Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thưc trạng pháp luật về bảo trợ xã hôi đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn quận ngô quyền, thành phố hải phòng phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.35 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI
ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT
TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGÔ QUYỀN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LÊ THỊ THÙY TRANG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HUY KHOA

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu độc lập
của tôi; các số liệu sử dụng và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn
toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ cho bất cứ một học vị nào.
Trong luận văn đã sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau để phục vụ
cho quá trình nghiên cứu, các nguồn thông tin đã được xử lý và trích dẫn rõ
nguồn tài liệu tham khảo theo quy định./.
Hà Nội, tháng

năm 2018

Tác giả


Lê Thị Thùy Trang


LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập tại Viện Đại học Mở Hà Nội, tôi đã hoàn thành
khóa học thạc sĩ nhờ vào sự hướng dẫn và truyền đạt tận tâm của các thầy, cô
giáo. Bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ rất nhiều của tập
thể sư phạm viện còn có sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cá nhân, tập thể
trong và ngoài nhà trường; đến nay tôi đã hoàn thành chương trình các môn
học và luận văn.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy,
cô trong và ngoài Viện Đại học Mở Hà Nội, các thầy, cô trực tiếp giảng dạy
trong suốt hai năm học và đặc biệt là TS. Nguyễn Huy Khoa – Khoa Luật,
trường Đại học Công đoàn đã dành nhiều thời gian, tâm huyết để hướng dẫn,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các
đồng chí lãnh đạo, chuyên viên Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội,
Phòng Nội vụ, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Bảo hiểm xã hội Quận Ngô
Quyền, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội quận Hồng Bàng, Lê Chân,
thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện để tôi tiếp cận dữ liệu, thu thập hồ sơ và
xử lý số liệu góp phần hoàn thành luận văn.
Với sự cố gắng của bản thân, tôi đã hoàn thiện luận văn của mình bằng
cả kiến thức đã được trang bị và vốn kinh nghiệm sẵn có nhưng không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự tham gia đóng góp
ý kiến của quý thầy cô cùng toàn thể các bạn./.
Tôi xin được trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 2018
Tác giả


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ............................................... 4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 8
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu ................................ 8
7. Cơ cấu của luận văn ...................................................................................... 9
Chương 1 ........................................................................................................ 10
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI TRẺ EM CÓ HOÀN
CẢNH ĐẶC BIỆT VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI
CHẾ ĐỘ BẢO TRỢ XÃ HỘI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT 10
1.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ....................... 10
1.1.2. Khái niệm về bảo trợ xã hội .......................................................... 14
1.1.3. Khái niệm về pháp luật bảo trợ xã hội và chế độ bảo trợ xã hội đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ..................................................................... 16
1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt ............................................................................................................ 17
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật về bảo trợ xã hội đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ..................................................................... 17
1.2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo trợ xã hội đối với trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt ...................................................................................... 19


1.3. Ý nghĩa của pháp luật bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
......................................................................................................................... 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................. 39
Chương 2 ........................................................................................................ 40
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI VỚI

TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT TẠI QUẬN NGÔ QUYỀN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ........................................................................ 40
2.1. Khái quát chung về quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng .................. 40
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội ............................... 40
2.1.2. Tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân và Phòng Lao động –
Thương binh và Xã hội Quận Ngô Quyền ...................................................... 43
2.1.3. Tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và công tác bảo trợ xã hội
đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn Quận Ngô Quyền ............. 44
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ bảo trợ xã hội đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt tại Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng .................... 47
2.2.1. Việc áp dụng, thực hiện các nguyên tắc của pháp luật bảo trợ xã
hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ........................................................ 47
2.2.2. Đối tượng được bảo trợ xã hội ...................................................... 50
2.2.4. Quyền lợi về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt 53
2.2.5. Trình tự, thủ tục hưởng bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt ............................................................................................................ 58
2.2.6. Nguồn tài chính và cơ quan tổ chức thực hiện ............................. 58
2.2.7. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt .................................................................................................... 60


2.3. Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật bảo trợ xã hội đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ..... 60
2.3.1. Những kết quả đạt được ................................................................ 60
2.3.2. Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân ...................................... 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 69
Chương 3 ........................................................................................................ 70
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI
VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT TẠI QUẬN NGÔ QUYỀN,

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ........................................................................ 70
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt. ................................................................................................... 70
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt. ............................................................................... 75
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo trợ xã
hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt Quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng. .............................................................................................................. 78
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .............................................................................. 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2

Tên bảng
Tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

Trang
45

Quận Ngô Quyền 6 tháng đầu năm 2018
Bảng tổng hợp số đối tượng bảo trợ xã hội

54


đang hưởng trợ cấp hàng tháng tính đến
tháng 6 năm 2018
Bảng 2.3

Tình hình thực hiện chế độ đối với trẻ được
nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng
của Quận Ngô Quyền

56


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên sơ đồ, biểu đồ

Trang

Biểu 2.1

Cơ cấu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt Quận

46

Ngô Quyền
Biểu 2.2

Cơ cấu số trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh


47

đặc biệt trên địa bàn thành phố Hải Phòng
Biểu 2.3

So sánh số trẻ em thuộc đối tượng được

51

hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên và số trẻ
em thuộc đối tượng đã được hưởng chính
sách trợ giúp của Nhà nước
Biểu 2.4

Tỷ lệ hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc,
nuôi dưỡng tại cộng đồng được hưởng trợ
cấp hàng tháng theo quy định

57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trẻ em là những mầm non, những người chủ tương lai của đất nước.
Bác Hồ từng nói: “Cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá
mới tươi, quả mới tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng, giáo dục hẳn hoi thì dân
tộc mới tự cường tự lập”[1]. Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm nhất
quán về quyền trẻ em cũng như tầm quan trọng của việc đầu tư cho trẻ em.
Theo đó, công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em được coi là nhiệm vụ
chính trị quan trọng, là vấn đề được ưu tiên, có tính chiến lược, lâu dài, có ý

nghĩa quan trọng trong lịch sử Việt Nam cũng như trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Có thể khẳng định,
đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai đất nước. Năm 1990, Việt Nam là
nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước
quốc tế về Quyền trẻ em. Năm 1991, nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục trẻ em. Đến năm 2016, Chính phủ ban hành Luật Trẻ em và
có hiệu lực từ ngày 01.6.2017. Điều đó thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà
nước về việc đảm bảo cho mọi trẻ em Việt Nam được đối xử bình đẳng, có
điều kiện tốt nhất để phát triển thể chất và trí tuệ, giúp các em được sống
trong một môi trường lành mạnh, an toàn và đều được hưởng các quyền cơ
bản và cũng như có cơ hội làm tròn bổn phận của trẻ em. Đây là phương thức
cam kết mạnh mẽ của nước ta trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em với cộng đồng trong và ngoài nước. Trong nhiều năm qua, nước ta đã
đề ra và thực hiện không ít những chính sách, văn bản hướng dẫn vể các tiêu
chuẩn, quy chuẩn, chương trình mục tiêu, các dự án, cũng như quan tâm đầu
tư xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, xây
dựng và phát triển các hệ thống dịch vụ liên quan nhằm thực hiện nâng cao
1


chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Có thể nhận thấy rằng, hệ thống
pháp luật liên quan đến công tác trẻ em ngày càng từng bước được bổ sung,
hoàn thiện. Chính vì vậy, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của
nước ta trong nhiều năm qua luôn có những chuyển biến tích cực. Hiện nay,
tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang ổn định và phát triển mạnh mẽ, tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đối với thế hệ trẻ,
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng và dành nhiều sự quan tâm,
tạo điều kiện. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế đi kèm với những hệ lụy của nó đang đặt ra những vấn đề xã hội

cấp bách ảnh hưởng đến an sinh của con người, đặc biệt là trẻ em. Thực tiễn
cho thấy, bên cạnh những trẻ em bình thường còn có một nhóm trẻ em cần có
sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và cộng đồng xã hội, đó là trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt. Trong những năm gần đây, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có xu
hướng gia tăng, nhất là khi bạo hành, xâm hại trẻ em đang trở thành một vấn
nạn, gióng lên hồi chuông cảnh báo của cả cộng đồng. Theo báo cáo của Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, tính đến cuối tháng 12 năm
2017, cả nước có 26.285.632 trẻ em, trong đó có 1.450.749 trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt và khoảng 2,1 triệu trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt[2].
Trong những năm qua, Việt nam đã đạt một số kết quả đáng ghi nhận
trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên,
không phải tất cả trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đều thoát khỏi hoàn cảnh của
chính mình để vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Hiện nay, tình trạng phân
tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng về cơ hội phát triển giữa
nhóm trẻ em đang dẫn đến nguy cơ gia tăng trẻ em lao động, trẻ em lang
thang, tai nạn thương tích trẻ em và tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật. Xã
2


hội càng phát triển, quá trình hội nhập quốc tế càng sâu, càng dẫn đến sự thay
đổi trong các chuẩn mực giá trị sống và đạo đức xã hội. Các hình mẫu gia
đình hạt nhân dần thay thế cho hình mẫu gia đình truyền thống đã làm tăng
nguy cơ sao nhãng, ngược đãi, bạo lực và xâm hại trẻ em. Trong tình hình
hiện nay, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong những năm tới sẽ gặp những
khó khăn, thách thức mới. Vì vậy, nhằm nâng cao hoạt động hỗ trợ xã hội cho
các nhóm đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 phê duyệt Đề án Chăm sóc trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS,
trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị

ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 –
2020[3]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt.
Cũng như các địa phương khác, Quận Ngô Quyền thành phố Hải Phòng
đang phải đối mặt với việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có công tác
chăm sóc, hỗ trợ cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Nhờ hệ thống các cơ sở
bảo trợ xã hội trên địa thành phố, sự phối hợp hoạt động của các phòng, ban,
ngành, đoàn thể quận, các đơn vị liên quan trong việc huy động các nguồn lực
chính trị xã hội, sự chung tay của toàn xã hội mà trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
trên địa bàn quận đã và đang được quan tâm chăm sóc. Tuy nhiên, sự quan
tâm, giúp đỡ, hỗ trợ cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt của quận vẫn còn những
hạn chế nhất định cần phải giải quyết. Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu
nào về hoạt động này tại Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Về mặt lý luận, trẻ em với sự phát triển chưa đầy đủ năng lực về kiến
thức, suy nghĩ và hành vi, bởi vậy các em rất dễ bị tác động của bối cảnh môi
trường, đặc biệt là các tác động gây ảnh hưởng xấu cho các em. Bên cạnh đó,
3


trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn có nhiều thiệt thòi vì các em có những thiếu
thốn cả về thể chất và tinh thần so với những trẻ em cùng lứa khác. Vì vậy,
các em cần được sự quan tâm đặc biệt hơn. Từ thực tiễn và lý luận nêu trên,
tôi chọn đề tài nghiên cứu “Thực trạng pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn Quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng” để làm luận văn cao học chuyên ngành Luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là đối tượng nhận được nhiều sự quan
tâm của xã hội. Trong thời gian qua, đã có rất nhiều công trình, đề tài, bài báo
trên nhiều lĩnh vực khác nhau hướng đến đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn là lĩnh vực khoa học xã hội, cụ thể như:

- Luận án tiến sĩ luật học với đề tài: “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Tăng Thị Thu Trang, Học viện Khoa
học xã hội, năm 2016[4].
- Luận văn thạc sĩ công tác xã hội với đề tài: “Công tác xã hội đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn các trung tâm bảo trợ xã hội trên
địa bàn tỉnh Bình Định” của tác giả Võ Thị Diệu Quế, Học viện Khoa học xã
hội, năm 2014[5].
- Bài viết về “Kinh nghiệm của một số nước về hệ thống bảo vệ trẻ em”
của TS. Nguyễn Hải Hữu, Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, năm 2015[6].
- Bài báo cáo “Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam: Đánh giá
pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam” do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội được sự hỗ trợ
của UNICEF tổ chức biên soạn năm 2009[7]. Bài báo cáo đã nêu ra tổng quan
về tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ dễ bị tổn thương trên thế giới và
4


ở Việt Nam. Đồng thời, bản báo cáo còn cho chúng ta thấy các hoạt động
chăm sóc, bảo vệ trẻ em như trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị lạm
dụng và bóc lột tình dục, trẻ em đường phố….dựa trên luật pháp, chính sách
của Việt Nam.
- Bài viết của Dương Kim Hồng và Kenichi Ohno “Trẻ đường phố Việt
Nam những nguyên nhân truyền thống và nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa
các nguyên nhân ngày trong nền kinh tế đang phát triền” trên diễn đàn phát
triển Việt Nam tháng 7 năm 2005[8]. Bài viết đã nêu lên khái niệm trẻ em
đường phố. Từ đó, tác giả đã phân loại trẻ em đường phố. Bên cạnh đó, tác
giả còn điểm lại những hoạt động nghiên cứu về trẻ em đường phố tại hai
thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Qua bài viết, tác giả đã
cho chúng ta thấy được tình hình chung của trẻ em đường phố ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, đề tài đã cung cấp khá cụ thể các định

nghĩa về trẻ em đường phố của các tổ chức quốc tế.
- Nghiên cứu “Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa
vào cộng đồng – những cơ sở xã hội và thách thức” của Nguyễn Hồng Thái
và Phạm Đỗ Nhật Thắng, công trình đã góp phần tìm hiểu những cơ sở xã hội
phải đối mặt trong quá trình chăm sóc trẻ có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào
nguồn lực từ cộng đồng[9].
- Bài viết “Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở Việt Nam hiện nay:
Thực trạng và giải pháp” của Đào Hồng Lan ngày 22/7/2015 trên Tạp chí
Cộng sản và bài viết “Thực trạng xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Thị Hải Hà ngày 23/6/2017 trên tạp chí
Tổ chức Nhà nước[10] đã chỉ rõ thực trạng chăm sóc bảo vệ trẻ em ở Việt Nam
giai đoạn hiện nay, nguyên nhân của thực trạng và đề xuất giải pháp ưu tiên
về chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
5


- Nghiên cứu “Tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và các dự báo
đến năm 2020” của tác giả Lê Thu Hà[11], đã phản ánh thực trạng trẻ em
nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam đến năm 2010, cơ hội
thách thức và các dự báo đến năm 2020. Qua đó, có thể thấy nhóm trẻ em
nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đang cần rất nhiều hỗ trợ. Xã hội cần ý
thức việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em để hạn chế gia tăng số lượng của
nhóm chủ thể này trong giai đoạn mới.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã bước đầu tiếp cận các vấn đề bức
thiết của thực tiễn đặt ra, cung cấp được các luận cứ làm cơ sở cho việc rà
soát, đánh giá thực trạng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đồng thời, còn có
nhiều công trình khoa học khác nghiên cứu vấn đề trẻ em ở nhiều khía cạnh
khác nhau.
Riêng đối với chủ đề liên quan đến thực trạng pháp luật về bảo trợ xã
hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và thực tiễn thực hiện tại địa bàn

Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thì đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu về vấn đề này. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu đề tài này là vấn
đề mới đang đặt ra, vừa khó khăn, vừa đòi hỏi phải nghiên cứu những điều
kiện đặc thù của quận để công tác thực hiện pháp luật bảo trợ xã hội đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có hiệu quả hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng
thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt trên địa bàn Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, từ đó đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo trợ xã hội cho trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn Quận Ngô Quyền trong giai đoạn hiện nay
và những năm tiếp theo.
6


Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận về bảo
trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và sự điều chỉnh pháp luật về
bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; phân tích thực trạng thực
hiện chế độ bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn
Quận Ngô Quyền; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chế độ bảo trợ xã hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn Quận Ngô
Quyền, thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật hiện hành về bảo trợ xã
hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và thực tiễn thực hiện pháp luật bảo
trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn Quận Ngô Quyền,
thành phố Hải Phòng.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định như sau:

Về nội dung: luận văn tập trung vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp lý về thực trạng pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt và thực tiễn thực hiện trên địa bàn Quận Ngô Quyền.
Về không gian và thời gian nghiên cứu: luận văn được triển khai
nghiên cứu và hoàn thành trên cơ sở gắn với thực tiễn thực hiện pháp luật bảo
trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Quận Ngô Quyền, thành
phố Hải Phòng, trong khoảng thời gian 01 năm trở lại đây (từ tháng 6 năm
2017 đến tháng 6 năm 2018, khi Luật Trẻ em 2016 có hiệu lực).

7


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiếp cận theo phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo
trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong việc giải quyết nhiệm vụ
nghiên cứu. Trong từng nội dung cụ thể, để làm sáng tỏ vấn đề luận văn sử
dụng các phương pháp diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp và khái quát
hóa để nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp luật chế độ bảo trợ xã hội đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Phương pháp so sánh luật học, đối chiếu,
phỏng vấn sâu, điều tra khảo sát, thống kê, thu thập thông tin tư liệu, quan
sát,… được áp dụng để nghiên cứu nhằm đưa ra các ý kiến đánh giá, nhận xét
và rút ra kết luận khoa học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Luận văn là công trình nghiên cứu về hệ thống lý luận về bảo trợ xã hội
đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cũng như đánh giá thực tiễn thực hiện
pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Do đó, luận
văn sẽ góp phần bổ sung một số vấn đề lý luận mới về bảo trợ xã hội đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, góp phần làm phong phú thêm hệ thống cơ sở
dữ liệu cho việc phân tích lý luận về thực tiễn pháp luật về bảo trợ xã hội đối

với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính ứng dụng thực tiễn. Một là,
luận văn đóng góp những căn cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Hai là, xác định
được thực trạng pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt và thực tiễn thực hiện trên địa bàn Quận Ngô Quyền. Từ đó đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo trợ xã hội đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
8


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, các danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
nội dung của luận văn được kết cấu gồm có 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo trợ xã hội trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt và sự điều chỉnh của pháp luật đối với chế độ bảo trợ xã hội trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo trợ xã hội đối với trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt tại Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Quận Ngô Quyền,
thành phố Hải Phòng.

9


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI TRẺ EM CÓ
HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI CHẾ ĐỘ BẢO TRỢ XÃ HỘI TRẺ EM CÓ

HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
* Khái niệm trẻ em:
Trong các văn bản quốc tế và chương trình của Liên Hợp quốc sử dụng
đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Theo Điều 1
Công ước về quyền trẻ em[12] quy định như sau: “Trong phạm vi của Công
ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp
áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn”. Tại Điều 2 trong
Công ước số 182[13] – Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999 quy định: “Trong công
ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18
tuổi”.
Ở Việt Nam, theo Điều 1 Luật Trẻ em 2016[14] quy định “Trẻ em là
người dưới 16 tuổi”. Như vậy, theo Luật Trẻ em 2016, độ tuổi trẻ em của
Việt Nam thấp hơn 02 tuổi so với Công ước Quốc tế về quyền trẻ em, Công
ước số 182.
* Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và các nhóm trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt:
10


Tùy từng thời điểm và từng quốc gia mà khái niệm về trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định.
Ở Việt Nam, theo Khoản 10, Điều 4 Luật Trẻ em 2016[14] quy định:
“Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em không đủ điều kiện thực hiện được
quyền sống, quyền được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền
học tập, cần có sự hỗ trợ, can thiệp đặc biệt của Nhà nước, gia đình và xã hội
để được an toàn, hòa nhập gia đình, cộng đồng.”

Từ định nghĩa trên, ta có thể thấy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có
những đặc điểm sau: Thứ nhất, không đủ điều kiện thực hiện các quyền cơ
bản (quyền sống, quyền được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng,
quyền học tập). Thứ hai, cần có sự hỗ trợ, can thiệp đặc biệt của Nhà nước,
gia đình và xã hội để được an toàn, hòa nhập gia đình và cộng đồng.
Theo khoản 1, Điều 10 Luật Trẻ em 2016[14] thì trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt bao gồm 14 nhóm sau đây:
Một là, trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ: Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ
không có người chăm sóc; Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ được nuôi dưỡng
trong cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em hoặc cơ sở trợ giúp xã hội; Trẻ em
mồ côi cả cha và mẹ sống với người thân thích; Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ
được nhận chăm sóc thay thế bởi cá nhân, gia đình không phải người thân
thích, trừ trường hợp được nhận làm con nuôi.
Hai là, trẻ em bị bỏ rơi: Trẻ em bị bỏ rơi chưa được chăm sóc thay thế;
Trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc thay thế.
Ba là, trẻ em không nơi nương tựa: Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ và
người còn lại mất tích theo quy định của pháp luật; Trẻ em mồ côi cha hoặc
mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ
11


giúp xã hội hoặc không còn khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng; Trẻ em mồ côi
cha hoặc mẹ và người còn lại đang chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc
đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc; Trẻ em có cả cha và mẹ mất tích theo quy định của pháp luật; Trẻ
em có cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại
đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội; Trẻ em có
cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang chấp
hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Trẻ em có cả cha và mẹ không

còn khả năng chăm sóc trẻ em; Trẻ em có cả cha và mẹ đang hưởng chế độ
chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội; Trẻ em có cả cha và mẹ đang
chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Trẻ em có cha hoặc mẹ đang
hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội và người còn lại
đang chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Trẻ em sống trong gia
đình có cả cha và mẹ trong độ tuổi trẻ em; Trẻ em có cả cha và mẹ bị hạn chế
quyền làm cha mẹ hoặc tạm thời cách ly khỏi cha hoặc mẹ theo quy định của
pháp luật.
Bốn là, trẻ em khuyết tật: Trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng; Trẻ em
khuyết tật nặng; Trẻ em khuyết tật nhẹ.
Năm là, trẻ em nhiễm HIV/AIDS: Trẻ em nhiễm HIV/AIDS theo quy
định pháp luật.
Sáu là, trẻ em vi phạm pháp luật: Trẻ em vi phạm pháp luật đang bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính, giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng; đang bị áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi
12


phạm hành chính quản lý tại gia đình; Trẻ em vi phạm pháp luật chưa xác
định được nơi cư trú ổn định đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, tại cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở
trợ giúp xã hội; Trẻ em vi phạm pháp luật đang bị áp dụng biện pháp tư pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng; đang bị áp
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn hoặc tù có thời hạn
nhưng được hưởng án treo; Trẻ em chấp hành xong hình phạt tù có thời hạn
hoặc chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Bảy là, trẻ em nghiện ma túy: Trẻ em nghiện ma túy trong cơ sở cai
nghiện; Trẻ em nghiện ma túy đang áp dụng biện pháp cai nghiện, điều trị

nghiện tại gia đình, cộng đồng.
Tám là, trẻ em phải bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành phổ cập giáo
dục trung học cơ sở: Trẻ em phải bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành phố cập
giáo dục trung học cơ sở không có người chăm sóc; Trẻ em phải bỏ học kiếm
sống chưa hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở sống cùng cha, mẹ
hoặc người chăm sóc.
Chín là, trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị
bạo lực: Trẻ em bị bạo lực dẫn đến rối loạn tâm thần, hành vi, hạn chế khả
năng giao tiếp, học tập hoặc khả năng tự thực hiện một số việc phục vụ nhu
cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày theo kết luận của cơ quan giám định, cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh hoặc người có chuyên môn được cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền yêu cầu kiểm tra, đánh giá mức độ tổn hại của trẻ em.
Mười là, trẻ em bị bóc lột: Trẻ em bị bắt buộc tham gia lao động trái
quy định của pháp luật về lao động; Trẻ em bị rủ rê, xúi giục, kích động, lợi
dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc tham gia các hoạt động trình diễn hoặc bị sử
dụng trong sản xuất các sản phẩm khiêu dâm; Trẻ em bị rủ rê, xúi giục, kích
13


động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc tham gia hoạt động du lịch mà bị xâm
hại tình dục; bị cho, nhận hoặc cung cấp để hoạt động mại dâm; Trẻ em bị rủ
rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc tham gia hoạt động
vận chuyển, mua bán, sản xuất, tàng trữ chất gây nghiện và các hàng hóa khác
bị cấm giao dịch theo quy định của pháp luật; Trẻ em bị rủ rê, xúi giục, kích
động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc tham gia các hoạt động trục lợi khác.
Mười một là, trẻ em bị xâm hại tình dục: Trẻ em bị hiếp dâm; Trẻ em bị
cưỡng dâm; Trẻ em bị giao cấu; Trẻ em bị dâm ô; Trẻ em bị sử dụng vào mục
đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.
Mười hai là, trẻ em bị mua bán: Trẻ em bị mua bán trở về sống với cha,
mẹ; Trẻ em bị mua bán trở về được nhận chăm sóc thay thế.

Mười ba là, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài
ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo: Trẻ em thuộc hộ nghèo mắc bệnh
hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày theo quy định của cơ quan có
thẩm quyền; Trẻ em thuộc hộ cận nghèo mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh
phải điều trị dài ngày theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Mười bốn là, trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được
cha mẹ hoặc không có người chăm sóc: Trẻ em là công dân Việt Nam di cư,
lánh nạn trong nước chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm
sóc; Trẻ em có quốc tịch nước ngoài di cư, lánh nạn, tị nạn không có người
chăm sóc; Trẻ em chưa xác định được quốc tịch, chưa xác định được cha mẹ
hoặc không có người chăm sóc di cư, lánh nạn, tị nạn vào Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm về bảo trợ xã hội
Trong cuộc sống, không phải lúc nào con người ta cũng gặp may mắn,
thuận lợi để tồn tại và phát triển, họ không tránh khỏi việc phải đối mặt với
những rủi ro, biến cố, thăng trầm vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Thậm chí
14


có những người từ khi sinh ra đã không được đảm bảo quyền sống hoặc sống
trong điều kiện thiếu thốn, cơ cực. Khi rơi vào những hoàn cảnh như vậy thì
nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống để tồn tại, vươn lên hòa
nhập cộng đồng trở thành cấp thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc.
Ngày nay, thuật ngữ “bảo trợ xã hội” càng trở nên phổ biến hơn. Tuy
nhiên, ở mức độ nào đó, ta phải nhìn nhận rằng khái niệm này còn chưa rõ
ràng, cụ thể, phụ thuộc chủ yếu vào cách sử dụng và đặt vấn đề ở mỗi quốc
gia. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế thì trong số 172 nước có
thiết lập hệ thống an sinh xã hội thì chế độ bảo trợ xã hội đều được quan tâm
thực hiện ngay từ đầu. Ở Việt Nam, đến nay cũng chưa có định nghĩa chính
thức về bảo trợ xã hội trong các văn bản pháp luật. Khái niệm “bảo trợ xã
hội” ở Việt Nam gần với khái niệm “trợ giúp xã hội”. Theo từ điển Tiếng

Việt, “bảo trợ” có nghĩa là giúp đỡ cho tổ chức hoặc cá nhân có khó khăn về
vật chất trong cuộc sống, còn “trợ giúp” có nghĩa giúp đỡ về vật chất cho đỡ
khó khăn, thiếu thốn. Các văn bản pháp luật về bảo trợ xã hội hiện hành đang
sử dụng cụm từ “trợ giúp xã hội” thay cho “bảo trợ xã hội”.
Bảo trợ xã hội được tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau. Theo quan
điểm của Tổ chức Lao động quốc tế nói chung và ở Việt Nam nói riêng, ta có
thể hiểu bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, cộng đồng bằng
những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào
cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thòi, yếu thế vì nhiều nguyên nhân khác
nhau dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu được cho cuộc sống tối thiểu của
bản thân và gia đình, nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống
thường nhật hoặc giúp họ vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống và
hòa nhập cộng đồng. Đây là hình thức tương trợ cộng đồng đơn giản, phổ
biến và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia.
15


1.1.3. Khái niệm về pháp luật bảo trợ xã hội và chế độ bảo trợ xã hội đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, cộng đồng bằng
những biện pháp và hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào
hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói,…vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn
đến không đủ khả năng tự lo liệu được cho cuộc sống tối thiểu của bản thân
và gia đình, nhằm giúp họ tránh được sự đe dọa của cuộc sống thường nhật
hoặc giúp họ vượt qua những khó khan, ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng
đồng.
Có thể hiểu, pháp luật bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc tổ
chức, thực hiện hoạt động bảo trợ xã hội, các chế tài xử lý các vi phạm liên

quan vấn đề bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Chế độ bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hiểu là
tổng hợp các quy định của Nhà nước về chính sách, chế độ, quyền lợi đối với
những người dưới 16 tuổi không đủ điều kiện thực hiện được quyền sống,
quyền được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền học tập, cần có
sự hỗ trợ, can thiệp đặc biệt của Nhà nước, gia đình và xã hội để được an
toàn, hòa nhập gia đình, cộng đồng theo quy định của bảo trợ xã hội.
Qua đó có thể thấy rằng, pháp luật và chế độ bảo trợ xã hội đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt được tiếp cận từ góc độ nhân quyền với trách nhiệm
của Nhà nước đối với người dân của mình chứ không chỉ dừng lại ở mục đích
nhân đạo hay chiếu cố tới những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Các khoản trợ
cấp, hỗ trợ cho cuộc sống của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được thực hiện
như một sự phân phối lại lợi ích xã hội theo hướng công bằng, đảm bảo sự
16


phát triển, quyền của trẻ em nói riêng và sự phát triển bền vững của quốc gia
nói chung trong tương quan phát triển kinh tế và xã hội.
Sự ra đời pháp luật về bảo trợ xã hội nói chung và bảo trợ xã hội đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng mang tính tất yếu vkhachs quan và
vô cùng cần thiết.
1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật về bảo trợ xã hội đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp
luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật là phương tiện,
công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định
hướng cho sự phát triển xã hội. Có thể khẳng định rằng, Việt Nam là nước có
nền tảng pháp lý dành cho trẻ em từ rất sớm. Hiến pháp năm 2013 và Luật

Trẻ em 2016 cũng như hàng loạt các văn bản dưới luật đã ghi nhận đầy đủ,
hài hòa các quyền và bổn phận của trẻ, bởi trẻ em không chỉ là lực lượng
đông đảo của hiện tại mà là nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Tuy
nhiên, tính đến cuối tháng 12/2017, cả nước có 26.285.632 trẻ em, trong đó có
1.450.749 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt[2]. Để bảo đảm thực hiện quyền và
bổn phận cơ bản của trẻ em đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, Nhà nước
và xã hội cũng đã có nhiều sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt, vấn đề đảm bảo
an sinh xã hội đối với đối tượng này ngày càng được quan tâm với nhiều
chính sách ưu đãi hơn. Nhưng bên cạnh những thành quả đã đạt được trên
thực tiễn thực hiện các chế độ bảo trợ còn gặp nhiều khó khăn như: việc thi
hành áp dụng các chính sách vào thực tế thực hiện còn nhiều bất cập, nhiều
quy định chưa hướng dẫn cụ thể, còn nhiều chồng chéo các đối tượng được
17


×