Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại từ thực tiễn tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

KHỞI KIỆN VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN

PHẠM VĂN THUẪN

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHỞI KIỆN VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN
PHẠM VĂN THUẪN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG NGỌC THỈNH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả và kết luận nêu trong luận văn
là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy
đủ theo quy định.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Phạm Văn Thuẫn


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của trường Đại học Mở Hà Nội và sự đồng ý của Giáo viên
hướng dẫn TS. Hoàng Ngọc Thỉnh tôi đã thực hiện đề tài “Khởi kiện vụ án kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên” cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
chuyên ngành Luật kinh tế.
Để hoàn thành đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại
lớp Cao học Luật Kinh tế Khóa học 2017-2019, trường Đại học Mở Hà Nội.
Xin gửi tới Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên lời cảm tạ sâu sắc vì đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp tôi thu thập số liệu thực tiễn cũng như những tài liệu nghiên
cứu cần thiết liên quan đến đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã tận
tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Xong do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận
với thực tế quá trình thực thi pháp luật cũng như hạn chế về kiến thức và kinh
nghiệm nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân
chưa thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý của quý Thầy, Cô giáo, nhà trường,
các nhà khoa học và quý bạn đọc để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo, các đơn vị
và cá nhân đã giúp đỡ trong quá trình học tập và thực hiện đề tài này.

Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Phạm Văn Thuẫn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI..........................................................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại .............7
1.1.1. Khái niệm ..........................................................................................................7
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại....................................9
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại .....................................12
1.2. Nội dung các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án kinh doanh, thương
mại trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành ...........................................................14
1.2.1. Về chủ thể khởi kiện ........................................................................................14
1.2.2. Phạm vi các tranh chấp kinh doanh thương mại được khởi kiện ...................18
1.2.3. Điều kiện khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại ........................................19
1.2.4. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện và gửi đơn, nộp đơn khởi kiện.................23
1.2.5. Quy trình tiếp nhận đơn và xử lý đơn khởi kiện............................................277
1.2.6. Thụ lý vụ án và thông báo việc thụ lý .............................................................28
Chương 2: MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, HẠN CHẾ TỪ THỰC TIỄN KHỞI
KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TỈNH ĐIỆN
BIÊN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ........................................................................355
2.1. Một số nét khái quát về kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên............................355
2.2. Kết quả giải quyết đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại và một số hạn
chế của các cấp xét xử trên địa bàn tỉnh Điện Biên ................................................366
2.2.1. Một số kết quả đạt được trong thực tiễn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương

mại tại Tỉnh Điện Biên ............................................................................................366
2.2.2. Một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương
mại tại Tỉnh Điện Biên ............................................................................................544
2.3. Một số kiến nghị...............................................................................................655
KẾT LUẬN ............................................................................................................699
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................70
PHỤ LỤC .....................................................................................................................


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

GIẢI NGHĨA

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTTM

Bộ luật tố tụng thương mại

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất


KDTM

Kinh doanh thương mại

LDN

Luật Doanh nghiệp

LĐT

Luật Đầu tư

LTM

Luật Thương mại

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTTM

Tranh chấp thương mại

VADS


Vụ án dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân” [23]; đồng thời “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ” [23]. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, chủ
động hội nhập quốc tế là những quyết sách hàng đầu. Vấn đề này đã được khẳng
định trong nhiều văn kiện của Đảng như: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 [2]; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [3]; Nghị
quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX [5]. Sau hơn 20 năm đổi mới và mở
cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu
thương mại ngày càng phát triển. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã tạo điều
kiện cho các quan hệ thương mại hình thành và phát triển đa dạng, phức tạp. Trước
khi ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, vấn đề khởi kiện vụ án
dân sự (VADS), kinh doanh, thương mại, ly hôn, tranh chấp đất đai v.v… đã được
quy định trong bốn Pháp lệnh về thủ tục tố tụng. Đó là: Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự 1989; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm
1994; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996. Các quy
định về khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại trong các Pháp lệnh này là cơ sở
pháp lý quan trọng để các chủ thể có thể sử dụng bảo vệ quyền lợi của mình trước
Tòa án và cũng là cơ sở để Tòa án xem xét thụ lý giải quyết vụ tranh chấp. Bộ Luật
tố tụng Dân sự năm 2004 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 15 tháng 6 năm 2004 đã kế thừa và phát

triển các quy định của bốn Pháp lệnh về thủ tục tố tụng dân sự, khởi kiện vụ án kinh
doanh, thương mại trước đó. Bộ Luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 đã khắc

1


phục được một số hạn chế, vướng mắc của BLTTDS năm 2004 về hình thức, nội
dung đơn khởi kiện; trả lại đơn khởi kiện; Khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn
khởi kiện. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật này về khởi kiện vụ án Kinh
doanh, thương mại vẫn còn hạn chế và bất cập. Sự thiếu cụ thể, rõ ràng của một số
quy định của pháp luật đã làm cho đương sự khó khăn khi xác định các điều kiện
khởi kiện để nộp đơn khởi kiện, khó khăn cho Tòa án khi thụ lý các đơn khởi kiện.
Năm 2013, Hiến pháp năm 2013 ra đời đã ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền
dân sự cơ bản của công dân, các quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án Kinh doanh,
thương mại trong BLTTDS sửa đổi năm 2011 cũng cần được sửa đổi nhằm cụ thể
hóa việc thực hiện các quyền này. Do vậy, ngày 25/11/2015 Quốc hội đã thông qua
BLTTDS năm 2015. Bộ Luật TTDS lần này đã có nhiều thay đổi quan trọng, bảo
đảm tốt hơn quyền khởi kiện của chủ thể trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tỉnh
Điện Biên khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực (01/7/2016) vẫn còn gặp nhiều
vướng mắc, bất cập, có nhiều ý kiến khác nhau trong việc thực hiện các quy định
này và chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách đầy đủ và thống
nhất. Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 cũng có nhiều quy định mới cần được tìm hiểu
thấu đáo cũng như hướng dẫn để triển khai áp dụng trên thực tế. Để điều chỉnh và
tạo khung pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp, Quốc hội Việt Nam đã ban
hành Luật Doanh nghiệp (LDN) 2005, Luật Thương mại (LTM) 2005, Luật Đầu tư
2005 và Luật Trọng tài thương mại 2010, bước đầu đã giúp hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp đi đúng hướng. Khi các quan hệ thương mại càng phát triển
đa dạng và phức tạp, tranh chấp xảy ra là điều tất yếu. Để giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh thương mại (KDTM) các bên cần phải lựa chọn một phương thức

giải quyết tranh chấp phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, mối quan
hệ giữa các bên, thời gian và chi phí. Trong các phương thức giải quyết tranh chấp,
bên cạnh thương lượng và trọng tài thì phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa
án rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt được ưa chuộng tại các quốc gia có nền kinh
tế phát triển do những ưu điểm vượt trội của phương thức này so với phương thức
tố tụng. Tuy nhiên, tại Việt Nam phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án

2


trong kinh doanh thương mại còn khá mới và chưa được sử dụng rộng rãi bởi nhiều
nguyên nhân về pháp lý cũng như con người.
Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
tại Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Điện Biên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Khởi kiện
vụ án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên” để bản thân hiểu sâu
sắc thêm các vấn đề nghiên cứu, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đảm
bảo cho việc giải quyết khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu
Các hoạt động kinh doanh, thương mại trong thời kỳ hội nhập quá phong phú,
đa dạng làm cho số lượng tranh chấp phát sinh trong hoạt động này ngày càng nhiều
và ngày càng phức tạp. Nếu trước đây, các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường
là tranh chấp về mua bán hàng hóa và một phần về cung ứng dịch vụ, thì hiện nay,
nhiều loại tranh chấp mới đã phát sinh như tranh chấp về mua bán, chuyển nhượng
thương mại,... Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với mục tiêu lợi
nhuận được đặt lên hàng đầu, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thu
hút rất nhiều các phát sinh tranh chấp nhằm tranh giành lợi ích giữa các bên tham gia.
Do đó, hiện nay các vấn đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh, thương mại được rất
nhiều người quan tâm, bao gồm các phương thức giải quyết tranh chấp khi nó phát
sinh, nhất là thủ tục khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài cho thấy, trong thời gian trước và sau

khi Bộ Luật TTDS được ban hành đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại. Công trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp
cơ sở của Trường đại học luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải
quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp” do Trần Anh Tuấn chủ
nhiệm năm 2010 [39]. Một số bài viết được công bố trên tạp chí như bài viết “Vấn
đề khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự” của Lê Thị Bích Lan năm 2005 [16]; “Xây
dựng quy định pháp lý đảm bảo quyền khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh tại toà án” của tác giả Lê Thế Phúc năm 2007 [19]; “Bàn về điều kiện khởi
kiện của các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay” của tác giả
Trịnh Huy Tân [28]; “Về việc rút đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự”

3


của Ths Nguyễn Triều Dương [6]; “Về điều kiện khởi kiện tranh chấp thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong một vụ án cụ thể” của tác giả Ngô
Đình Quyến [27]; “Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của
tác giả Trần Anh Tuấn [38]; “Những vấn đề cơ bản lưu ý khi thụ lý đơn khởi kiện,
khởi tố, đơn yêu cầu trong giải quyết vụ án dân sự” của tác giả Duy Kiên [15]; bài
viết: “Một số ý kiến về thời hiệu khởi kiện theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung
Bộ luật tố tụng dân sự 2004” của tác giả Lê Mạnh Hùng [11]. Bài viết “Những quy
định mới về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hương [13]...
Về Luận văn, luận án có Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Công Bình năm
2006 với đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam” [1]; Luận văn thạc sỹ luật học của học viên Liễu Thị Hạnh bảo vệ năm 2009
về đề tài “Thụ lý vụ án dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [7]; Luận văn
thạc sĩ luật học “Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự
Việt Nam” của tác giả Trần Đức Thành [30]; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nguyễn Thị Hương với đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố

tụng dân sự năm 2004” [12]; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thu
Hiền với đề tài “Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam” [8]; Luận văn thạc sỹ luật học của học viên Trần Thị
Lượt bảo vệ năm 2014 với đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự” [18]. Tuy nhiên, các
công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái quát về từng khía
cạnh riêng lẻ của khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, vụ án kinh doanh, thương mại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ
án kinh doanh thương mại; nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại
Tòa án trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ xác định những hạn
chế của pháp luật hiện hành, những điểm mới của BLTTDS năm 2015 và vấn đề
triển khai thực hiện trên thực tế cũng như những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn
thực hiện khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa án trên địa bàn tỉnh Điện

4


Biên, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện, triển khai pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài tập trung vào
một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại,
cũng như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy
định đó.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 về khởi kiện vụ án kinh, doanh thương mại.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về
khởi kiện vụ án dân sự tại các Tòa án trên địa bàn Tỉnh Điện Biên; những vướng
mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định đó tại Tòa án.

- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của Luật thương mại tại các Tòa
án trên địa bàn tỉnh Điện Biên, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định đó tại
Tòa án.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại nhằm góp phần giải
quyết nhanh chóng, chính xác các vụ án kinh doanh thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại và thực tiễn
thực hiện các quy định đó tại Tòa án trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Trong khuôn khổ
của Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, với giới hạn về thời gian nghiên cứu, thực hiện
đề tài, Luận văn chỉ nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản của khởi
kiện vụ án kinh doanh thương mại, cũng như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở
của khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại, nội dung các quy định của BLTTDS
năm 2015, các văn bản hướng dẫn về khởi kiện vụ án dân sự và giới hạn thực tiễn
thực hiện việc khởi kiện đó trong phạm vi địa bàn tỉnh Điện Biên.
Phạm vi nghiên cứu: Các quy định của pháp luật Việt Nam về khởi kiện vụ
án kinh doanh, thương mại tại Tòa án được quy định trong BLDS 2015, BLTTDS

5


2015, Luật Trọng tài thương mại 2010, các đạo luật có liên quan như LTM 2005,
LDN 2005, LĐT 2005 các luật có liên quan và các văn bản hướng dẫn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước qua
các giai đoạn lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu của khóa luận là đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng

thực tiễn kiểm chứng lý luận. Ngoài ra, để thực hiện việc nghiên cứu tác giả cũng sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn
giải, suy diễn logic.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan
đến khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại. Những đóng góp mới của Luận văn:
Phân tích, luận giải có hệ thống các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự
năm 2015 và Bộ Luật dân sự (BLDS) năm 2015; Luật thương mại năm 2005 về
khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại; đánh giá được thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng những quy định về khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án
trên địa bàn tỉnh Điện Biên; phân tích và luận giải những khó khăn, vướng mắc nảy
sinh từ thực tiễn thực hiện pháp luật về khởi kiện vụ án trên thực tế. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu, Luận văn đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những
quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
cũng như bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật trên thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm hai chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Khái quát chung về khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Chương 2: Một số vướng mắc, hạn chế từ thực tiễn khởi kiện và thụ lý vụ án
kinh doanh, thương mại tại tỉnh Điện Biên và một số kiến nghị.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm

Tại Điều 186, Chương VII cuốn Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015 định
nghĩa: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm
quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [14, tr.238].
Tranh chấp kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung
đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình thực hiện
hoạt động kinh doanh thương mại.
Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại có thể hiểu dưới góc độ là một
quyền tố tụng hoặc một hành vi tố tụng. Nếu xét dưới góc độ là quyền thì quyền
khởi kiện của các chủ thể phải được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống cơ quan tư
pháp, trong đó có Tòa án. Tòa án phải tạo điều kiện và bảo đảm cho đương sự thực
hiện được quyền khởi kiện của mình. Nếu xét khởi kiện dưới góc độ là hành vi tố
tụng của chủ thể có quyền lợi hoặc chủ thể được pháp luật trao quyền khởi kiện thì
hành vi này cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện, trình tự thủ
tục, thời hạn và Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xem xét yêu cầu các chủ thể phải
thực hiện theo các quy định này.
Trong xã hội có Nhà nước thì quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân đã được
pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền do Nhà nước quy định
bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của mình. Cổ luật La Mã đã ghi nhận quyền khởi kiện
của công dân La Mã, theo đó, người có quyền lợi bị xâm phạm có quyền khởi kiện
đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Người bị vi phạm có thực hiện
quyền khởi kiện hay không, điều này pháp luật không bắt buộc mà phụ thuộc vào ý

7


chí của người đó. Trong xã hội ngày nay, khởi kiện là một trong những nhóm quyền
tố tụng thuộc quyền con người. Theo Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
năm 1948 thì: “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có

thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm
các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận” [17, tr.12].
Ở Việt Nam, về phương diện lý luận, Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng định
trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội rằng: “Quyền
khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã
hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của tập thể
của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm” [31, tr.109110]. Các vụ án kinh doanh thương mại thực chất đều là các vụ án được khởi kiện
theo trình tự của tố tụng dân sự. Theo đó, khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là
hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Phan Chí Hiếu cho rằng “quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá
nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của
Nhà nước, tập thể hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm” (trích
theo Trần Anh Tuấn) [38].
Theo nghiên cứu trên thì bản chất của khởi kiện là thực hiện quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi quyền, lợi ích này bị tranh chấp hay vi
phạm. Khởi kiện là thực hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích của
nguyên đơn và theo nghĩa rộng thì khởi kiện là thực hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền lợi của nguyên đơn, quyền và quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền yêu cầu của
mình trước khi nguyên đơn khởi kiện vụ án. Theo Nguyễn Công Bình: Trong vụ án
kinh doanh thương mại, lợi ích pháp lý của người có quyền và nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn và bị đơn.
Thông thường người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập có đủ

8


điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại nhưng do vụ án kinh

doanh thương mại đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu không việc bảo vệ quyền và
lợi ích của họ sau đó sẽ gặp khó khăn [1].
Như vậy, khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là việc cá nhân, cơ quan, tổ
chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo
vệ lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó đang bị xâm
phạm hay có tranh chấp với chủ thể khác.
Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là hành vi tố tụng đầu tiên của chủ
thể có quyền lợi hoặc người đại diện của họ làm phát sinh các quan hệ pháp luật tố
tụng kinh doanh, thương mại. Việc thực hiện quyền khởi kiện vụ án kinh doanh,
thương mại thể hiện bằng việc nguyên đơn nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
án, là sự kiện thực tế có ý nghĩa pháp lý làm phát sinh quá trình tố tụng về kinh
doanh, thương mại.
Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức
hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu
tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác.
Ngoài khái niệm khởi kiện nêu trên, vấn đề khởi kiện vụ án kinh doanh
thương mại có thể còn được hiểu theo nghĩa rộng như sau:
Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh việc khởi kiện gồm: chủ thể khởi kiện; điều kiện khởi kiện; hình thức
khởi kiện và trình tự thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân.
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Chủ thể trong khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại chủ yếu là các thương
nhân. Thương nhân là chủ yếu, bởi vì trong một số trường hợp, chủ thể của tranh
chấp thương mại còn có thể là các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân.
Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại được xem là công cụ hữu hiệu nhất
trong toàn bộ các phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng để giải

9



quyết các tranh chấp và mâu thuẫn lợi ích. Hoạt động khởi kiện vụ án kinh doanh
thương mại cũng có những đặc điểm như khởi kiện vụ án dân sự:
a. Khởi kiện là hoạt động do các chủ thể có quyền lợi hoặc được pháp luật
trao quyền thực hiện theo quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng
quy định.
Về nguyên tắc thì trừ các trường hợp đặc biệt mà pháp luật có quy định thì
chủ thể có quyền khởi kiện thường là chủ thể của các quan hệ pháp luật kinh doanh
thương mại có tranh chấp. Cụ thể là khởi kiện được pháp luật ghi nhận dưới dạng
quyền khởi kiện tại Điều 161, Điều 162 BLTTDS sửa đổi năm 2011 và Điều 186,
Điều 187 BLTTDS năm 2015, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại
(sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ
quyền hay lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài đương sự thì việc khởi kiện yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cũng được trao cho một số chủ thể khởi kiện để
bảo vệ quyền lợi của người khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Khởi
kiện vụ án phải do các chủ thể trên thực hiện.
b. Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là hoạt động tố tụng mà các
đương sự được tự do định đoạt trong việc bảo vệ quyền lợi của mình
Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là hoạt động trong đó các đương sự
được tự do định đoạt, theo đó thương nhân, cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể
khác có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại có quyền thực hiện hoặc không thực
hiện hoạt động khởi kiện vụ án để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có
hành vi xâm phạm quyền dân sự phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt
hại hoặc theo thỏa thuận của các bên. Đây là đặc điểm đặc trưng của hoạt động này.
Việc khởi kiện được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và quyền tự do của cá nhân,
đồng thời pháp luật cũng ghi nhận việc tự định đoạt và tự thỏa thuận của các chủ
thể. Điều này xuất phát từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật kinh doanh
thương mại, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động nên trong tố tụng dân sự thì các

đương sự có quyền tự định đoạt về việc bảo vệ quyền lợi của mình.Các đương được

10


tự do lựa chọn các phương thức để bảo vệ quyền lợi của mình như trung gian hòa
giải, trọng tài hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
c. Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại được pháp luật ghi nhận là hoạt
động tố tụng đầu tiên bảo vệ quyền dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm và các chủ thể được pháp luật trao quyền
Cụ thể khởi kiện được pháp luật ghi nhận dưới dạng quyền cầu viện công lý
bảo vệ quyền lợi của chủ thể và đây là hoạt động tố tụng đầu tiên trong quá trình
bảo vệ quyền lợi. Xuất phát từ yêu cầu của việc cần đảm bảo quyền con người, khi
quyền hay lợi ích bị xâm phạm thì chủ thể có quyền hoặc được pháp luật trao quyền
có thể nhờ sự can thiệp của Tòa án thông qua việc làm đơn khởi kiện. Việc làm đơn
khởi kiện là bước đầu tiên trong hoạt động khởi kiện, từ việc làm đơn gửi Tòa án sẽ
phát sinh những thủ tục tố tụng tiếp theo như đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý hay
không thụ lý, nếu đơn được chấp nhận Tòa án sẽ ra các quyết định tố tụng khác để
giải quyết vụ án… Chính vì vậy, khởi kiện được coi là hoạt động không thể thiếu để
làm phát sinh vụ án dân sự về kinh doanh thương mại.
d. Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại là tiền đề cho các hoạt động tố
tụng tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại
Xét dưới góc độ là quyền thì việc khởi kiện phải được bảo đảm thực hiện bởi
các hoạt động khác do các cơ quan tố tụng thực hiện như Cơ quan thi hành án dân
sự thực hiện việc thu tạm ứng án phí, lệ phí; Tòa án xem xét thực hiện việc thụ lý,
chuẩn bị xét xử, hòa giải, xét xử vụ án để ra phán quyết, Viện kiểm sát thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự. Khởi kiện vụ án kinh
doanh thương mại được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Hoạt
động ngay sau việc nộp đơn khởi kiện là hoạt động xem xét đơn khởi kiện. Tòa án
sau khi nhận đơn khởi kiện sẽ xem xét đơn và trong thời hạn luật định phải ra một

trong các quyết định thụ lý nếu thuộc thẩm quyền; chuyển đơn nếu không thuộc
thẩm quyền và trả lại đơn. Khởi kiện chính là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác nhau tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ
sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.

11


Ngoài những nét tương đồng như trên, khởi kiện vụ án kinh doanh thương
mại còn có những đặc trưng sau:
- Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại là do tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các chủ thể là thương nhân, cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau. Ngoài ra còn có Tranh chấp giữa người chưa
phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với
công ty, thành viên công ty;
- Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh trong hoạt động thương mại
là những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích vật chất giữa cá nhân, tổ chức với nhau đều
có mục đích lợi nhuận và giá trị tranh chấp thường có giá trị lớn trong mua bán
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư;
- Thời gian giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại cần phải giải quyết sớm
hơn vụ án dân sự, nó đòi hỏi phải nhanh chóng, thuận lợi, không làm cản trở hoạt
động kinh doanh.
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
a. Khởi kiện là phương thức bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích kinh doanh trên cơ
sở quyền tự định đoạt của các chủ thể
Theo đó, khởi kiện là phương thức để các chủ thể có thể hành động ngay tức
khắc để tự bảo vệ các quyền dân sự của mình, tránh nguy cơ bị xâm phạm như đòi
bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe, khởi kiện yêu cầu thực hiện đúng hợp
đồng, khởi kiện để yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực
hiện quyền dân sự. Để ngăn chặn kịp thời hậu quả của hành vi vi phạm, người khởi

kiện còn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng
lúc với việc nộp đơn khởi kiện. Từ việc khởi kiện, các cơ quan tố tụng sẽ có hành
động can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, thiệt
hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp luật và sớm khôi
phục lại mối quan hệ thiện chí, cởi mở, giao hòa giữa các bên trong lĩnh vực kinh
doanh, thương mại.

12


b. Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại là hành vi đầu tiên của cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự, tạo tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo tại Tòa án
Bản chất của việc khởi kiện là triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một
trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của
người khác khi các quyền hay lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp. Không có
hoạt động khởi kiện thì cũng không có quá trình tố tụng dân sự cho các giai đoạn
tiếp theo. Tòa chỉ thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của các chủ
thể đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Khi việc khởi kiện đáp ứng
được các yêu cầu thì Tòa án tiến hành thụ lý vụ án. Tòa án sẽ vào sổ thụ lý vụ án để
giải quyết. Như vậy, khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại là cơ sở, tiền đề để
Tòa án nhân danh nhà nước giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại.
c. Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại góp phần hình thành và nâng cao
ý thức pháp luật của người dân
Thông qua các quy định của pháp luật về quyền khởi kiện và khởi kiện vụ án
kinh doanh, thương mại sẽ góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ
thể tham gia quan hệ kinh doanh, thương mại, đồng thời có ý nghĩa răn đe, ngăn
chặn các hành vi xâm phạm quyền lợi của các chủ thể, đảm bảo sự ổn định của các
quan hệ xã hội.
Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại là một phương thức xử sự văn minh

thay thế cho việc các cá nhân tự do hành xử trong việc giải quyết tranh chấp
Do địa vị pháp lý của các bên trong quan hệ pháp luật nội dung là bình đẳng
nên một bên không thể tự mình cưỡng chế bên kia phải thực hiện nghĩa vụ của mình,
họ cần phải tìm đến một chủ thể có địa vị pháp lý cao hơn, có quyền năng đặc biệt để
can thiệp giúp họ khôi phục lại quyền hay lợi ích bị xâm hại và chủ thể đặc biệt đó
chính là Nhà nước. Thay vì hành xử bằng các hành vi, lời nói giữa các bên thì việc
lựa chọn khởi kiện tại cơ quan có thẩm quyền là lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, tránh
đẩy mâu thuẫn, tranh chấp đến mức xử sự thiếu văn minh, thậm chí tiếp tục làm
phương hại tới nhau. Vì vậy, việc khởi kiện với nghĩa là hoạt động của chủ thể có

13


quyền triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo
vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi ích
này bị xâm phạm được coi là một hoạt động mang tính chất văn minh.
1.2. Nội dung các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án kinh doanh,
thương mại trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, khởi kiện vụ án dân sự nói
chung là quyền của các đương sự khi có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Vì
vậy để quyền khởi kiện này có tính khả thi, pháp luật tố tụng quy định nghĩa vụ của
tòa án không được từ chối giải quyết vụ kiện đó và tòa án còn phải có trách nhiệm
bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện cũng như quyền bảo vệ của họ. Vì
vậy pháp luật tố tụng dân sự đã quy định cả hệ thống quy phạm điều chỉnh hoạt
động tố tụng của hai chủ thể quan trọng nhất gồm hai nhóm:
- Quyền và nghĩa vụ của chủ thể khởi kiện;
- Quyền và nghĩa vụ của tòa án.
1.2.1. Về chủ thể khởi kiện
Có hai loại chủ thể khởi kiện:
- Chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

- Chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác.
Điều 186 BLTTDS quy định: Cơ quan, tổ chức cá nhân tự mình khởi kiện vụ
án kinh doanh thương mại tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu tòa bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Khi quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể này bị xâm
phạm hoặc tranh chấp thì họ có quyền tự định đoạt là khởi kiện hay không khởi kiện
đến Tòa án có thẩm quyền. Họ là cá nhân, cơ quan, tổ chức với tư cách là đương sự
khởi kiện.
Nếu người khởi kiện là cá nhân thì phải là người cụ thể, có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự, nghĩa là phải đủ 18 tuổi trở lên, có thể chất
và tâm sinh lý phát triển bình thường về trí tuệ và nhận thức thì họ có thể tự mình
khởi kiện.

14


Trong trường hợp cá nhân là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó
khăn trong nhận thức thì việc thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện
hợp pháp của họ.
Đối với cơ quan, tổ chức muốn thực hiện quyền khởi kiện thì cơ quan, tổ
chức đó phải có tư cách pháp nhân [26].
Ngoài loại chủ thể có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích của mình quy
định tại điều 186 thì theo Điều 187 quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của nhà nước gồm:
- Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong
trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc
khi được người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của quyền đại diện
cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi
kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền

khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật [26].
Chủ thể là các cá nhân, thương nhân; đại diện cho các tổ chức, các hộ kinh
doanh, Công ty, Doanh nghiệp… đảm bảo các điều kiện sau đây có thể khởi kiện:
- Có năng lực hành vi dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự;
- Có quyền, lợi ích bị xâm phạm;
- Có toàn quyền quyết định và tự định đoạt;
- Vụ án khởi kiện phải đúng thẩm quyền của Tòa án [26].
Khi một chủ thể cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, theo quy
định của pháp luật chủ thể đó có quyền nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo
vệ quyền lợi cho mình. Tuy nhiên, để yêu cầu của họ được Tòa án thụ lý giải quyết
thì chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự. Quyền khởi kiện là một trong những điều kiện quan trọng để Tòa án thụ lý
vụ án về kinh doanh, thương mại. Chủ thể có quyền khởi kiện là chủ thể của quan
hệ pháp luật kinh doanh, thương mại có tranh chấp hoặc các chủ thể khác được

15


pháp luật quy định. Các chủ thể có quyền khởi kiện được quy định cụ thể tại Điều
186, Điều 187 BLTTDS năm 2015 [26].
Chủ thể có quyền khởi kiện muốn tự mình khởi kiện thì cần phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật dân sự là khả năng
pháp luật quy định cho cá nhân, tổ chức có các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân
sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng dân sự.
a. Cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình với tư cách là nguyên đơn:
- Đương sự là những người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố
tụng dân sự trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi dân sự thì năng lực tố

tụng dân sự của họ được xác định theo quyết định của Tòa án. Họ tự thực hiện quyền
khởi kiện thì họ có thể tự mình hoặc ủy quyền khởi kiện vụ án.
- Đương sự là những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao
động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, có
thể thực hiện quyền khởi kiện về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động
hoặc giao dịch kinh doanh, thương mại đó.
- Đương sự là những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi (trừ trường hợp
trên), người mất năng lực hành vi dân sự có quyền khởi kiện nhưng việc khởi kiện
phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
- Đương sự là những người chưa đủ 6 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi
dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự [26].
b. Cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình với tư cách là
nguyên đơn phải có tư cách pháp nhân:
Trường hợp đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức thực hiện việc khởi
kiện vụ án, thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của
cơ quan, tổ chức, phải ghi họ tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ
quan, tổ chức đó. Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên
của cơ quan, tổ chức, ghi chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ

16


chức; người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ký tên, ghi họ, tên của người
đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức và đóng dấu của cơ quan, tổ chức.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền cho
người khác thực hiện việc khởi kiện vụ án thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi
kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải ghi họ tên, chức vụ của
người đại diện theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức đó, văn bản ủy quyền (số, ngày,
tháng, năm) và chức danh của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy
quyền. Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của cơ

quan, tổ chức, ghi dòng chữ “Người đại diện theo ủy quyền”; người đại diện theo ủy
quyền ký tên, ghi họ, tên của người đại diện theo ủy quyền và đóng dấu của cơ
quan, tổ chức.
Trường hợp văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân thực hiện việc
khởi kiện vụ án phát sinh từ giao dịch kinh doanh, thương mại do văn phòng đại diện,
chi nhánh xác lập thực hiện, thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi
ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải ghi họ tên, chức vụ của người đứng đầu
văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân, văn bản ủy quyền (số, ngày, tháng,
năm) và chức danh của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền. Tại
mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của pháp nhân, ghi
chức vụ của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân; người
đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân ký tên; ghi họ, tên của người
đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân. Đóng dấu của pháp nhân
hoặc đóng dấu của văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân [10].
c. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước và lợi ích của người khác như quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều
187 BLTTDS năm 2015
Nếu hiểu khởi kiện theo nghĩa rộng thì chủ thể thực hiện việc khởi kiện còn
bao gồm cả trường hợp bị đơn thực hiện quyền phản tố và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án. Phản tố là quyền của bị đơn trong vụ
án kinh doanh, thương mại. Thực chất việc phản tố của bị đơn là là việc bị đơn khởi

17


kiện ngược lại nguyên đơn, nhưng được xem xét, giải quyết cùng với đơn khởi kiện
của nguyên đơn trong vụ án vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt
chẽ với nhau. Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn không liên quan đến
đơn khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành một vụ án mới. Theo
Điều 200 BLTTDS năm 2015 thì quyền phản tố của họ chỉ được chấp nhận khi

thuộc một trong các trường hợp sau: Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu
của nguyên đơn; Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu
của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ
án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Việc xác định
đúng có phải là yêu cầu phản tố của bị đơn hay không đòi hỏi người thẩm phán phải
có sự nghiên cứu kỹ lưỡng yêu cầu của bị đơn cũng như các quy định tại khoản 2
Điều 200 BLTTDS sửa đổi năm 2015 [26].
Bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố với nguyên đơn trong thời hạn kể từ khi
nhận được thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu nộp ý kiến bằng văn bản cho đến khi
Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Quy định mới này giúp cho việc
giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn của Tòa án được chủ động và hợp lý hơn. Bởi
lẽ, nếu quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử như trước đây sẽ dẫn tới trường hợp Tòa án đã tiến hành
hòa giải xong đối với vụ án thì bị đơn mới đưa ra yêu cầu phản tố. Lúc đó, Tòa án
lại phải tiến hành các thủ tục xác minh, thu thập chứng cứ, sau đó mới tiến hành hòa
giải riêng đối với yêu cầu phản tố của bị đơn và như vậy, việc giải quyết vụ án sẽ bị
kéo dài, gây tốn kém về thời gian, công sức của cơ quan tiến hành tố tụng và của
các đương sự.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
1.2.2. Phạm vi các tranh chấp kinh doanh thương mại được khởi kiện
Các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại được khởi kiện gồm các loại
tranh chấp liên quan đến lợi ích về vật chất, kinh doanh bị xâm phạm như:

18


- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;

- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty;
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty;
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Điều kiện khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Ngoài chủ thể khởi kiện phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố
tụng dân sự thì khi khởi kiện phải đảm bảo các điều kiện sau:
a. Có quyền, lợi ích bị xâm phạm hoặc tranh chấp
b. Việc khởi kiện vụ án phải đúng thẩm quyền xét xử của Tòa án
- Việc khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại phải thực hiện tại Tòa án có
thẩm quyền xét xử vụ án đó.
Về nguyên tắc thì chủ thể khởi kiện phải gửi đơn khởi kiện về kinh doanh,
thương mại đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định của
pháp luật. Thẩm quyền của Tòa án được quy định tại BLTTDS năm 2015, bao gồm
thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ.
Khi tiếp nhận đơn khởi kiện thì Thẩm phán được phân công phải xem xét
đơn khởi kiện có thuộc thẩm quyền của Tòa án theo loại việc được quy định tại các
Điều 30, 31 BLTTDS năm 2015 hay không. Nếu đã thuộc thẩm quyền của Tòa án
thì phải đối chiếu với Điều 35, 36, 37,38,39, 40 để xem xét vụ việc đó thuộc thẩm

19



×