Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP HOẠT ĐỘNG đối NGOẠI NHÂN dân của LIÊN HIỆP các tổ CHỨC hữu NGHỊ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.33 KB, 98 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động đối ngoại nhân dân hiện nay đóng vai trò hết sức quan trọng
trong công tác thông tin đối ngoại quốc gia, là một trong ba kênh ngoại giao
trụ cột bên cạnh đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước. Trong thời chiến,
nhà nước thực hiện công tác đối ngoại nhân dân nhằm tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình ở tất cả các nước trên thế giới. Hiện tại,
đối ngoại nhân dân lại nhằm giúp các nước đoàn kết, gắp bó và tin tưởng lẫn
nhau hơn thông qua trao đổi thông tin văn hóa, chuyển giao khoa học kỹ
thuật, cùng hợp tác toàn diện vì sự tiến bộ và phát triển của đất nước.
Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội chuyên trách về công tác vận
động, tập hợp các tầng lớp nhân dân thế giới đoàn kết, hữu nghị với nhân dân
Việt Nam. Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam được thành lập vào tháng
11 năm 1950. Đây là tổ chức đối ngoại nhân dân đa phương đầu tiên được
Đảng ta thành lập để hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực hòa bình, góp
phần gắn liền cuộc đấu tranh vì hòa bình của nhân dân ta với sự nghiệp bảo vệ
hòa bình của nhân dân toàn thế giới.
Trong quá trình hoạt động, Liên hiệp cùng các tổ chức nhân dân khác
vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân đấu tranh cho hòa bình và phát triển,
mở rộng quan hệ đoàn kết, hữu nghị, thúc đẩy hợp tác giữ nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước và với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Nhiều
hoạt động thiết thực được tổ chức với các đoàn ra, đoàn vào, các buổi tiếp
xúc, gặp gỡ là cơ hội để bạn bè quốc tế có điệu kiện hiểu hơn về Việt Nam,
qua đó tăng cường quan hệ giữa Việt Nam với các nước làng giềng, các nước
trong khu vực, các nước có quan hệ truyền thống truyền thống. Thông qua
các hoạt động đó, Liên hiệp còn góp phần vào giải quyết những vấn đề trọng
tâm liên quan tới biên giới, biển đảo và quan hệ hợp tác với các nước.

1
1



Trải qua 65 năm thực hiện công tác đối ngoại nhân dân, tổ chức và lực
lượng của Liên hiệp đã không ngừng được củng cố và phát triển; hoạt động
của Liên hiệp và các tổ chức thành viên được triển khai hiệu quả và đổi mới,
đạt nhiều thành quả quan trọng; vai trò của Liên hiệp ngày càng được nâng
cao. Việc đẩy mạnh và mở rộng hoạt động của các tổ chức thành viên ở Trung
ương và địa phương, bao gồm: Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam, Ủy ban
Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Ban Điều phối viện trợ
nhân dân (PACCOM) và các Hội Hữu nghị với các nước ở từng khu vực Á –
Phi, khu vực châu Mỹ, khu vực châu Âu… đã và đang khẳng định vai trò
quan trọng của Liên hiệp trong công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
Do tính chất quan trọng trên, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn
diện về hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam có ý nghĩa cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn đối với nước ta. Những kết
luận khoa học rút ra từ quá trình nghiên cứu sẽ góp phần thiết thực vào việc
hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại nhân dân của Đảng và Nhà nước
trong thời kỳ mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động đối ngoại nhân dân và hoạt động của Liên hiệp các tổ chức
hữu nghị Việt Nam là đề tài đang được quan tâm nghiên cứu. Nhiều bài viết,
bài nghiên cứu về đề tài này được đăng tải trên các tạp chí, sách báo khác
nhau như Thông tấn xã Việt Nam, Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam, Tạp
chí Thông tin đối ngoại…; cùng với đó, các phóng sự, phim tài liệu về hoạt
động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp được xây dựng và phát sóng trên một
số kênh của Đài truyền hình Việt Nam và lưu trữ làm tư liệu. Các công trình,
bài viết về chủ đề hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp các tổ chức
hữu nghị Việt Nam đã tập trung nghiên cứu sâu rộng và chi tiết về công tác
đối ngoại nhân dân của Liên hiệp nói chung và các tổ chức, các Hội hữu nghị
Trung ương và địa phương nói riêng. Tuy nhiên, về tổng quan, vẫn còn thiếu
những đề tài nghiên cứu vừa mang tính chuyên sâu lại toàn diện, tiến hành

2
2


khảo sát những hoạt động cụ thể của Liên hiệp hiện nay để có những đánh giá
chính xác và khách quan nhất. Mặt khác, số chuyên gia, nhà nghiên cứu tham
gia vào công tác này còn hạn chế, chủ yếu là cán bộ là đối ngoại nhân dân và
cán bộ của Liên hiệp. Do vậy, công tác đối ngoại nhân dân và hoạt động đối
ngoại nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam là một lĩnh vực
mới, chưa được khai thác triệt để.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu cụ thể hoạt động đối ngoại của Liên hiệp
là cần thiết để thấy rõ những thành tựu và hạn chế, từ đó đưa ra những giải
pháp thiết thực cho công tác đối ngoại nhân dân của Liên hiệp và các tổ chức
nhân dân khác. Tuy vậy, tài liệu tham khảo về đề tài này chủ yếu là các bài
nghiên cứu, các thống kê từ các cơ quan liên quan do vậy nó còn rất hạn chế
đối với đọc giả. Thông tin từ nguồn chính thức chưa thể đáp ứng đầy đủ nhu
cầu nghiên cứu và tìm hiểu của những cá nhân, tổ chức có liên quan.
Năm 2003, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam từng xuất bản
cuốn sách “Hoạt động đối ngoại nhân dân Việt Nam” nói về công tác đối
ngoại nhân dân của Việt Nam lúc đó nói chung và Liên hiệp nói riêng. Với
những phân tích chi tiết và ví dụ sự kiện sinh động, đây được coi là cuốn sách
viết về ngoại giao nhân dân của Việt Nam chi tiết nhất.
Năm 2008, cuốn sách nghiên cứu về hoạt động đối ngoại nhân dân của
Liên hiệp có tên“Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam – quá trình hình
thành và phát triển” được biên tập và in do Vũ Xuân Hồng làm chủ biên.
Cuốn sách là sự tổng hợp đầy đủ hoạt động của Liên hiệp từ khi thành lập đến
nay, cung cấp cho người đọc thông tin về quá trình phát triển của Liên hiệp,
các thông tin về một số cơ quan trực thuộc như Quỹ Hòa bình và Phát triển,
Ban điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM)....
Cũng năm 2008, cuốn: “Đối ngoại Việt Nam – Truyền thống và hiện

đại”. Nhà xuất bản Lý luận – Chính trị, Hà Nội do Nguyễn Mạnh Hùng và
Phạm Minh Sơn chủ biên đã xác định rõ vai trò, vị trí và những đóng góp của
ngoại giao nhân dân trong cách mạng Việt Nam.
3
3


Một trong những mảng liên quan là công tác thông tin đối ngoại. Trong
lĩnh vực này có cuốn: “Truyền thông đại chúng trong công tác thông tin đối
ngoại của Việt Nam hiện nay” năm 2009 do Phạm Minh Sơn và Nguyễn Thị
Quế. Cuốn sách này đã cung cấp những kiến thức cơ bản về hoạt động thông
tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay, đặc biệt là công tác truyền
thông, góp phần tích cực vào công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
Ngoài ra còn một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các tạp chí về đối
ngoại nhân dân như: “Công tác đối ngoại nhân dân trong sự nghiệp đổi mới”
của Hồng Hà trên Tạp chí Hữu nghị số 34/2002; “Những đóng góp của hoạt
động đối ngoại nhân dân trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước” của
Vũ Xuân Hồng đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại số 2/2010; “Đối ngoại
công chúng – hướng tiếp cận mới về công tác đối ngoại của Việt Nam hiện nay”
của Phạm Minh Sơn (4/2011), đăng trên Tạp chí Lý luận và truyền thông...
Trên thế giới, việc nghiên cứu về đối ngoại nhân dân cũng được đặc biệt
chú trọng. Tiêu biểu có cuốn “Public diplomancy: lessons from the past”
(2009) của Nicholas J.Cull – Đại học Nam Calofornia cũng là cuốn sách quý về
ngoại giao nhân dân. Cuốn sách tổng hợp về quan điểm ngoại giao nhân dân
của các nước và bài học về ngoại giao nhân dân của các thời kỳ trước đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động đối ngoại nhân
dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, khóa luận đề xuất một số
giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân của Liên

hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Làm rõ cơ sở lý luận: những khái niệm; quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng về đối ngoại nhân dân .

4
4


-

Phân tích thực trạng, thành tựu, hạn chế của các cơ quan, tổ chức trực thuộc
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam đang thực hiện hoạt động đối ngoại

-

nhân dân.
Làm rõ những vấn đề còn tồn tại trong công tác đối ngoại nhân dân, từ đó đưa
ra giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp
trong thời gian tới.

5
5


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động đối ngoại nhân dân của

Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: khóa luận xác định phạm vi nghiên cứu từ 2008
đến nay (từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị
Việt Nam lần thứ IV năm 2008).
- Phạm vi không gian: các cơ quan, tổ chức của Liên hiệp gồm có: Quỹ
Hòa bình và Phát triển Việt Nam, Ủy ban Công tác về các tổ chức phi chính
phủ nước ngoài, Ban Điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM) và các Hội
Hữu nghị với các nước ở Trung ương và các Hội hữu nghị ở địa phương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, chính sách, đường lối của
Đảng và Nhà nước ta về đối ngoại nhân dân và công tác đối ngoại nhân dân.
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp lịch sử kết hợp với phươg pháp logic nhằm xâu chuỗi
các sự kiện theo các mốc thời gian cụ thể và khoa học.
- Phương pháp chọn lọc, phân loại, phân tích và xử lý thông tin đã thu
thập được; đảm bảo tạo nên thông tin chính xác, đa dạng.
- Nghiên cứu, tham khảo các nguồn tài liệu, sách báo khác nhau kết
hợp với tổng hợp thông tin.
- Kết hợp giữa phương pháp so sánh, đối chiếu giữa tài liệu, chính sách,
chỉ thị và thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp với các
phương pháp phân tích, tổng hợp để đạt hiệu quả tối đa.

6
6


6. Đóng góp của khóa luận

Đề tài cung cấp những số liệu, tình hình mới nhất trong hoạt động đối
ngoại nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam hiện nay, đặc
biệt là từ sau Đại hội IV và phương hướng hoạt động của Liên hiệp trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung khóa luận được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động đối ngoại
nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam: Làm rõ những khái
niệm xung quanh vấn đề đối ngoại nhân dân, những quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và của Đảng về công tác đối ngoại nhân dân.
Chương 2: Thực trạng hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp các
tổ chức hữu nghị Việt Nam từ năm 2008 đến nay: Phân tích thực tiễn, các yếu
tố tác động đến hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp và đưa ra các
đánh giá về thành tựu và hạn chế của các hoạt động đó.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp tăng cường hoạt động đối
ngoại nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam hiện nay: Làm
rõ những vấn đề còn tồn tại trong công tác đối ngoại nhân dân nói chung và
Liên hiệp nói riêng và đề ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa hoạt
động nhân dân của Liên hiệp.

7
7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HOẠT ĐỘNGĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
CỦA LIÊN HIỆP CÁC TỔ CHỨC HỮU NGHỊ VIỆT NAM
1.1.
1.1.1.


Một số khái niệm cơ bản về hoạt động đối ngoại nhân dân
Khái niệm Đối ngoại nhân dân và nội dung công tác đối ngoại nhân dân.
Đối ngoại, đối ngoại nhân dân và công tác đối ngoại nhân dân hiện nay
là những khái niệm mở, mọi tổ chức và cá nhân đều có thể là chủ thể trong
hoạt động đối ngoại này. Ngày nay, khái niệm “đối ngoại” đã không còn xa lạ
đối với nhiều người, đặc biệt khi quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và đi
vào chiều sâu, quan hệ chính trị quốc tế ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ tới
mọi mặt đời sống.
Thông thường, hình thức đối ngoại được thực hiện trên hai kênh chính.
Kênh một là thúc đẩy hợp tác giữa các chính phủ, các nhà nước. Kênh hai là
trao đổi dân gian, qua học thuật, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân. Hai
kênh này luôn được thực hiện song song cùng nhau, có tác động tương dộ, bổ
sung lẫn nhau, nhằm phát huy và đem lại hiệu quả cao nhất.[10]
Thế giới và Việt Nam hiện tại có nhiều nhà ngoại giao đã nghiên cứu và
đưa ra những khái niệm về đối ngoại nhân dân nói chung và công tác đối
ngoại nhân dân của từng nước nói riêng. Nhiều quốc gia trên thế giới đã và
đang sử dụng một cách linh hoạt, khéo léo cách đối ngoại này bởi hiệu quả
đem lại là vô cùng lớn.
Trong công trình nghiên cứu về đối ngoại và ngoại giao của mình, Các
Mác không đưa ra một định nghĩa cụ thể về đối ngoại nhân dân. Tuy nhiên,
theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác,
quần chúng nhân dân làm ra lịch sử. Quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia bắt
đầu từ sự trao đổi sản phẩm thừa giữa các bộ lạc và trải qua các thời kỳ lịch
sử mở rộng về không gian và lĩnh vực (buôn bán, giao lưu hữu nghị, hiểu biết
lẫn nhau và hòa bình, giao lưu văn hóa…).[19]
8
8



V.I. Lênin từ nhận thức về vai trò của nhân dân ngày càng tăng trong
lịch sử đã đi đến kết luận về ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của các dân tộc
đối với chính sách đối ngoại của các quốc gia. Trong quá trình hoạt động cách
mạng, Lênin rất coi trọng công tác vận động quốc tế ủng hộ cách mạng và
nhân dân nước Nga. Hoạt động đối ngoại nhân dân (ngoại giao nhân dân) của
nước Nga Xô viết và sau đó là Liên Xô đã góp phần quan trọng thực hiện các
nguyên tắc đối ngoại của Nhà nước Xô viết, chủ yếu là nguyên tắc chủ nghĩa
quốc tế vô sản và nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ
chính trị khác nhau.[19]
Ở Hoa Kỳ, đối ngoại nhân dân được gọi là “ngoại giao công chúng” –
Public Diplomacy (hoặc “ngoại giao nhân dân”). Ngoại giao nhân dân Hoa Kỳ
là công cụ để giải thích chính sách đối ngoại và khuyên khích nhân dân các
nước khác hiểu hơn về mình thông qua phát thanh truyền hình quốc tế. Qua
ngoại giao nhân dân, Hoa Kỳ có thể trực tiếp nói chuyện với các quốc gia trên
thế giới và tranh thủ sự nỗ lực dài hạn nhằm thúc đẩy tự do, thịnh vượng và ổn
định trên khắp thế giới, xóa bỏ những hiểu lầm về hình ảnh của quốc gia mình.
[14]
Ở Anh, khác với Hoa Kỳ, họ không cho rằng “đối ngoại nhân dân” là
“ngoại giao công chúng”. Chuyên gia về đối ngoại nhân dân Mark Leonard
cho rằng: “đối ngoại nhân dân” một phần truyền tải thông tin và truyền bá
những hình ảnh tích cực của quốc gia dân tộc, một phần xây dựng những quan
hệ lâu dài nhằm kiến tạo mối trường khả dĩ cho chính sách của nhà nước.[]
Ở Hàn Quốc, hiện tượng “Làn sóng Hallyu” (Làn sóng Hàn Quốc) có
sức lan tỏa khắp các khu vực. Thông qua phim ảnh, âm nhạc và thời trang,
Hàn Quốc đang dễ dàng đưa văn hóa của mình thâm nhập vào đời sống của
người dân các nước khác. Các quốc gia trên thế giới gọi đây là ngoại giao
nhân dân thông qua văn hóa, gọi tắt là ngoại giao văn hóa.
Trung Quốc trong chiến lược “phát triển hòa bình” (năm 2003) đã xác
định ưu tiên phát triển sức mạnh mềm của quốc gia trên phạm vi toàn thế giới,
9

9


đặc biệt là đối ngoại nhân dân. Con đường “đối ngoại nhân dân” của Trung
Quốc bao gồm việc thực thi chính sách mở cửa đối ngoại toàn diện, triển khai
giao lưu mậu dịch, hợp tác kinh tế và kỹ thuật cũng như giao lưu khoa học và
văn hóa với các nước và khu vực trên thế giới trên nguyên tắc bình đẳng cùng
có lợi, thúc đẩy phát triển mọi mặt.
Trong guồng quay chung của ngoại giao thế giới và sự thay đổi chính
sách đối ngoại nhân dân của các nước, Việt Nam đang có sự vận động nhanh
chóng và được tập trung thực hiện trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Hoạt
động đối ngoại nhân dân đã diễn ra sôi nổi và phong phú với nhiều hình thức
và nội dung khác nhau. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã đạt được nhiều kết
quả to lớn, góp phần vào thành công chung của đất nước trên nhiều lĩnh vực
như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ.
Mặt khác, hiện nay khái niệm “đối ngoại nhân dân” được sử dụng với
nhiều tên khác nhau ở nhiều quốc gia như “ngoại giao nhân dân”, “ngoại giao
công chúng”, “ngoại giao văn hóa”. Tuy nhiên, chúng vẫn có những sự khác
biệt nhất định.
“Ngoại giao nhân dân” là sự trao đổi, quan hệ ngoại giao giữa các quốc
gia, chính phủ một cách chính thức và có tính hình thức. Ngày nay, mọi hoạt
động của các nguyên thủ quốc gia, các nhà ngoại giao đều được công khai
trước báo chí, truyền hình. Sự minh bạch hóa này đi liền với việc dân chủ hóa
trong quan hệ quốc tế, tức là người dân có quyền và cơ hội can thiệp mạnh
mẽ, sâu rộng vào các hoạt động ngoại giao của quốc gia mình. [19]
“Ngoại giao công chúng” là hoạt động ngoại giao bên cạnh ngoại giao
chính phủ, vượt qua tầm tác động lẫn nhau của chính phủ, nhằm vào công
chúng nước khác. Hình thức ngoại giao này đang vượt khỏi phạm vi ngoại
giao truyền thống, bao gồm sự khám phá và tận dụng của chính phủ một nước
đối với dư luận của các nước khác, sự tác động lẫn nhau giữa tập đoàn lợi ích

của một nước đối với dư luận nước khác, với các tổ chức PCPNN.[11] [24]

10
10


“Ngoại giao văn hóa” là “sức mạnh mềm” phục vụ cho lợi ích quốc gia.
Vị thế của văn hóa trong sức mạnh tổng hợp của quốc gia được xác nhận và coi
trọng, văn hóa được coi là một “thủ đoạn” của ngoại giao. Ngoại giao văn hóa
rất đa dạng, là lĩnh vực đặc biệt của hoạt động ngoại giao liên quan đến việc sử
dụng văn hóa như là đối tượng và phương tiện nhằm đạt được những mục tiêu
cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước,
quảng bá văn hóa và ngôn ngữ quốc gia trên thế giới.[26] [33]
“Đối ngoại nhân dân” là một hình thức thực hiện quan hệ đối ngoại do
các tổ chức hoặc cá nhân (thuộc nhiều lĩnh vực) tiến hành, không mang tính
chất chính thức của chính phủ các nước.
Như vậy, “đối ngoại nhân dân” có thể hiểu là sự trao đổi, giao lưu giữa
các tổ chức, cá nhân, theo một cách chính thức hoặc không chính thức. “Đối
ngoại nhân dân có thể được thực hiện bởi nhà nước và các tổ chức phi chính
phủ, các cá nhân. Hiện nay, đối ngoại nhân dân là hoạt động không thể thiếu
đối với quốc gia, nó đang dân khẳng định sức mạnh và tầm quan trọng của
mình. Chính vì vậy, với nước ta, đây là một trong ba chiếc chân kiềng đối
ngoại vững chắc (cùng đối ngoại Đảng và đối ngoại Nhà nước).
Mục đích, nhiệm vụ của hoạt động đối ngoại nhân dân trong công tác

1.1.2.

đối ngoại hiện nay.
• Mục đích
Mọi hoạt động đối ngoại đều nhằm mục đích chung là bảo vệ Tổ quốc,

duy trì hòa bình, giúp cho bạn bè thế giới hiểu hơn về mình. Hoạt động đối
ngoại nhân cũng không ngoại lệ. Đối ngoại nhân dân giúp nhà nước thiết lập
và khôi phục quan hệ song phương, đa phương, nó bổ sung cho ngoại giao
chính thức của nhà nước để phục vụ lợi ích của quốc gia.
Làm đối ngoại nhân dân là làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ đất nước,
con người Việt Nam, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta,
tranh thủ thiện cảm, sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân các nước đối với
công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
11
11


Đồng thời, tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới, các tổ
chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế về vốn, chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm quản lý kinh tế và quản lý xã hội, đào tạo cán bộ…
Bên cạnh đó, còn làm cho nhân dân ta hiểu rõ đất nước và con người
các nước khác, tăng cường tình hữu nghị, mở rộng quan hệ hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các dân tộc
vì hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết những vấn đề có
tính toàn cầu như loại trừ vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt khác,
phòng chống bệnh AIDS, bệnh hiểm nghèo, bảo vệ môi trường…Đấu tranh
chống những quan điểm, ý đồ và hành động xấu của một số người và tổ chức
nước ngoài đối với nước ta.
Tham gia tích cực góp phần duy trì và đổi mới hoạt động của các tổ
chức quốc tế mà nước ta là thành viên phù hợp với tình hình mới của thế giới.


Nhiệm vụ
Để đạt được các mục đích nêu trên, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt

Nam và các tổ chức thành viên ở Trung ương và địa phương đã đề ra những
nhiệm vụ chính trong hoạt động đối ngoại nhân dân của mình trong thời gian
tới, cụ thể:
Tiếp tục duy trì, củng cố các đối tác truyền thống; chủ động thiết lập và
phát triển quan hệ với các đối tác mới phù hợp nhằm phát huy tinh thần đoàn
kết quốc tế, quan hệ hữu nghị và hợp tác, ủng hộ Việt Nam trong sự nghiệp
xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Cải tiến phương thức tổ chức và nội dung nhằm nâng cao hiệu quả thiết
thực của các hoạt động đối ngoại.
Chú trọng nâng cao hiệu quả chính trị, đẩy mạnh các hoạt động thúc
đẩy hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục…; tăng
cường các hoạt động hữu nghị, chủ động làm tốt công tác vận động các nguồn
lực và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức
12
12


PCPNN; phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế,
bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích của tổ chức và lợi ích quốc gia, dân tộc.
Phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức thành viên và
lợi thế của công tác đối ngoại nhân dân trong quan hệ và hoạt động đối ngoại;
chú trọng công tác đền ơn đáp nghĩa đối với các bạn bè quốc tế có công với
Việt Nam.
Phối hợp với các tổ chức nhân dân Việt nam trong các hoạt động đối
ngoại nhân dân; tăng cường huy động các nguồn lực về trí tuệ và vật chất
trong xã hội để đẩy mạnh các mặt của công tác đối ngoại nhân dân. Huy động
sự tham gia của các tổ chức và tầng lớp nhân dân vào các hoạt động đấu tranh
chống lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, chống
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Củng cố và phát triển tổ chức của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam; đảm bảo các chế độ, chính sách; tăng cường sự gắn kết giữa Liên hiệp
với các tổ chức thành viên ở Trung ương và địa phương, và giữa các tổ chức
thành viên; nâng cao năng lực của cán bộ chuyên trách và các lực lượng tham
gia công tác đối ngoại nhân dân.
Làm tốt công tác quản lý PCPNN thông qua việc hướng dẫn và triển
khai thực hiện các văn bản pháp quy liên quan hoạt động của các tổ chức
PCPNN; tích cực, chủ động vận động viện trợ PCPNN phục vụ các mục tiêu
xây dựng và phát triển đất nước.
Củng cố, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thông tin đối
ngoại; tuyên truyền có chiều rộng và chiều sâu về hoạt động đối ngoại nhân
dân nói chung, về hoạt động của Liên hiệp và các tổ chức thành viên nói riêng
đến các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước.
Phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các phong trào
nhân dân thế giới, nhằm góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn

13
13


cầu, vào cuộc đấu tranh chung cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ
xã hội, phù hợp với khả năng, điều kiện và lợi ích dân tộc.
Thời gian tới sẽ có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội cho công
tác đối ngoại nhân dân. Với niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng và sự lãnh đạo
của Đảng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc, vào các giá trị chính nghĩa và
tiến bộ của nhân loại, vào sức mạnh đoàn kết của toàndân, Liên hiệp và các tổ
chức thành viên sẽ tiếp tục phát huy truyền thống và bài học kinh nghiệm của
các thế hệ đi trước, nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, tiếp tục
củng cố, xây dựng tổ chức vững mạnh, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động để hoàn thành những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, góp phần xứng đáng

vào sự nghiệp phát triển mặt trận đối ngoại nhân dân, đóng góp có hiệu quả
cho công tác đối ngoại chung và sự nghiệp phát triển đất nước, bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về đối ngoại nhân dân
Đối ngoại nhân dân của ta trong thế kỷ XX có cội nguồn từ những năm
20, thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp hoạt động chính trị đối ngoại, lúc
đó vận động quốc tế là hoạt động đối ngoại nhân dân. Chính người đã nhận
thức đúng đắn về vai trò, vị trí của công tác quan trọng này và đặt công tác
này vào mặt bằng mới về cả lý luận lẫn thực tiễn nhờ đó đã vận động được
nhân dân thế giới ủng hộ đoàn kết với nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm
lược, đặc biệt là hình thành mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ đoàn
kết với nhân dân ta chống Mỹ cứu nước. Đối ngoại nhân dân cũng tạo điều
kiện mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự
hợp tác quốc tế, tạo thế đứng quốc tế vững chắc, không lệ thuộc bên ngoài tạo
môi trường bên ngoài thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
hiện nay. [15]
Công tác đối ngoại nhân dân dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh

1.2.1.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại nhân dân thực chất là công tác
dân vận, vận động các đối tượng quần chúng nhân dân trong và ngoài nước
14
14


đồng tình, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác đối ngoại
nhân dân là một bộ phận hợp thành của công tác đối ngoại chung, phối hợp và

phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao Nhà nước cùng thực hiện
nhiệm vụ, đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước.[18]
Lực lượng đối ngoại nhân dân bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức nhân dân, các hội nghề nghiệp rộng ra là nhân dân, mà các tổ
chức của Đảng, cơ quan của Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân (tiến
hành đối tượng và hình thức thích hợp); đồng thời có những tổ chức chính trị
- xã hội chuyên trách đối ngoại nhân dân là các tổ chức hòa bình, đoàn kết
hữu nghị hợp thành Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam.[12]
Nội dung tư tưởng về đối ngoại nhân dân của Hồ Chí Minh: [12]
1- Thêm bạn bớt thù, đoàn kết nhân dân trong nước gắn liền với đoàn
kết nhân dân thế giới vì lợi ích chân chính của nhân dân Việt Nam và nhân dân
thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phải “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết
và nhiều bạn đồng minh hơn hết”. Trong từng giai đoạn cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta đều phân rõ bạn, thù, bạn gần, bạn xa, bạn lâu dài,
bạn nhất thời, tìm cách giảm bớt kẻ thù, tránh đối phó với hai kẻ thù cùng một
lúc, xác định kẻ thù chính để tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
Người giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ bạn, thù, phân biệt bọn thực
dân Pháp và bọn Mỹ xâm lược với nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ để tranh
thủ sự ủng hộ và đoàn kết của nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ. Người từng
nói“Chẳng những chúng tôi đau xót vì đồng bào chúng tôi phải gian khổ hy
sinh, mà chúng tôi cũng thương xót cho các bà mẹ và người vợ Mỹ đã mất
con, mất chồng trong cuộc chiến tranh phi nghĩa ở miền Nam Việt Nam do
bọn quân phiệt Mỹ tiến hành”.
Gắn liền đoàn kết nhân dân trong nước với đoàn kết quốc tế chính là
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
cao cả, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế. Trong công
15
15



cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
chủ trương mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thắt chặt quan hệ với
các bạn bè truyền thống, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại theo
tinh thần "Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển", chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
bảo vệ đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.[16]
2-Kết hợp ngoại giao Nhà nước với công tác đối ngoại của Đảng và
đối ngoại nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, công tác đối
ngoại của Đảng và công tác đối ngoại nhân dân được kết hợp chặt chẽ với
nhau. Tư tưởng Hồ Chí Minh là vận dụng đối ngoại nhân dân để gây dựng
phong trào, tuyên truyền cho cách mạng, hỗ trợ cho đối ngoại của Đảng trong
thời kỳ trứng nước. Từ khi có chính quyền, ba "binh chủng" đối ngoại chính
thức được xây dựng và củng cố. Nhờ đó, công tác đối ngoại được thực hiện
hiệu quả, đồng bộ và uyển chuyển nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Để tạo ra và phát triển sức mạnh tổng hợp của công tác đối ngoại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn coi trọng thực hiện thống nhất sự lãnh
đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước đối với công tác đối ngoại.
Riêng công tác đối ngoại nhân dân phải tranh thủ được sự hỗ trợ của công tác
đối ngoại của Đảng và ngoại giao của Nhà nước để tăng thêm sức mạnh cho
mình và sức mạnh của công tác đối ngoại nói chung, góp phần thực hiện kết hợp
chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, đối ngoại với an ninh, quốc phòng.
Ngày nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh tổng hợp của dân tộc và
sức mạnh tổng hợp của ngoại giao, Đảng ta lãnh đạo về tổ chức kết hợp chặt chẽ
ngoại giao với quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế - xã hội, khoa học kỹ
thuật và văn hóa, chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, văn hóa đối ngoại; kết
hợp chặt chẽ ba bộ phân hợp thành công tác đối ngoại chung.

16
16


3- Coi trọng, phát huy vai trò và lợi thế của công tác đối ngoại
nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu hoạt động đối ngoại bằng hoạt động đối
ngoại nhân dân khi Người tìm đường cứu nước, chỉ đạo và vẫn trực tiếp tham
gia công tác đối ngoại nhân dân từ khi có Đảng và Nhà nước độc lập. Người
cho rằng, quan hệ nhân dân với nhân dân luôn là cơ sở cho mối quan hệ giữa
nước ta với các nước, là mối quan hệ bền vững và lâu dài, dù thái độ của
chính phủ nướcta có quan hệ thay đổi thế nào thì quan hệ nhân dân ta với
nhân dân nước đó vẫn không phai mờ hoặc mất đi.
Công tác đối ngoại nhân dân có sức mạnh của nhân dân làm hậu thuẫn
cho nên có lợi thế đặc thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, ngoại giao phải có thực
lực và phải biểu dương lực lượng, chính là nói đến sức mạnh của nhân dân
trong công tác đối ngoại. Lợi thế của đối ngoại nhân dân còn ở chỗ có thể sử
dụng cả lý lẽ và tình cảm để thuyết phục, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế; vận
động dư luận nhân dân ta và nhân dân các nước lên tiếng phản đối các âm
mưu hành động thù địch của các thế lực thù địch bên ngoài. Sử dụng sức
mạnh của nhân dân, công tác đối ngoại nhân dân có tiếng nói và hành động
mà công tác đối ngoại Đảng và nhất là ngoại giao nhà nước không có điều
kiện làm và nếu làm thì không có thuận lợi hoặc lại bất lợi, như khi bày tỏ sự
đồng tình và ủng hộ đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân một số
nước, phản đối lên án những hành động thù địch hoặc không thân thiện đối
với nhân dân ta và nhân dân một số nước khác. Tiếng nói của nhân dân ta và
nhân dân các nước trong đấu tranh dư luận có sức mạnh và tác động to lớn.
4- Nội dung, hình thức hoạt động phong phú, linh hoạt đồng thời đa
dạng hóa quan hệ trong công tác đối ngoại nhân dân
Công tác đối ngoại nhân dân và vận động quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí

Minh chỉ đạo trực tiếp có nội dung đặc biệt phong phú, có sức thuyết phục
mạnh mẽ: làm rõ chính nghĩa, chống phi nghĩa, lấy nhân nghĩa chống bạo tàn,
kêu gọi hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau...
17
17


Hình thức hoạt động đối ngoại nhân dân cũng rất đa dạng: nói chuyện,
viết báo, viết sách, tiếp xúc vận động cá nhân và tổ chức, nói chuyện ở các
diễn đàn của nước đối tác và diễn đàn quốc tế, họp mặt, liên hoan hữu nghị,
hội thảo, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao, trao đổi khoa học - kỹ thuật,
viện trợ nhân dân, hợp tác về giáo dục…
Công tác đối ngoại nhân dân luôn mở rộng đối tác vận động và quan hệ
từ các cá nhân thuộc các tầng lớp, nghề nghiệp, khuynh hướng chính trị khác
nhau đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính
phủ…; đồng thời duy trì, củng cố quan hệ với các bầu bạn cũ, tìm kiếm quan
hệ với các bầu bạn mới.
Trong tình hình mới, các hình thức hoạt động đối ngoại nhân dân cần
có sự đổi mới, không nên quá lễ nghi, khô cứng, rập khuôn mà phải linh hoạt
đa dạng, phi hình thức tùy vào hoàn cảnh và đối tượng cụ thể. Phương pháp
phải mềm dẻo, nhẫn nại lấy thuyết phục là chính. Cần phát huy được phẩm
chất tốt đẹp và bản sắc văn hóa của người vn, cần chú ý đến quan hệ giữa con
người và con người trong quá trình giao tiếp và hợp tác, phải chân thành cởi
mở và thẳng thắn trong thái độ và nghiêm túc trong công việc mới xây dựng
được thiện cảm và tạo được niềm tin.
5- Tập hợp lực lượng rộng rãi tham gia hoạt động đối ngoại nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác đối ngoại nhân dân do nhiều lực
lượng tham gia, bao gồm không chỉ các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính
trị xã hội, các tổ chức văn hóa, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật, các hội nghề
nghiệp và rộng ra là nhân dân, mà các tổ chức của Đảng và các cơ quan nhà

nước các cấp ngành, các lực lượng vũ trang. Đồng thời, có những tổ chức
chính trị - xã hội được thành lập để chuyên hoạt động đối ngoại nhân dân
trong các lĩnh vự hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, viện trợ nhân dân như Liên
hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam.
Ngay khi cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành lập
Hội Việt - Hoa thân hữu. Trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống
18
18


Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã cho thành lập Ủy ban bảo vệ hòa bình
thế giới của Việt Nam, Ủy ban đoàn kết nhân dân Á-Phi, Hội quốc tế ngữ bảo vệ
hòa binh, các hội hữu nghị và Ủy ban đoàn kết song phương với nhân dân nhiều
nước để tập hợp đông đảo quàn chúng tham gia công tác đối ngoại nhân dân.
Khẳng định đối ngoại nhân dân là phương tiện chủ yếu và vô cùng
quan trọng để tiếp cận thế giới nên Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng bào mình
bằng những hoạt động khôn khéo để chinh phục nhân dân các nướcđể nhân
dân thế giới hiểu rõ Việt Nam, có tình cảm với Việt Nam. Không chỉ quan tâm
định hướng cho đồng bào ở trong nước mà cho cả đồng bào ở nước ngoài để
tạo ra phong trào nhân dân làm đối ngoại, để mọi người Việt Nam dù ở đâu
cũng tham gia mặt trận đối ngoại với mục đích nâng cao vị thế của dân tộc
mình. Phải chan hòa gắn bó với họ theo tinh thần “bán bà con xa mua láng
giềng gần” để thuyết phục họ, cảm hóa họ.
Có thể nói, đối ngoại nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện là
một hoạt động cách mạng có sự thống nhất với mọi hoạt động cách mạng
khác ở tư tưởng chủ đạo nhất quán của Người là chủ nghĩa yêu nước,có mục
tiêu bất di bất dịch là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với tinh
thần lấy dân làm gốc, mọi xuất phát đều bắt đầu từ dân, do dân, vì dân. Như
vậy, thấy được rằng cả về lý luận và thực tiễn, đối ngoại nhân dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm rất sáng rõ bản chất

cách mạng và khoa học. Đó chính là nền tảng tư tưởng của đối ngoại nhân
dân mà Đảng và Chính phủ cùng nhân dân Việt Nam thường xuyên tiếp cận,
tiếp thu và phát triển sáng tạo trong hành động.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại nhân dân

1.2.2.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất chú trọng đẩy mạnh công tác đối ngoại, vận động quốc tế, trên
cơ sở kiên trì và phát triển hai quan điểm cơ bản: một là, đoàn kết với giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới; hai là, gắn cách mạng ở thuộc
địa với cách mạng ở chính quốc, gắn cách mạng của nhân dân Việt Nam với
19
19


cách mạng của nhân dân lao động Pháp. Cho đến khi Cách mạng tháng Tám
thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (1945), hoạt
động đối ngoại, vận động quốc tế của Đảng và nhân dân Việt Nam là hoạt
động đối ngoại nhân dân.
Ngày 07/3/1960, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 106NQ/TW về việc thành lập Ban Công tác đối ngoại của Trung ương, gọi tắt là
Ban Đối ngoại, và giao cho Ban Đối ngoại chỉ đạo công tác đối ngoại của các
tổ chức nhân dân.
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra mục tiêu đối ngoại
là giữ vững hòa bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện
công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước, góp phần
tích cực vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. [5]
Tháng 8-1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Khoá VI ra
Nghị quyết số 13, đánh dấu việc đổi mới tư duy đối ngoại theo hướng đa dạng

hoá, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Đầu thập niên 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ. Tháng 6/1991, Đại hội lần thứ VII của Đảng nêu rõ mục tiêu: “Trong điều
kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống
với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa”. Đại hội cũng nhấn mạnh chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi
với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ
sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” và “đoàn kết với các lực lượng đấu
tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội…”. [6]
Năm 1992, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa
VII đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”. Nghị quyết Hội nghị phân tích hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan
20
20


hệ quốc tế, và nói rõ: “Tùy từng đối tượng, trên từng vấn đề và ở từng thời
điểm, hoặc mặt hợp tác hoặc mặt đấu tranh nổi lên hơn. Ta cố gắng thúc đẩy
mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và với mức độ thích
hợp với từng đối tượng, trên từng vấn đề nhằm bảo vệ lợi ích của dân tộc…”
Tháng 6/1996, Đại hội lần thứ VIII của Đảng (trong Báo cáo chính trị)
khẳng định “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”. Đại hội cũng nêu nhiệm vụ “mở rộng quan hệ đối
ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình
và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình,

hợp tác, phát triển.” [7]
Trước đó, ngày 24/9/1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng Khoá VII ra
Chỉ thị số 44-CT/TW “Về mở rộng và đổi mới hoạt động đối ngoại nhân
dân”. Chỉ thị nêu rõ:
“1. Công tác đối ngoại nhân dân là bộ phận cấu thành công tác đối
ngoại chung của nước ta...
2. Hoạt động đối ngoại của các đoàn thể quần chúng, tổ chức chính trị xã hội, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ phải thể hiện chính sách đối
ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế một cách
sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với khả năng từng tổ chức, đoàn thể
của ta và đặc điểm từng đối tượng nước ngoài ta có quan hệ.
3. Hoạt động đối ngoại nhân dân nhằm:
a- Làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ đất nước và con người Việt Nam,
chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, tranh thủ thiện cảm,
sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân các nước đối với công cuộc đổi mới, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
b- Tăng cường tình hữu nghị, mở rộng quan hệ hợp tác với nhân dân
các nước trên thế giới, bảy tỏ sự đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa
của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quuyeets
21
21


những vấn đề có tính toàn cầu như loại trừ vũ khí hạt nhân, phòng chống bệnh
AIDS, bảo vệ môi trường, v.v. . Đấu tranh với những quan điểm, ý đồ và hành
động xấu của một số người và tổ chức nước ngoài đối với ta.
c- Tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới về vốn,
chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh tế và quản lý xã hội, đào
tạo cán bộ...
Việc phát triển quan hệ với các cá nhân, nhân sĩ nước ngoài, các tổ
chức chính trị - xã hội, phi chính phủ, hội nghề nghiệp, quốc gia, khu vực và

quốc tế phải có lợi cho các mục đích nói trên.” [6] [28]
Ngày 06/7/2011, sau 17 năm thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW, Ban Bí thư
Trung ương Đảng (Khóa XI) ra Chỉ thị 04-CT/TW về “Tiếp tục đổi mới và
nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới”. Cụ thể:
Chỉ thị khẳng định các quan điểm:
“Đối ngoại nhân dân là bộ phận cấu thành của công tác đối ngoại chung
của Đảng và Nhà nước ta. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại
nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn dân mà nòng cốt là
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, các
đoàn thể và tổ chức nhân dân.
Với phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, triển
khai công tác đối ngoại nhân dân trên cơ sở thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập
trung của Nhà nước, phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại nhân dân với đối ngoại
đảng và ngoại giao nhà nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp của mặt trận đối
ngoại.” [8]
Chỉ thị xác định những mục tiêu:
“Làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ đất nước, truyền thống và con
người Việt Nam, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta,
những thành tựu của công cuộc đổi mới của ta; đấu tranh với những âm mưu
và hành động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hòa
bình để xây dựng, phát triển đất nước.
22
22


Xây dựng và tăng cường tình cảm hữu nghị của nhân dân các nước với
nhân dân ta và của nhân dân ta với nhân dân các nước, vận động các nguồn
lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, tranh thủ sử ủng hộ và giúp đỡ rộng
rãi của bạn bè quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây

dựng và bảo vệ Tô quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. [8]
Chỉ thị đề ra các nhiệm vụ:
“Chủ động mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước,
coi trọng phát triển quan hệ có chiều sâu với nhân dân các nước láng giềng và
các nước có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của ta; củng cố quan
hệ với bạn bè truyền thống, tăng cường quan hệ với các lực lượng yêu chuộng
hòa bình và tiến bộ trên thế giới; đồng thới, mở rộng quan hệ với các tổ chức,
cá nhân và nhân sĩ nước ngoài, tranh thủ tình cảm và sự ủng hộ của họ đối với
Việt Nam, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng đối tác.
Huy động sự tham gia của các tổ chức và tầng lớp nhân dân vào các
hoạt động đấu tranh chống lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc,
tôn giáo, chống ‘diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đấu tranh bảo
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Chú trọng quan hệ hợp tác về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường v.v... Chủ động làm tốt công tác vận động các
nguồn lực và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức
phi chính phủ nước ngoài, phùhợp với quy định của pháp luật Việt Nam và
thông lệ quốc tế, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích của tổ chức và lợi ích
quốc gia, dân tộc.
Chủ động và nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối
ngoại, làm cho bạn bè quốc tế và nhân dân thế giới ngày càng hiểu đúng và
đầy đủ hơn về đất nước và con người Việt Nam, về đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới của nước ta...
Phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các phong trào
nhân dân thế giới, nhằm góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn

23
23


cầu, vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã

hội, phù hợp với khả năng, điều kiện và lợi ích của nước ta.”[8]
1.3.

Tầm quan trọng của đối ngoại nhân dân trong giai đoạn hiện nay
Trong điều kiện mới, nhiệm vụ mới, đối ngoại nhân dân tiếp tục khẳng
định vai trò quan trọng phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước, hỗ trợ
đắc lực cho ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối ngoại mà chính
phủ nước đó đề ra.Đối ngoại nhân dân là “vũ khí” của mỗi quốc gia. Vũ khí
này cần phải phát huy hơn nữa trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Hoạt động đối ngoại nhân dân chính là “sức mạnh mềm” để bảo vệ tổ
quốc, gắn liền với sự nghiệp dựng và giữ nước của dân tộc ta. Như Nguyên
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã khẳng định: “Công tác đối ngoại nhân
dân luôn có vai trò hết sức quan trọng, cả trong thời kỳ đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước”.
Đối ngoại nhân dân được coi là một trong ba trụ cột đối ngoại của nước
ta hiện nay (cùng với đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước). Lợi thế của
đối ngoại nhân dân là có tiếng nói linh hoạt giữa con người với con người vừa
có thể tiến hành các biện pháp đối ngoại trên một số vấn đề và ở những nước,
khu vực trong những hoàn cảnh cụ thể mà đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà
nước không có điều kiện làm hoặc nếu làm thì không thuận lợi như mong
muốn.[23]
Khi tìm đường cứu nước và vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước hình thành và phát triển quan điểm,
nguyên tắc và nội dung, phương thức công tác đối ngoại nhân dân và công tác
đối ngoại của Đảng. Hoạt động đối ngoại nhân dân lúc này được tăng cường
với mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đặt
cách mạng nước ta vào vị trí là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới. Nhờ vậy cách mạng nước ta ngay từ đầu đã có khả năng kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc
tế, tạo cho mình sức mạnh tổng hợp to lớn để giành thắng lợi.

24
24


Những hoạt động đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân trong thời kỳ
1930 - 1945 đã tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ của Quốc tế cộng sản, của
Liên Xô và cách mạng Trung Quốc đối với Đảng và cách mạng nước ta, tạo điều
kiện thuận lợi cho thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám 1945.
Thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoạt động đối ngoại nhân
dân đã góp phần phát huy tính chính nghĩa, tinh thần anh dũng và các bước
thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta, vận động được phong trào
nhân dân thế giới, trước hết là nhân dân Pháp, đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ
nhân dân ta kháng chiến. Phụ thuộc chào mừng như thắng lợi của chính mình.
Các phong trào giải phóng dân tộc được thắng lợi của nhân dân Việt Nam cổ
vũ, tăng thêm lòng tin trong đấu tranh, vì nhân dân Việt Nam đã chứng tỏ:
một dân tộc nhỏ đã chiến thắng một đế quốc to, mở đầu sự phá sản của hệ
thống thuộc địa trên thế giới.
Hiện nay, công tác đối ngoại nhân dân ngày càng khẳng định tầm quan
trọng trong công tác ngoại giao của ta, cụ thể:
- Một là, góp phần tranh thủ được thiện cảm, sự đồng tình và ủng hộ
ngày càng rộng rãi của nhân dân các nước đối với công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ đất nước của
nhân dân ta. Đồng thời góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia và an
ninh chính trị, chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ của
các thế lực thù địch.
- Hai là, qua những hoạt động vì hòa bình, hữu nghị, đoàn kết và hợp
tác giúp nhân dân ta bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội, đặc biệt là
nhân dân Cuba, Palextin, Irắc, Libi, Triều Tiên, Nam Tư, tham gia giải quyết
những vấn đề có tính toàn cầu như loại trừ vũ khí hạt nhân, xóa đói giảm

nghèo, bảo vệ môi trường…
- Ba là, công tác đối ngoại nhân dân góp phần vận động tranh thủ sự
giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới về vốn, chuyển giao công nghệ,
25
25


×