền ra các quyết định tố tụng như: quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời,

[19]8. Quốc Hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội.

14


quyết định đưa vụ án ra xét xử [12]9. Đồng thời, Tòa án tiến hành việc mở phiên
họp kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ, tại phiên họp này các đương sự được
công khai chứng cứ để các đương sự khác được biết tại Tòa án, các đương sự cũng
có quyền được bổ sung thêm chứng cứ. Đây là hoạt động quan trọng nhằm nêu cao
quyền của đương sự, và là một trong những hoạt động mà chỉ có ở BLTTDS năm
2015 mới quy định.
“Nội dung của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM bao gồm các
công việc có mối liên hệ mật thiết với nhau do Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự” [3]10.
- Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM có mối quan hệ chặt chẽ
với các hoạt động tố tụng khác
+ Với hoạt động thụ lý vụ án: khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện thì họ
phải xuất trình các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.
Tòa án xem xét nội dung đơn, các yêu cầu đối với quan hệ pháp luật tranh chấp, nếu

xét thấy nội dung đơn đầy đủ, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết thì Thẩm phán
phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền
tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm phán thụ lý
vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Kể từ
khi thụ lý vụ án thì trách nhiệm thuộc về Tòa án. Căn cứ vào chứng cứ mà đương sự
xuất trình Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách tham gia tố tụng
của đương sự, tài liệu, chứng cứ cần bổ sung để chuẩn bị các bước của quá trình
tiến hành tố tụng, Thẩm phán có thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án, đưa vụ án ra xét xử.

[12]9. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội
[3]10. Nông Thị Biển (2017), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật
Hà Nội

15


+ Với phiên tòa sơ thẩm: là khâu cuối cùng của quá trình tiến hành tố tụng tại
cấp sơ thẩm. Để mở được phiên tòa yêu cầu Thẩm phán phải thực hiện đầy đủ,
chính xác các bước tiến hành tố tụng, xác minh, làm rõ nội dung vụ án. Các yêu cầu
trên được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Nếu không thực hiện
đúng các bước tố tụng, không thu thập đầy đủ chứng cứ thì tại phiên tòa có thể phát
sinh tình tiết mới, dẫn đến Hội đồng xét xử có thể hoãn phiên tòa hoặc vụ án bị
kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm xét xử lại thì vụ án cũng có thể bị hủy do thu
thập chứng cứ chưa đầy đủ hay để bỏ sót, thiếu người tham gia tố tụng...
Mặt khác, hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM còn có mối liên hệ
với cấp xét xử phúc thẩm. Các chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm thu thập được sẽ là
căn cứ đánh giá tính hợp pháp, có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Khi bản
án, quyết định bị khiếu nại, cấp giám đốc thẩm, tái thẩm có thể sử dụng hồ sơ tài

liệu cấp sơ thẩm thu thập được để xem xét nội dung khiếu nại của đương sự là có
hay không có căn cứ?
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên thì so với hoạt động chuẩn bị xét xử vụ
án khác như: Dân sự, Lao động, Hôn nhân và gia đình thì chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án KDTM có những đặc điểm khác biệt sau:
- Về chủ thể
Hoạt động kinh doanh thương mại là quan hệ giữa các thương nhân hoặc ít
nhất một bên là thương nhân, người thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại
có tính chất nghề nghiệp. Vì vậy, chủ thể kinh doanh phải được thành lập, đăng ký
hợp pháp, thể hiện các chủ thể này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra
quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Để tham gia vào hoạt
động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh phải có tài sản riêng của mình. Bởi tài sản
riêng là cơ sở vật chất không thể thiếu để các chủ thể này có thể tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Dấu hiệu phải
có tài sản riêng thể hiện các chủ thể này có quyền chiếm hữu hoặc quản lý, sử dụng,

16


định đoạt tài sản đó cũng như có quyền quyết định khối tài sản này theo nhu cầu sản
xuất kinh doanh và phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó trước pháp luật.
Chủ thể kinh doanh phải có chức năng kinh doanh. Đó là phương diện hoạt
động thường xuyên, cơ bản và chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chức năng kinh
doanh của chủ thể thể hiện ở chỗ phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Riêng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thì giấy phép đầu tư có giá trị là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Chủ thể kinh doanh có tính liên quan và đối kháng với nhau: Trong điều kiện
kinh tế thị trường, mỗi một chủ thể kinh doanh không tồn tại như một tế bào kinh tế
đơn lẻ mà nằm trong một hệ thống lớn lực lượng sản xuất xã hội có tính liên quan
một cách hữu cơ với nhau. Các chủ thể kinh doanh phải hỗ trợ lẫn nhau trong quá

trình tái sản xuất xã hội.
- Về thời hạn
Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án kinh doanh thương mại là 02 tháng, kể từ ngày
thụ lý vụ án. Đối với vụ án KDTM có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn
giải quyết vụ án nhưng không quá 01 tháng. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án thì thời hạn giải quyết vụ án được tính lại kể từ ngày quyết
định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trong thời hạn 01
tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa;
trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. Phiên tòa sơ thẩm có
thể bị hoãn không quá 01 tháng [19]11.
Các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, Hôn nhân gia đình thời hạn là 04 tháng
kể từ ngày thụ lý vụ án và có thể kéo dài không quá 02 tháng.
Như vậy, đối chiếu với quy định pháp luật về thời hạn thì thấy thời hạn thụ lý,
giải quyết sơ thẩm vụ án KDTM ngắn hơn vụ án dân sự, Hôn nhân gia đình. Vì
[19]11. Quốc Hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội

17


trong vòng từ 3 đến 4 tháng và có thể dài hơn là phải giải quyết, còn đối với các vụ
án dân sự, Hôn nhân gia đình được giải quyết trong vòng từ 4 đến 8 tháng và có thể
dài hơn. Sở dĩ thời hạn thụ lý, giải quyết vụ án KDTM ngắn hơn so với thời hạn giải
quyết các vụ án khác là do án KDTM liên quan đến các chủ thể là doanh nghiệp,
với mục tiêu là lợi nhuận. Hơn nữa, giữa các chủ thể khi phát sinh tranh chấp đa số
phát sinh trên cơ sở các hợp đồng đã được ký kết rõ ràng trước đó. Đồng thời, quá
trình giải quyết nhanh chóng cũng nhằm mục đích đảm bảo ổn định hoạt động của
các doanh nghiệp.
- Về hoạt động tiến hành
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn

của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi [38]12. Như vậy, một hành vi được coi là hành vi
kinh doanh thì hành vi đó phải mang tính chất nghề nghiệp, hành vi đó phải diễn ra
trên thị trường, diễn ra thường xuyên, liên tục, hành vi đó có mục đích sinh lợi.
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác [15]13. Mục đích của người thực hiện hoạt động
thương mại là lợi nhuận còn nội dung của hoạt động thương mại cơ bản là mua bán
hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, các hình thức đầu tư nhằm tìm kiếm lợi
nhuận cũng là những hoạt động thương mại. Do vậy, hoạt động thương nhân sẽ
khác hoạt động cá nhân. Hoạt động hướng tới đối tượng là cá nhân, thương nhân, tổ
chức.
1.1.3. Ý nghĩa việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM
[38]12. Điều 4 Luật doanh nghiệp
[15]13. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội
[12]12. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội

18


Mặc dù không ra phán quyết buộc các đương sự phải thi hành nhưng chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án KDTM tạo cơ sở đảm bảo cho việc xét xử, ra phán quyết của
Tòa án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật có ý nghĩa lớn về mặt chính trị,
xã hội, pháp lý như sau:
1.1.3.1. Ý nghĩa chính trị, xã hội
Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM có ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng giải quyết vụ án. Nếu Tòa án xác định đúng quan hệ tranh chấp cần giải
quyết, “thu thập chứng cứ nhằm từng bước làm rõ nội dung tranh chấp” [12]14, xác
định đầy đủ tư cách người tham gia tố tụng, vụ án được giải quyết toàn diện, từ đó

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, giữ vững ổn định chính trị, xã
hội. Nếu Tòa án bỏ sót đương sự sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xác minh thu thập không đầy đủ chứng cứ vụ án sẽ không giải quyết được
triệt để, người dân gửi đơn khiếu nại đến nhiều cấp, vụ án được Tòa án có thẩm
quyền xem xét lại, có thể bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, dẫn đến tốn
kém kinh phí của Nhà nước do phải xét xử lại ở nhiều cấp; không giữ được hòa
thuận giữa các bên đương sự, ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, xã hội địa phương.
1.1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM có ý nghĩa giúp cho HĐXX nắm bắt
được toàn bộ nội dung vụ án, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án diễn ra nhanh
chóng, chính xác, đảm bảo chất lượng, đúng quy định của pháp luật, hạn chế kháng
cáo, kháng nghị phúc thẩm, khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm.
Mục đích của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là chuẩn bị các điều kiện
cần thiết cho phiên tòa sơ thẩm. Khi đã chuẩn bị đầy đủ về nội dung của vụ án thì
Thẩm phán sẽ chủ động khi điều khiển phiên tòa, các Hội thẩm nhân dân nghiên
cứu hồ sơ kỹ càng, nắm bắt đầy đủ các tình tiết vụ án, dự kiến các tình huống phát
[12]14. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội

19


×