Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thủ tục phúc thẩm trong giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại từ thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.96 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN: TRẦN MINH CHÂU

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN PHƯƠNG THẢO

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học rất nghiêm
túc của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố bởi bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn là đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Minh Châu


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi xin chân thành


cảm ơn sự giảng dạy nhiệt tình của các thầy cô giáo Trường Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Phương Thảo đã dành nhiều thời gian,
tâm huyết, tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn lãnh đạo và các cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc đã tạo điều kiện và hỗ trợ tôi về tài liệu vụ việc thực tế, số liệu thống kê có giá
trị trong quá trình nghiên cứu của tôi.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên, tạo điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Học viên

Trần Minh Châu


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

- BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
- HĐXX: Hội đồng xét xử
- TAND: Tòa án nhân dân
- TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
- KDTM: Kinh doanh thương mại
- VAKDTM: Vụ án kinh doanh, thương mại
- PLTTDS: Pháp luật tố tụng dân sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài .........................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................8
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu ..........................................8
7. Cơ cấu của luận văn ................................................................................................9
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC PHÚC
THẨM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI .......10
1.1. Những vấn đề lý luận về thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án kinh doanh,
thương mại ................................................................................................................10
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại ............................................................................................10
1.1.2. Cơ sở của việc quy định về thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án kinh
doanh thương mại ......................................................................................................20
1.1.3. Các yếu tố chi phối đến hiệu quả của thủ tục phúc thẩm giải quyết vụ án kinh
doanh thương mại ......................................................................................................22
1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt nam năm 2015 về thủ tục phúc thẩm
trong giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại ........................................................24
1.2.1. Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm ..............................................24
1.2.2. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm .............................................................................29
1.2.3. Xét xử phúc thẩm ............................................................................................31
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỦ TỤC PHÚC THẨM VỤ ÁN
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH
PHÚC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA THỦ
TỤC PHÚC THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI ...........................38
2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh phúc ...................................................38


2.2. Thực tiễn thực hiện thủ tục phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại tại tỉnh
Vĩnh Phúc ..................................................................................................................39
2.2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................39

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế khi thực hiện thủ tục phúc thẩm để giải quyết các vụ
án kinh doanh thương mại .........................................................................................45
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thủ tục phúc thẩm vụ án kinh
doanh thương mại ......................................................................................................56
2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục
phúc thẩm ..................................................................................................................56
2.3.2. Kiến nghị về thực hiện pháp luật ....................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................69


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xét xử các tranh chấp trong đó có có tranh chấp kinh doanh thương mại
(KDTM) tại tòa án là một phương thức giải quyết tranh chấp “phản án một cách
đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của một nền công lý, biểu hiện tập trung của quyền
tư pháp”1. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy có thể do một nguyên nhân khách
quan nào đó hoặc do “xét xử là hoạt động dựa trên tư duy của các thẩm phán và chỉ
diễn ra trong một thời gian nhất định”2 mà trong một số trường hợp việc xét xử của
tòa án là chưa hoàn toàn đúng đắn, phù hợp, dẫn đến chưa bảo vệ đúng hoặc chưa
bảo vệ đầy đủ các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ tranh chấp. Vì thế
pháp luật cần phải đưa ra và ghi nhận những giải pháp hợp lý để sửa chữa, khắc
phục những thực tế đó. Một giải pháp được đánh giá là rất hợp lý, hiệu quả, bảo
đảm cao nhất quyền con người, quyền công dân là tòa án cấp trên sẽ xét xử lại
những vụ án đã được xét xử trước đó khi bản án quyết định đã tuyên không được
chấp nhận, bị kháng cáo, kháng nghị. Trong tố tụng dân sự, việc xét xử lại đó được
gọi là thủ tục phúc thẩm và trong pháp luật tố tụng dân sự được gọi là chế định phúc
thẩm dân sự.
Ở Việt nam, phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, được thực hiện sau cấp xét xử sơ
thẩm khi có kháng cáo hoặc kháng nghị về bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực. Thủ tục này được ghi nhận trong pháp luật tố tụng dân sự trên cơ sở của nguyên

tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm3, với nhiệm vụ rất quan trọng là khắc
phục sai lầm nếu có của bản án, quyết định sơ thẩm, bảo đảm bản án, quyết định khi
có hiệu lực, được đưa ra thi hành phải là bản án, quyết định đúng đắn. Để xét xử
phúc thẩm được thì trước đó tòa án cấp phúc thẩm đã phải thực hiện xong tất cả các
hoạt động chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm chỉ được
thực hiện sau khi đã có thủ tục thụ lý phúc thẩm của tòa án có thẩm quyền phúc
Đinh Văn Quế (2001), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, trang 3
2
Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2001), Những quan điểm cơ bản về Bộ luật tố tụng dân sự Việt
nam, Đề tài cấp bộ, Hà Nội, trang 204.
3
Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015.
1

1


thẩm. Thủ tục thụ lý này được thực hiện dựa trên căn cứ pháp lý hợp pháp là có đơn
kháng cáo, có văn bản kháng nghị yêu cầu tòa án phúc thẩm xét xử lại vụ án đã
được xét xử sơ thẩm. Như vậy, thủ tục phúc thẩm dân sự bao gồmmột trình tự các
thủ tụctiếp nối nhau, từ kháng cáo, kháng nghị đến thụ lý đơn kháng cáo, kháng
nghị, đến chuẩn bị xét xử phúc thẩm và đến xét xử phúc thẩm. Các thủ tục này được
thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Ở Việt Nam, ngay từ sau khi nước Việt Nam tuyên bố độc lập, trong các văn
bản của nhà nước ta đã có những quy định ban đầu về trình tự thủ tục phúc thẩm vụ
án dân sự. Vụ án dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ không bao gồm những vụ
án hình sự và hành chính, còn lại bao gồm các vụ án phát sinh từ các quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân gia đình, KDTM và lao động. Sau khi thực hiện chính sách
đổi mới, tăng cường phát triển kinh tế quốc tếthì các quan hệ pháp luật KDTM phát

sinh ngày càng nhiều, dẫn đến các tranh chấp KDTM được giải quyết tại tòa án
ngày càng lớn, tỷ lệ các vụ KDTM phải xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm ngày càng
cao. Nhận thức được thực tế đó, nhận thức được vai trò quan trọng của các hoạt
động KDTM trong việc phát triển kinh tế, nhà nước ta đã rất chú trọng công tác xây
dựng các văn bản pháp luật tố tụng dân sự, trong đó có quy định về thủ tục phúc
thẩm để tạo nền tảng pháp lý hiệu quả nhằm giải quyết triệt để, kịp thời các tranh
chấp KDTM. Năm 2004, lần đầu tiên Việt nam ban hành Bộ luật tố tụng dân sự.
Không thể phủ nhận là văn bản pháp luật tố tụng dân sự này đã thể hiện một bước
tiến mới trong hoạt động lập pháp của Việt Nam về lĩnh vực xây dựng pháp luật tố
tụng dân sự, nhưng vì lần đầu tiên xây dựng nên chúng ta không thể tránh được
những thiếu sót, hạn chế nhất định. Vì thế, năm 2011, Việt Nam đã ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2004, theo đó nhiều nội dung đã
được sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên như đã xác định từ ban đầu, việc ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2004 chỉ là giải pháp tạm thời, còn
giải pháp tổng thể là phải xây dựng lại Bộ luật tố tụng dân sự. Vì thế đến năm 2015
Việt nam ban hành BLTTDS năm 2015. Cũng như các tranh chấp dân sự khác, từ
đó đến nay việc giải quyết các tranh chấp KDTM theo thủ tục sơ thẩm hay phúc
thẩm đều được dựa vào BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên do thực tiễn phát triển đa

2


dạng, phức tạp của đời sống xã hội nói chung, của các quan hệ KDTM nói riêng nên
một số quy định của BLTTDS năm 2015, trong đó có quy định về phúc thẩm vẫn
bộc lộ những vướng mắc, bất cập nhất định. Những vướng mắc, bất cập này phải
được khắc phục thì Việt Nam mới tự tin phát triển tốt các quan hệ kinh tế quốc tế,
từ đó mới tự tin trên trường quốc tế. Là một công dân Việt Nam, công tác trong
ngành kiểm sát, hơn nữa lại là một học viên cao học luật, em nhận thức rất rõ vai trò
của pháp luật nói chung đối với việc phát triển kinh tế đất nước, ý nghĩa của thủ tục
phúc thẩm nói riêng trong việc giải quyết vụ án KDTM, vì thế em luôn quan tâm

nghiên cứu để nhằm phát hiện những hạn chế, vướng mắc của pháp luật về thủ tục
phúc thẩm, từ đó tìm ra những giải pháp để khắc phục. Ngoài mối quan tâm trên, do
hiện tại em đang sinh sống và công tác tại tỉnh Vĩnh Phúc nên em luôn quan sát việc
áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án KDTM, đặc biệt là áp dụng thủ tục phúc
thẩm dân sự tại địa phương mình. Với những lý do trên, em đã quyết định chọn đề
tài “Thủ tục phúc thẩm trong giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại từ
thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài tốt nghiệp thạc sĩ Luật học
của mình.Đây là một đề tài có tính cấp thiết, hướng tới thực hiện một trong những
mục tiêu của cải cách tư pháp được đề ra trong Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày
2/6/2005 của Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 “tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự…; bảo
đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người”4.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Là một nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, thủ tục phúc thẩm dân
sự nói chung, thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM phát sinh tại Tòa án nói riêng luôn là
một vấn đề nghiên cứu khoa học Luật tố tụng dân sự, thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Ở nước ta trong thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu đề cập với các mức độ khác nhau, có liên quan đến một hoặc một vài khía cạnh
của vấn đề này. Có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị, Ban chấp hành
trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
4

3


- Những công trình nghiên cứu cấp Bộ, ví dụ “Những quan điểm cơ bản về
BLTTDS Việt nam” do Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm
Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia thực hiện năm 2001 hay “Thực trạng hoạt

động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
xét xử phúc thẩm của các tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao” của TANDTC
thực hiện năm 2006. Đây là những công trình nghiên cứu cách đây nhiều năm, đề
cập đến một số khía cạnh về thủ tục phúc thẩm dân sự nhưng cho đến nay một số
kết quả nghiên cứu trong đó vẫn là những tư liệu nghiên cứu rất đáng quý, vẫn có
thể tham khảo khi nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm dân sự.
- Những công trình nghiên cứu khoa học cấp trườngđược thực hiện khá thành
công, trong đó có nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm dânn sự tại các trường Đại học
đào tạo về luật như Đại học Luật Hà Nội, ví dụ đề tài“Hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” do TS.Trần
Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài năm 2010, đề tài“Bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong tố tụng dân sự” doTS. Nguyễn Thị Thu Hà làm chủ nhiệm đề tài
năm 2017; “Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự Việt nam”
do TS Trần Phương Thảo làm chủ nhiệm đề tài bảo vệ năm 2018. Mặc dù trong các
công trình nghiên cứu này thủ tục phúc thẩm chỉ là một trong những nội dung
nghiên cứu của đề tài nhưng các kết quả nghiên cứu này là những tài liệu nghiên
cứu rất quan trọng cần được thu thập để nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm dân sự.
- Một số luận án, luận văn có đề cập đến thủ tục phúc thẩm như luận án tiến sĩ
“Phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, bảo vệ
thành công tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011; luận văn “Chuẩn bị xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hòa bảo vệ thành công năm
2010, luận văn “Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự” của tác giả
Phạm Xuân Duy bảo vệ thành công năm 2017 tại trường Đại học Luật Hà
Nội…Đây là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, có giá trị tham khảo về mặt
lý luận, giúp tác giả nghiên cứu một số nội dung của thủ tục phúc thẩm dân sự.
- Các giáo trình, sách tham khảo của các trường đại học đào tạo luật có chứa
đựng kết quả nghiên cứu liên quan đến thủ tục phúc thẩm dân sự như Giaó trình
4



Luật tố tụng dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội, của Trường Đại học Mở Hà
Nội, của Học viện tư pháp…Mặc dù trong các giáo trình này chỉ cung cấp được
những kiến thức đại cương, cơ bản nhất về thủ tục phúc thẩm dân sự nhưng lại là
những tài liệu nghiên cứu ban đầu không thể thiếu cho tác giả.
- Các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành như “Kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm dân sự của tác giả Trần Phương Thảo đăng trên tạp chí Luật
học số đặc san góp ý Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; “Về quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát” đăng trên tạp chí Luật học
số 11/2009, “Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
dân sự” đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2010, “Người có quyền kháng cáo
theo thủ tục phúc thqảm dân sự và trách nhiệm của người kháng cáo” đăng trên tạp
chí Luật học số5/2014 và Những sửa đổi, bổ sung về kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm trong BLTTDS năm 2015” đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 6/2016 của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà; “Phúc thẩm dân sự và vấn đề kháng
cáo, kháng nghị bản án, quyết định cuar tòa án cấp sơ thẩm” của tác giả Duy Kiên
đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 15/2012; “Phạm vi xét xử phúc thẩm từ thực
tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở” của tác giả Nguyễn Minh Hằng và
tác giả Vũ thị Hồng Nguyên đăng trên tạp chí Kiểm sát số 18; “Thủ tục kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của BLTTDS năm 2015” của tác giả Vũ Hoàng Anh đăng
trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 5 năm 2017…Các bài viết này có đề cập đến
những khía cạnh khác nhau của thủ tục phúc thẩm dân sự nên là tài liệu tham khảo
để tác giả tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn.
Qua tham khảo các công trình nghiên cứu đã nêu trên, tác giả nhận thấy các
công trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên cứu về đề tài thủ tục phúc thẩm vụ án
dân sự nói chung, chưa nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM.
Khi nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm nói chung, các tác giả cũng đã đưa ra nhiều
quan điểm khác nhau về các nội dung liên quan, tuy nhiên nếu nhìn nhận một cách
tổng thể thì các công trình trên đều chưa nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về
thủ tục phúc thẩm. Đặc biệt một số công trình nghiên cứu chỉ tham khảo được các
kiến thức về lý luận, còn phần quy định của pháp luật thì do các tác giả nghiên cứu

5


dựa trên BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 nên đến nay không còn
hiệu lực. BLTTDS năm 2015 đã thay thế BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011)với rất nhiều điểm mới nên nhiều vấn đề về thủ tục phúc thẩm cần phải có góc
độ tiếp cận mới, cần phải nghiên cứu bổ sung. Kế thừa thành quả nghiên cứu của
các công trình khoa học trước đây về thủ tục phúc thẩm, luận văn của tác giả sẽ tiến
hành phân tích, nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về thủ tục phúc thẩm
vụ án KDTM và đặc biệt tác giả sẽ đầu tư thời gian, kiến thức để tiến hành nghiên
cứu rất nghiêm túc thực tiễn thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM tại Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian gần đây để thấy được những hạn chế cần phải được
khắc phục, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thủ tục sơ thẩm
giải quyết các vụ án KDTM tại Tòa án.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản liên
quan đến thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM tại Tòa án như sáng tỏ những vấn đề lý
luận về thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM; nghiên cứu thực trạng quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự nói chung, vụ án
KDTM nói riêng và nghiên cứu thực tiễn giải quyết vụ án KDTM theo thủ tục phúc
thẩm tại TAND tỉnh Vĩnh Phúc để trên cơ sở đó đưa ra được các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM từ thực tiễn thực của TAND
tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục đích trên, luận văn cần tập trung vào các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Xây dựng được khái niệm, chỉ ra các đặc điểm, phân tích được ý nghĩa của
thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM; nêu được cơ sở của việc quy định thủ tục phúc
thẩm vụ án KDTM, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thủ tục phúc vụ án

KDTM tại Tòa án.

6


- Phân tích được các quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục phúc thẩm
vụ án KDTM.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực tiễn giải quyết các vụ án KDTM theo
thủ tục phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc để từ đó đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật về thủ tục phúc thẩm và một số giải pháp khác nhằm nâng cao
hiệu quả của thủ tục phúc thẩm tại các Tòa phúc thẩm nói chung, tại tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM và thực
tiễn thực hiện thủ tục phúc thẩm VAKDTM tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, cụ
thể là:
- Các vấn đề lý luận về thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM
- Các văn bản pháp luật quy định về thủ tục tố tụng dân sự phúc thẩm dân sự
qua các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là các quy định về thủ tục phúc thẩm vụ án dân
sự của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Thực tiễn giải quyết các vụ án KDTM theo thủ tục phúc thẩm tại TAND tỉnh
Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Thủ tục phúc thẩm có thể tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau,
tuy nhiên trong luận văn này tác giả chọn góc độ nghiên cứu chủ yếu là dưới góc độ
pháp luật. Với đề tài đã chọn, tác giả không nghiên cứu sâu các quy định của pháp
luật nội dung về KDTM mà tập trung nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm vụ án
KDTM, cụ thể là là các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết vụ án
KDTM tại Tòa án theo thủ tục phúc thẩm dân sự.

Trong luận văn này tác giả nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án
KDTM tại Tòa án theo thủ tục phúc thẩm thông thường mà không nghiên cứu về
thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM theo thủ tục rút gọn.
7


Về thực tiễn thực hiện thủ tục phúc thẩm, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
thực tiễn thực hiện các quy định về thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM tại TAND tỉnh
Vĩnh Phúc trong những năm gần đây, từ khi BLTTDS năm 2015 được ban hành đến
năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế đất nước nói chung, về phát
triển các hoạt động KDTM nói riêng và về giải quyết vụ án dân sự nói chung và giải
quyết tranh chấp KDTM nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như:
- Phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lịch sử… được sử dụng trong chương 1 để nghiên cứu các vấn đề lý
luậnvề thủ tục phúc thẩm các vụ án KDTM.
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, phương pháp phân
tích, phương pháp bình luận… cũng được sử dụng trong chương 1 để tìm hiểu các
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trình tự, thủ tục phúc thẩm giải quyết
các vụ án KDTM tại Tòa án.
- Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
quan sát… được sử dụng trong chương 2 để đánh giá thực trạng giải quyết tranh
chấp KDTM theo thủ tục phúc thẩm tại TAND tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đưa ra các

giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục phúc thẩm thẩm vụ án KDTM và
một số giải pháp khác để nâng cao hiệu quả của thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
6.1.Ý nghĩa lý luận:
8


Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện về thủ tục phúc thẩm vụ án
KDTM tại Tòa án theo các quy định của BLTTDS năm 2015. Luận văn sẽ là một tài
liệu góp phần củng cố, bổ sung thêm vào hệ thống các công trình nghiên cứu về vấn
đề giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án theo thủ tục phúc thẩm dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn chỉ ra những bất cập, hạn chế trong những quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 về thủ tục phúc thẩm giải quyết tranh chấp KDTM, từ đó có
những kiến nghị, đề xuất giúp nâng cao hiệu quả của thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM
trên phạm vi toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Những
kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo đối với những người làm công
tác nghiên cứu và áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án
nhân dân. Những kết luận, đề xuất mà luận văn nêu ra đều có cơ sở khoa học và
thực tiễn nên có giá trị tham khảo trong thời gian tới trước yêu cầu phải sửa đổi, bổ
sung pháp luật tố tụng dân sự cho phù hợp thực tiễn áp dụng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu gồm 02 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết vụ án KDTM theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa
án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của thủ
tục phúc thẩm vụ án KDTM.


9


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề lý luận về thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục phúc thẩm trong giải quyết
vụ án kinh doanh, thương mại
* Khái niệm
Nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM phải bắt đầu
từ việc xây dựng khái niệm về thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM. Để
xây dựng được khái niệm khoa họcnày thì trước hết phải giải thích được các khái
niệm thành tố có liên quan như thế nào làvụ án, thế nào là vụ án KDTM,thế nào là
thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM.
Trước hết là về khái niệm vụ án. Lý luận về nhà nước và pháp luật đã chỉ ra
rằng con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội, là “thành viên của gia đình
nhân loại”5 nên không thể không có các mối quan hệ xã hội nhằm phục vụ cho đời
sống vật chất, tinh thần. Trong quá trình thực hiện các quan hệ xã hội, mâu thuẫn,
tranh chấp về quyền, lợi ích giữa người với người là không thể tránh khỏi, vẫn tồn
tại như là một hiện tượng tất yếu.Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, tranh chấp
được hiểu là “Giành giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào” hoặc được
hiểu là “Bất đồng, trái ngược nhau”6. Còn trong nghiên cứu khoa học pháp lý, theo
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, khái niệm tranh chấp trong các lĩnh vực dân

Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giaó trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB
chính trị quốc gia, tr.43.

6
Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB.Giáo dục, Hà Nội, trang 808.
5

10


sự, kinh doanh, hợp đồng (được gọi chung là tranh chấp dân sự) thường được hiểu
là những mâu thuẫn, bất hòa về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật dân sự, ví dụ tranh chấp kinh doanh là những mâu thuẫn, bất
đồng, xung đột giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trong các hoạt động kinh
doanh, tranh chấp hợp đồng được hiểu “là những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn
giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong
hợp đồng”7. Trong tư tưởng lập pháp của Việt Nam về tố tụng dân sự, thuật ngữ
dân sự nếu hiểu theo nghĩa rộng sẽ bao gồm tất cả các vụ việc phát sinh từ các quan
hệ dân sự, hôn nhân gia đình, KDTM và lao động và như vậy các quan hệ về
KDTM là một phần của các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, vụ việc về KDTM là
một phần của vụ việc dân sự. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ dân sự chỉ là
các quan hệ dân sự, các vụ việc dân sự khác với các quan hệ KDTM, hôn nhân gia
đình và lao động, khác với các vụ việc về KDTM, vụ việc về hôn nhân và gia đình,
lao động. Khi có tranh chấp dân sự xảy ra, các bên tranh chấp sẽ lựa chọn một trong
các phương thức phù hợp để giải quyết tranh chấp. Một trong những phương thức
giải quyết tranh chấp được pháp luật thừa nhận là yêu cầu tòa án giải quyết. Khi tòa
án nhận giải quyết thì tranh chấp đó sẽ trở thành vụ án.
Xác định được như trên thì khái niệm vụ án KDTM phải được xây dựng xuất
phát từ khái niệm vụ án nói chung, tức là phải xuất phát từ đặc điểm cơ bản của vụ
án là có tranh chấp về quyền, lợi ích giữa các bên đương sự mà các bên đương sự
trong vụ án KDTM là các bên là chủ thể trong quan hệ kinh doanh, thương mại. Vụ
án KDTM trước hết “là tranh chấp KDTM, chứa đựng những bất đồng, xung đột về
quyền, lợi ích giữa các bên chủ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động thương

mại”8. Khi các bên tranh chấp KDTM không thể tự giải quyết được mâu thuẫn,
tranh chấp của mình thìcó thể họ sẽ có nhu cầu tìm đến bên thứ ba là nhà nước – với
một thứ quyền lực riêng có là pháp luật để giải quyết vấn đề có tranh chấp, mâu

7

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích Thuật ngữ luật học, NXB.Công an nhân

dân, Hà Nội, trang 35.
Nguyễn Hoàng Hải (2017), Hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại từ thực tiễn tòa án
thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ luật học, trang 7
8

11


thuẫn. Trong bộ máy nhà nước của bất cứ quốc gia nào thì TAND cũng là cơ quan
đại diện cho nhà nước giải quyết vấn đề có tranh chấp, mâu thuẫn. Những mâu
thuãn, tranh chấp KDTM khi đã được đem đến tòa ánđể yêu cầu giải quyết và được
tòa án thụ lý, nhận vào giải quyết thì tranh chấp KDTM đó chính thức trở thành vụ
án KDTM. Như vậy, vụ án KDTM có cơ sở hình thành từ tranh chấp về KDTM và
tranh chấp KDTM phát sinh từ các quan hệ KDTM và là hệ quả tất yếu của hoạt
động KDTM trong nền kinh tế thị trường.
Vụ án KDTM so với các vụ án khác như vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao
động thì có những đặc điểm khá khác biệt như vụ án KDTM phát sinh trực tiếp từ
các quan hệ KDTM và luôn gắn liền với mục đích tìm lợi nhuận. Chủ thể của các
tranh chấp KDTM thường là chủ thể kinh doanh có tư cách thương nhân, có đăng
ký kinh doanh hoặc có tư cách của nhà kinh doanh, đã hoặc đang tiến hành các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối,
đại lý, đại diện, ký gửi, thuê và cho thuê, đầu tư tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,

chuyển giao công nghệ… Lý do phát sinh tranh chấp KDTM giữa các chủ thể này
thường là hành vi vi phạm hợp đồng KDTM hoặc vi phạm pháp luật thương mại.
Khi có tranh chấp KDTM xảy ra thì việc giải quyết tranh chấp này bằng phương
thức nào, giải quyết ra sao là do các bên tranh chấp KDTM tự lựa chọn định đoạt.
Vụ án KDTM khá đa dạng9, thường mang yếu tố vật chất, có giá trị lớn và
mục đích của các bên tranh chấp đều hướng tới việc tìm kiếm, bảo vệ lợi nhuận nên
so với các tranh chấp khác, vụ án KDTM thường có mức độ tranh chấp gay gắt hơn,
tính chất của quan hệ pháp luật phức tạp hơn, thậm chí vụ án KDTM không được
giải quyết kịp thời sẽ dẫn đến những tổn thất về mặt kinh tế không chỉ cho các bên
tranh chấp mà còn gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nền kinh tế địa phương
hoặc lớn hơn là nền kinh tế quốc gia. Vì thế, việc giải quyết vụ án KDTM nhằm loại
Theo Điều 30 BLTTDS năm 2015 sẽ bao gồm tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa người
chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên
công ty, tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty
cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
9

12


bỏ những mâu thuẫn, xung đột về mặt lợi ích kinh tế, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của các chủ thể đòi hỏi phải đa dạng nhưng hiệu quả, nhanh
chóng nhưng phải chính xác, khách quan. Thực tiễn giải quyết các vụ án có chứa
đựng tranh chấp KDTM cho thấy vụ án KDTM có thể được giải quyết bằng nhiều
phương thức khác nhau như các bên tự thỏa thuận, các bên hòa giải với nhau thông
qua bên thứ ba, các bên đồng ý giải quyết tại trọng tại thương mại theo cơ chế tài

phán tư hoặc yêu cầu giải quyết tại Tòa án bằng cơ chế tài phán công. Mỗi phương
thưc giải quyết đều có những ưu điểm riêng song phương thức giải quyết tranh chấp
KDTM tại Tòa án (là vụ án KDTM khi đã được tòa án thụ lý) đã thể hiện được
nhiều ưu điểm, được một hoặc các bên tranh chấp lựa chọn áp dụng ngày càng
nhiều.
Giải quyết vụ án KDTM tại Toà án là hình thức giải quyết thông qua hoạt
động của cơ quan tài phán của nhà nước có thẩm quyền. Toà án với một đội ngũ
Thẩm phán có kỹ năng nghề nghiệp cao, hoạt động của Tòa án độc lập với hệ thống
cơ quan quản lý và khi “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”10 nên hoạt động xét xử của Tòa án thường chính xác, công minh.
Tuy nhiên “một quyết định tư pháp, mặc dù đã có sự cố gắng của cơ quan tài phán
để xét xử cho đúng luật và công bằng có khi vẫn có nhầm lẫn hoặc bất minh” 11 nên
sau khiTòa án xét xử lần đầu (là thủ tục sơ thẩm) mà phán quyết của Tòa án bị
kháng cáo, kháng nghị, yêu cầu xét xử lại thì tòa án cấp trên phải xét xử lại. Thủ tục
xét xử lại này là thủ tục phúc thẩm, là thủ tục thể hiện cho cơ chế “xét xử vụ án theo
nhiều cấp và tổ chức tòa án theo thứ bậc”12.
Phúc thẩm là một thủ tục được áp dụng ngay từ thời La Mã cổ đại vì “các
quyết định của các quan tòa cấp dưới đưa ra không phải lúc nào cũng có hiệu lực
pháp luật, do vậy nếu các bên không thỏa mãn thì được quyền kháng cáo lên tòa án
cấp trên”13. Thủ tục này ngày càng được hoàn thiện cùng với thời gian và dần trở
Điều 12 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự và tố tụng Việt Nam, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp,
trang 607.
12
Phan Thanh Mai (2007), Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội,
trang 12.
13
Nguyễn Ngọc Đào (2000)Luật La Mã, NXB Đồng Nai, trang 254-258.
10
11


13


thành giải pháp pháp lý hữu hiệu nhằm khắc phục sai lầm của tòa án cấp dưới. Ở
Việt Nam, giải thích về mặt ngôn ngữ thì trong Hán - Việt từ điển giải thích “phúc”
có nghĩa là “lật lại, úp lại, xét kỹ”14, “thẩm” có nghĩa là “xử đoán”15. Còn Từ điển
tiếng Việt thì giải thích rõ hơn, theo đó phúc thẩm là “Tòa án cấp trên xét xử lại một
vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án”16. Trong nghiên cứu khoa
học luật tố tụng dân sự thì phúc thẩm được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau: là một chế định trong pháp luật luật tố tụng dân sự, là một thủ tục được Tòa
án cấp phúc thẩm tiến hành khi có kháng cáo, kháng nghị về bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực, là một giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục
tố tụng dân sự hay là một cấp xét xử. Tuy nhiên dù được nghiên cứu dưới góc độ
nào thì tính chất của phúc thẩm vẫn là việc xét xử lại vụ án đã được xét xử sơ thẩm
nhưng bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật đã bị kháng cáo,
kháng nghị. Mục đích của việc xét xử lại này là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp về KDTM của các chủ thể KDTM, đôi khi còn là quyền, lợi ích hợp pháp của
nhà nước. Còn về thuật ngữ “thủ tục” thì thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Nhật
Bản, được hiểu là một thể thức phải làm để đạt được một kết quả nhất định”17, là
cách thức, trình tự và nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một
vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo các quy định của pháp luật 18, hay là những
bước tiến hành mang tính hình thức mà thông qua đó vụ kiện được giải quyết19. Để
xét xử phúc thẩm được vụ án KDTM, tòa án cần phải tiến hành quy trình các bước
như nhận đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị, thụ lý phúc thẩm, chuẩn bị xét xử
phúc thẩm rôì mới đến xét xử phúc thẩm.
Từ những giải thích trên thì khái niệm về thủ tục phúc thẩm trong giải quyết
vụ án KDTM được hiểu như sau:

Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, NXB Trường Thi, Sài Gòn, trang 136.

Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, NXB Trường Thi, Sài Gòn, trang 380.
16
Viện ngôn ngữ hhọc (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội-Đà Nẵng, trang 790.
17
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, xuất bản dưới sựu bảo trợ của Bộ Tư pháp, trang
4.
18
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích Thuật ngữ luật học, NXB.Công an nhân dân, Hà
Nội, Trang 224.
19
Oxford Reference (1994), A dictionary of law, Oxford University Press, New York, trang 308
14
15

14


Thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM là cấp xét xử thứ hai, theo đó
Tòa án có thẩm quyền phúc thẩm sẽ tiến hành một trình tự các hoạt động tố tụng
dân sự theo quy định của pháp luật để xét xử lại vụ ánKDTM đã được Tòa sơ thẩm
xét xử nhưng bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng
nghị, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể trong quan hệ
KDTM và của nhà nước
* Đặc điểm của thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án kinh doanh thương
mại.
- Thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM thể hiện cách thức xét xử
lại vụ án KDTM của Tòa án phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị về bản án,
quyết định KDTM sơ thẩm chưa có hiệu lực.
Xét xử lại vụ án là đặc trưng nổi bật của thủ tục phúc thẩm dân sự nói chung,
của thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM nói riêng. Chính tính chất đặc trưng này quyết

định các đặc điểm tiếp theo của thủ tục phúc thẩm như đối tượng của thủ tục phúc
thẩm, phạm vi xét xử của thủ tục phúc thẩm, quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc
thẩm…Về căn cứ, việc xét xử lại vụ án KDTM được dựa trên căn cứ có kháng cáo,
kháng nghị. Xét về học lý thì một bản án, quyết định rất có thể sai lầm nên khi có
yêu cầu thì tòa án cấp trên cần kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của lần xét
xử sơ thẩm trước đó. Bản án, quyết định sơ thẩm về KDTM sẽ là không chính xác
và không phù hợp nếu bản án, quyết định sơ thẩm đó không có căn cứ pháp luật và
chứng cứ, chỉ dựa trên suy đoán của thẩm phán. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhất trí
cao với nhận định “hoạt động tư pháp sẽ là một điều bất hạnh trong khi bản án,
quyết định phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân”20.
Như vậy, thủ tục phúc thẩm thể hiện cách thức xét xử lại vụ án chứ không chỉ
là xét lại bản án, quyết định KDTM sơ thẩm chưa có hiệu lực. Là xét xử lại nhưng
thủ tục phúc thẩm không phải là xét xử sơ thẩm lần thứ hai bởi không phải vụ án
nào đã được xét xử sơ thẩm đều được xét xử phúc thẩm lại mà tòa án chỉ xét xử lại
vụ án theo thủ tục phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị, chỉ xét xử lại một phần
X.X.A-Lếch-xây-ép (1986), Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta (Đồng Ánh dịch Nguyễn Đình Lộc
hiệu đính) NXB Pháp lý Hà Nội, trang 170.
20

15


hoặc toàn bộ vụ án tương ứng với phạm vi kháng cáo, kháng nghị và như vậy thì tòa
án phúc thẩm cũng chỉ kiểm tra lại những nội dung của vụ án bị kháng cáo, kháng
nghị, kiểm tra lại chứng cứ xem đủ để giải quyết hay chưa, đồng thời có thể xem xét
chứng cứ mới.
- Đối tượng xét xử lại của thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM là
là những vụ án KDTM đã được xét xử sơ thẩm nhưng bản án quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo hoặc kháng nghị.
Do tính chất của thủ tục phúc thẩm là xét xử lại vụ án nên đối tượng của thủ

tục phúc thẩm cũng là vụ án KDTM đã được xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiêu lực bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa phúc thẩm không chỉ kiểm
tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm mà tòa phúc
thẩm còn phải xem xét lại nội dung vụ án KDTM vì để xác định sự thật khách quan
của vụ án thì tòa phúc thẩm phải xem xét, đánh giá về những vấn đề thuộc nội dung
vụ án trên cơ sở các tài liệu, chúng cứ đã có. Do vậy đối tượng của thủ tục phúc
thẩm trong giải quyết vụ án KDTM phải là vụ án KDTM chứ không phải là bản án,
quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM.
- Căn cứ phát sinh thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM là đơn kháng cáo, quyết
định kháng nghị hợp lệ đối với bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM
chưa có hiệu lực pháp luật.
Thủ tục tố tụng dân sự được thực hiện dựa trên quyền định đoạt của đương sự.
Nếu ở thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM, căn cứ để tiến hành thủ tục sơ thẩm vụ án
KDTM là dựa trên đơn khởi kiện của người có quyền khởi kiện thì ở thủ tục phúc
thẩm căn cứ để tiến hành thủ tục phúc thẩm là đơn kháng cáo, quyết định kháng
nghị của người có quyền kháng cáo, kháng nghị. Như vậy không phải vụ án KDTM
nào cũng thực hiện thủ tục phúc thẩm. Chỉ những vụ án KDTM có kháng cáo,
kháng nghị về bản án, quyết định sơ thẩm mới tiến hành thủ tục phúc thẩm. Theo
quan điểm lập pháp của Việt Nam quyền kháng cáo thuộc về những người tham gia
tố tụng có quyền, lợi ích trong vụ án, còn quyền kháng nghị thuộc VKS vì VKS có
chức năng thay mặt nhà nước để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân

16


sự. Cũng có ý kiến cho rằng “trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động càng ít sự can
thiệp của công quyền càng tốt”21 nhưng nếu liên quan đến trật tự công thì VKS với
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật sẽ có quyền kháng nghị.
- Thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM bao gồm trình tự các bước
do pháp luật tố tụng dân sự quy định và trong quá trình thực hiện thủ tục phúc thẩm

tòa án phải tôn trọng quyền định đoạt của đương sự.
Để giải quyết được, giải quyết đúng vụ án KDTM theo thủ tục phúc thì Tòa án
cấp phúc thẩm phải tuân thủ một trình tự các bước do pháp luật tố tụng dân sự quy
định mà đầu tiên là thủ tục nhận và thụ lý kháng cáo, kháng nghị. Về nguyên tắc,
thủ tục phúc thẩm chỉ phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị và việc kháng cáo,
kháng nghị đó được tòa án thụ lý. Sau khi thụ lý phúc thẩm vụ án KDTM, Tòa án
cần phải tiến hành các hoạt động chuẩn bị xét xử phúc thẩm để nghiên cứu chứng
cứ,đánh giá về việc giải quyết vụ án của tòa sơ thẩm. Khi đã hết thời hạn chuẩn bị
xét xử phúc thẩm thì Tòa phúc thẩm sẽ mở phiên tòa xét xử. Cũng như phiên tòa sơ
thẩm, phiên tòa phúc thẩm được tổ chức công khai, xét xử lại vụ án dựa trên chứng
cứ, lý lẽ của các bên đương sự và phán quyết của Tòa phúc thẩm sẽ có giá trị chung
thẩm. Như vậy, thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM gồm nhiều thủ tục
khác nhau, các thủ tục này phải được thực hiện tuần tự và phiên tòa phúc thẩm xét
xử lại vụ án KDTM là bước cuối cùng trong thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên trong quá
trình phúc thẩm đương sự vẫn có quyền định đoạt như nguyên đơn có quyền rút đơn
khởikiện, người kháng cáo có quyền rút đơn kháng cáo, VKS có quyền rút quyết
định kháng nghị hoặc các bên đương sự có thể thỏa thuận được với nhau về giải
quyết vụ án. Tùy theo quyền định đoạt của đương sự mà Tòa phúc thẩm sẽ ra quyết
định theo quy định của BLTTDS.
* Ý nghĩa của thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án kinh doanh thương
mại
- Ý nghĩa về mặt chính trị:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, Chương trình
đối tác tư pháp, Hà Nội.
21

17



Thủ tục phúc thẩm trong giải quyết vụ án KDTM có ý nghĩa rất quan trọng vì
thủ tục này thể hiện một phương thức giải quyết tranh chấp đáp ứng yêu cầu của
nhà nước pháp quyền.
Tuân thủ pháp luật và trách nhiệm của nhà nước đối với việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân ‘là những đặc trưng tiêu biểu của nhà nước pháp
quyền”22. Với thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM, Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm
mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ pháp luật, cho dù đó là Tòa án được nhân
danh nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước. Thủ tục phúc thẩm đã thể hiện rõ
nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong giải quyết vụ án: dù vụ án đã được xét xử sơ
thẩm, nhưng nếu có yêu cầu tòa án vẫn xét xử lại để khắc phục sai lầm nếu có.
Đồng thời qua thủ tục phúc thẩm, Việt Nam đã thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà
nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Về phía đương sự,
trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định phúc thẩm
thì đương sự sẽ nhận thức được rõ hành vi nào đúng, hành vi nào chưa phù hợp để
từ đó tự điều chỉnh hành vi của mình cho đúng đắn. Như vậy, thủ tục phúc thẩm góp
phần tạo nên bức tranh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với đặc
thù đề cao dân chủ và thượng tôn pháp luật. Với thủ tục phúc thẩm được tiến hành,
nhà nước đã thể hiện được vai trò ổn định các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Mối quan hệ giữa nhà nước (Tòa án đại
diện) với nhân dân (các bên đương sự) được thiết lập một cách chặt chẽ, tôn trọng
nhau và bảo vệ nhau, từ đó tạo cơ sở cho việc nâng cao ý thức bảo vệ, bảo đảm của
nhà nước, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của công dân.
- Ý nghĩa về mặt xã hội
Thủ tục phúc thẩm vụ án KDTM với tính chất là xét xử lại vụ án KDTM đã
tạo nên niềm tin của nhân dân vào pháp luật, vào hệ thống tòa án. Thủ tục phúc
thẩm góp phần hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân bởi khi quyền
kháng cáo, kháng nghi được thực hiện hợp lệ thì tòa phúc thẩm phải tiến hành phúc
thẩm, điều này làm cho quyền con người, cụ thể là quyền kháng cáo của đương sự
Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà
Nội, trang 33.

22

18


không bị hình thức mà được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Mặt khác, giả sử phán
quyết của tòa án cấp sơ thẩm là chưa chính xác thì tòa phúc thẩm sẽ sửa chữa, khắc
phục sự không chính xác đó, từ đó thủ tục phúc thẩm như một biện pháp đảm bảo
cho nền tư pháp được trong sạch, đúng đắn, góp phần tạo nên niềm tin của người
dân vào nhà nước, vào sự lãnh đạp của Đảng. Niềm tin này là vô cùng quý giá bởi
“nếu tòa án thiếu tin cậy thì người dân sẽ tìm đến phương pháp giải quyết tranh
chấp ngoài tòa, công lý không được xác lập thì nguy cơ bất ổn tăng nhanh… Ngoài
ra, tư pháp non yếu thì hành pháp lạm quyền, quan chức có nhiều cơ hội lạm dụng
quyền lực công mà không bị truy hỏi về trách nhiệm chính trị cũng như trách nhiệm
pháp lý trước người dân”23. Như vậy, về mặt xã hội, thủ tục phúc thẩm vụ án
KDTM góp phần ổn định trật tự xã hội, củng cố niềm tin của người dân vào nhà
nước. Thông qua việc thự hiện thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM, hoạt động tuyên
truyền, phổ biến pháp luật được thực hiện một cách tự nhiên và khá hiệu quả.
- Ý nghĩa về mặt pháp lý
Thủ tục phúc thẩm có vai trò đặc biệt quan trọng bởi thủ tục này là một giải
pháp tố tụng đảm bảo cho việc giải quyết đúng vụ án KDTM tại TAND. Với nhiệm
vụ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm thì thủ
tục phúc thẩm còn đảm bảo cho bản án, quyết định của tòa án khi có hiệu lực pháp
luật phải là đúng đắn và có căn cứ pháp luật. Thực hiện thủ tục phúc thẩm sẽ là một
dịp để tòa phúc thẩm kiểm tra chất lượng của tòa sơ thẩm, nếu thấy không đúng thì
có căn cứ để hủy bỏ hoặc sửa chữa kịp thời, từ đó bảo vệ được quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong vụ án KDTM. Thông qua thủ tục phúc thẩm, nguyên tắc
hai cấp xét xử được thực hiện, từ đó người tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm có thể
rút kinh nghiệm về hoạt động xét xử của mình, người tiến hành tố tụng ở phúc thẩm
có thêm kinh nghiệm xét xử.Qua thủ tục phúc thẩm, một nguyên tắc chung sẽ được

người tiến hành tố tụng dân sự ý thức được sâu sắc là việc xét xử phải dựa trên
chứng cứ, lập luận khoa học, không suy đoán, duy ý chí, trong hoạt động xét xử tại

http://thongtinphapluatdansu,wordpress.com/2011/01/23, Pham Duy Nghĩa, Năm chủ trương cải cách tư
pháp thành công.
23

19


×