Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Pháp luật về giải quyết việc làm từ thực tiễn huyện tiên du, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.01 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

NGUYỄN GIA HUY

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
NGUYỄN GIA HUY
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN

PGS.TS TRẦN THỊ THÚY LÂM

HÀ NỘI- 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học, đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa đào tạo sau đại học - Viện đại học mở Hà Nội.
Xin trân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 10 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Gia Huy


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn trân thành và sâu sắc tới PGS.TS
Trần Thị Thúy Lâm đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình thực
hiện Luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô Khoa đào tạo sau đại học-Viện đai học
mở Hà Nội đã tạo điều kiện trong suốt quá trình được đào tạo hệ cao học của Trường.
Trân thành cảm ơn UBND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và các cơ quan:
Phòng Lao động-TB&XH, Chi Cục Thống kê, Chi cục Thuế, Ngân hàng Chính
sách-xã hội huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số
liệu và đóng góp ý kiến có giá trị thực tiễn cho tôi để tôi hoàn thành Luận văn.
Xin cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và
hoàn thành Luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2018
Học viên thực hiện

Nguyễn Gia Huy



MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu.

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3; 4

5. Phương pháp nghiên cứu

4

6. Những đóng góp của luận văn và ý nghĩa khoa học, thực tiễn của Luận văn

5


7. Kết cấu của luận văn

5

NỘI DUNG

6

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC 6
LÀM VÀ NỘI DUNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Khái quát chung về việc làm và giải quyết việc làm

6

1.1.1. Khái niệm việc làm và giải quyết việc làm

6

1.1.2. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm

12

1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết việc làm

15

1.2.1.Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giải quyết việt làm


15

1.2.2. Trách nhiệm của các chủ thể trong lĩnh vực giải quyết việc làm

18

1.2.3. Các biện pháp pháp lý nhằm hỗ trợ và giải quyết việc làm

24

1.2.4. Quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp 32
trong giải quyết việc làm
Chương 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI 34


QUYẾT VIỆC LÀM TẠI HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
2.1. Vị trí địa lý và tình hình phát triển kinh tế- xã hội huyện Tiên Du,tỉnh 34
Bắc Ninh
2.1.1. Vị trí địa lý

34

2.1.2.Tình hình phát triển kinh tế-xã hội

35

2.2. Tình hình lao động và việc làm

36


2.2.1. Quy mô

36

2.2.2. Thuận lợi

38

2.2.3. Khó khăn

38

2.3. Thực trạng giải quyết việc làm tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

38

2.3.1. Về thực trạng

38

2.3.2. Việc xử lý vi phạm pháp luật giải quyết việc làm

52

2.3.3.Đánh giá

53

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 58
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI

QUYẾT VIỆC LÀM Ở HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
3.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm

58

3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm

58

3.1.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật lao 60
động về giải quyết việc làm
3.1.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về 65
giải quyết việc làm tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
KẾT LUẬN

70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

BLLĐ

Bộ luật lao động

TB&XH


Thương binh&xã hội

UBND

Uỷ ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCN

Khu công nghiệp

GRDP

Tổng sản phẩm

XDCB

Xây dựng cơ bản

GQVL

Giải quyết việc làm

TTGTVL

Trung tâm giới thiệu việc làm


TTDVVL

Trung tâm dịch vụ việc làm

GDNN-GDTX

Giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên

VAC

Vườn ao cá

PAPI, PCI

Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công,
Chỉ số năng lực cạnh tranh


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1

Phân loại lao động huyện Tiên Du theo một số chỉ tiêu


Bảng 2

Tình hình sử dụng quỹ quốc gia giải quyết việc làm 41
huyện Tiên Du giai đoạn 2016 đến nay

Bảng 3

Số lao động qua đào tạo các xã, thị trấn của huyện

45-46

Bảng 4

Ngành nghề đào tạo cho lao động qua các năm

47

37


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Giải quyết việc làm luôn là mối quan tâm lớn của hầu hết các quốc gia, có
tác động không chỉ đối với sự phát triển của nền kinh tế mà còn đối với đời sống xã
hội, nó phản ánh thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Tăng việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp tốt nhất để từng bước ổn
định và nâng cao đời sống nhân dân.
Đối với nước ta, giải quyết việc làm còn là tiền đề quan trọng để sử dụng có
hiệu quả nguồn lực lao động đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, là yếu tố quyết định để phát huy nội lực con người.

Hiện nay nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mặc dù
đã đạt được nhiều thành tựu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, a ninh quốc phòng,
song các vấn đề về việc làm như: tình trạng thất nghiệp, mất cân bằng giữa yêu cầu
công việc, nhu cầu của thị trường lao động cũng như năng lực lao động đang là
những vấn đề Đảng và Nhà nước rất quan tâm và cấp thiết. Giải quyết việc làm,
đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động, đáp ứng nhu cầu làm việc để có thu
nhập ổn định là trách nhiệm của các cấp, các ngành cũng như của toàn xã hội, góp
phần quan trọng cho sự phát triển bền vững và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Huyện Tiên Du, tỉnh Bắc ninh là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của
tỉnh Bắc Ninh. Trong những năm gần đây, sự chuyển dịch kinh tế sang phát triển công
nghiệp và thương mại dịch vụ đã tạo nên là vùng đầy tiềm năng, thu hút mạnh các doanh
nghiệp đầu tư cũng như lao động ở trong và ngoài tỉnh đến sinh sống và làm việc. Do đó,
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn huyện là hết sức quan trọng.
Chính vì vậy việc lựa chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết việc làm từ thực tiễn huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc ninh” làm luận văn Thạc sỹ luật học với mong muốn được góp phần
hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm ở Việt Nam nói chung và thực tiễn giải quyết
việc làm ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc ninh nói riêng.
1


2. Tình hình nghiên cứu.
Pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm luôn là đề tài thu hút sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu của giới luật học nước ta. Thời gian qua đã có nhiều công
trình khoa học về vấn đề này được công bố mà tiêu biểu phải kể đến một số công
trình nghiên cứu sau:
Lao động và giải quyết việc làm ở Việt nam(Tạp chí cộng sản số ra ngày
30/12/2007, tác giả: Nguyễn Thị Kim Ngân); Pháp luật lao động trong quá trình toàn
cầu hóa(Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 11,năm 2008, tác giả Phạm Trọng Nghĩa);
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề việc làm ở Việt Nam(Tạp chí Kinh tế và Dự báo

số 24 (440) tháng 22/12/2009; tác giả:Lê Quốc Lý – Lê Văn Cương); Chính sách,
pháp luật về việc làm, một số vấn đề đặt ra và hướng hoàn thiện(Tạp chí Báo lao
động số ra ngày 13/12/2011, tác giả: Lê Quang Trung); Đánh giá nguồn nhân lực
Việt Nam khi tham gia AEC(Tạp chí tài chính số ra ngày 02/7/2015, tác giả:
Nguyễn Thương Lạng, Trần Đức Thắng ); Kết quả triển khai thực hiện Chiến lược
việc làm giai đoạn 2001- 2010(tạp chí Lao động TB&XH, số ra ngày 09/3/2012);
Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015-2020 đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế(Tạp chí cộng sản, số ra ngày
17/4/2015, tác giả: Đặng Xuân Hoan); Giải quyết việc làm cho người lao động năm
2017(tạp chí Thế giới &Việt Nam, số ra ngày 29/01/2017, tác giả: Đào Ngọc Dung);
Ngoài ra, Một số công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp lý như: Pháp luật lao
động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập(tác giả: Đinh
Thị Nga Phượng, năm 2011); Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt
nam trong bối cảnh hội nhập(tạp chí Lao động&xã hội, số ra ngày 29/9/2016); Đẩy mạnh
việc thực hiện chính sách an sinh xã hội bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt nam
hiện nay(tạp chí cộng sản,số ra ngày 23/3/2018, tác giả: Trương Thị Thanh Qúy); vai trò
của việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế(tạp chí tri thức cộng đồng, số ra
ngày 15/06/2018, tác giả: Nguyễn Thị Thanh);
Nhìn chung các bài viết, tác phẩm và công trình nghiên cứu trên đã đề cập
một cách toàn diện các quy định pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm cả về
lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, để đưa ra được những giải pháp, kiến nghị góp
phần hoàn thiện pháp luật giải quyết việc làm trong giai đoạn hiện nay là việc làm
hết sức cần thiết, đặc biệt thực tiễn giải quyết việc làm ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
ninh sẽ góp phần làm bổ sung thêm về mặt lý luận về giải quyết việc làm ở nước ta
trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới.
2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn:

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giải quyết việc làm, phân tích và đánh giá
một cách toàn diện các quy định của pháp luật về giải quyết việc làm, đồng thời đánh
giá thực tiễn thực hiện pháp luật giải quyết việc làm ở Huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh,
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về giải quyết việc làm.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về giải quyết việc làm và pháp luật về giải
quyết việc làm;
- Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết việc làm;
- Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm ở huyện Tiên Du
tỉnh Bắc Ninh;
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về giải quyết việc làm ở huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về giải quyết
việc làm, trong đó tập trung cơ bản nhất là các quy định của Luật lao động, Luật
việc làm, Luật người lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài và các văn bản
hướng dẫn thi hành; luận văn còn nghiên cứu về thực tiễn thi hành pháp luật về giải
quyết việc làm ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc ninh.
3


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Giải quyết việc làm là vấn đề có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau. Luận văn này nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm dưới góc độ pháp luật
lao động ở các nội dung như: quy định của luật lao động về việc làm, chương trình
việc làm, quỹ giải quyết việc làm, chính sách việc làm công, dạy nghề gắn với việc
làm, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Luận văn không

nghiên cứu về xử lý vi phạm cũng như giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực việc
làm. Bên cạnh đó Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết
việc làm từ thực tiễn tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Khi thực hiện nghiên cứu này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin;
- Ngoài ra, luận văn dự định sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu được
sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về việc làm,
giải quyết việc làm;
+ Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp
luật về giải quyết việc làm ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc ninh.
+ Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải
được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm trong thời gian tới.
6. Những đóng góp của luận văn và ý nghĩa khoa học, thực tiễn của Luận văn.
Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp cụ thể như sau:
4


- Hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về giải quyết việc làm;
- Phân tích và đánh giá một cách toàn diện thực trạng pháp luật về giải quyết việc
làm và thực tiễn thực hiện tại một địa phương;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về giải quyết việc làm ở địa phương, cụ thể là huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc ninh.
Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà lập pháp,

đối với đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về việc làm mà còn có thể là tài liệu
chuyên khảo có giá trị cho các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh
mục bảng biểu, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được bố
cục với 03 chương cụ thể như sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp luật về giải quyết việc làm và nội
dung pháp luật Việt nam hiện hành giải quyết việc làm ở Việt Nam.
- Chương 2. Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết việc làm ở huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc ninh.
- Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm và
nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

5


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ NỘI DUNG PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Khái quát chung về việc làm và giải quyết việc làm.
1.1.1. Khái niệm việc làm và giải quyết việc làm:
* Khái niệm về việc làm:
Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trong nhất của thế giới nói chung và
con người nói riêng. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc
làm. Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu của bản
thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có thể tham gia công việc nào đó để
được trả công hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm như
dùng các tư liệu sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự làm những công
việc cho hộ gia đình mình.

Ngoài vấn đề cá nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng của xã hội.. Sở dĩ
có sự phát sinh này là do: con người không sống đơn lẻ và hoạt động lao động của
mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động sản xuất của
xã hội. Hơn nữa, việc làm và thu nhập không phảo là vấn đề mà lúc nào mỗi cá
nhân người lao động cũng quyết định được. Sự phát triển quá nhanh của dân số,
mức độ tập trung tư liệu sản xuất ngày càng cao vào tay một số cá nhân dẫn đến
tình trạng xã hội ngày càng có nhiều người không có khả năng tự tạo việc làm.
Trong điều kiện đó, mỗi cá nhân phải huy động mọi khả năng của bản thân để tự
tìm việc làm cho mình, phải cạnh tranh để tìm việc làm.
Việc làm có thể được coi là sự tham gia của một cá thể vào tập hợp các hoạt
động có liên quan đến việc sản xuất ra một sản phẩm hay dịch vụ nào đó mà người
khác có của cải và mong muốn mua được nó. Việc làm được coi là một trong
những vấn đề sống còn của toàn xã hội. Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Như vậy, việc làm
6


thể hiện ở hai góc độ khác nhau: dưới góc độ kinh tế - xã hội và dưới góc độ pháp
lý.
-Dưới góc độ kinh tế - xã hội: Với mỗi quốc gia, việc làm là phản ánh quan
trọng về thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó, nó luôn là vấn đề
được xã hội quan tâm hàng đầu không chỉ ở riêng một quốc gia nào mà còn là vấn
đề có tính toàn cầu, phản ánh sự phát triển của lao động xã hội. Hoạt động kiếm
sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới động vật nói chung và con người nói
riêng. Tuy nhiên, đối với con người, kiếm sống không phải là hoạt động sinh vật
đơn thuần giúp con người thích ứng với tự nhiên, với điều kiện sống mà qua đó còn
cải tạo con người, biến con người từ sinh vật hoang dã thành sinh vật xã hội, có ý
thức, tham gia các quan hệ xã hội, hình thành xã hội. Đối với Tổ chức lao động
quốc tế (ILO), thuật ngữ “việc làm” được đề cập trong nhiều văn kiện như Tuyên
ngôn Philadenphia năm 1944; “Chương trình việc làm thế giới” năm 1969; Tuyên

bố tại Hội nghị việc làm thế giới năm 1976; Công ước số 22 năm 1964... nhưng
trong các văn kiện này chưa nêu ra khái niệm “việc làm”. Đến tận Hội nghị quốc tế
lần thứ 13 năm 1993 của các nhà thống kê lao động, ILO mới đưa ra quan niệm về
người có việc làm và người thất nghiệp. Theo đó, người có việc làm được hiểu là
những người làm một việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán
bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo
việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện
vật; còn người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực
tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại việc làm. Gần đây nhất, năm 2005, Tổ chức Lao
động quốc tế đã đưa vào Từ điển chuyên ngành khái niệm “việc làm”. Theo đó,
“Việc làm là một công việc được trả công. Việc làm cũng đề cập đến số người tự
tạo việc làm và tham gia làm việc để được trả công”. Đây là khái niệm ngắn gọn,
chỉ chung chung đến những công việc do cá nhân thực hiện cho chính bản thân
hoặc cho chủ thể khác để được trả công. Có thể còn có nhiều khái niệm khác nữa
về việc làm. Nhưng dù ở góc độ nào, khái niệm đó đều thể hiện các tiêu chí định
danh việc làm là những hoạt động lao động, trong đó có việc người lao động chi
phí sức lao động của mình với mục đích giành được lợi ích (thu nhập) nào đó,
nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân, gia đình và xã hội. Hoạt động lao động được
coi là việc làm có thể được thể hiện dưới các hình thức khác nhau, đó là: làm các
7


công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật cho công việc
đó; làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân; làm công việc cho hộ gia đình
mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công
việc đó.
Như vậy, dù ở hình thức nào, được trả thù lao trực tiếp hay gián tiếp, thù lao
đó được thể hiện bằng tiền mặt hay lợi ích vật chất khác thì việc làm cũng luôn thể
hiện là các hoạt động tiềm tàng khả năng tạo ra lợi ích hay thu nhập cho người bỏ
sức lao động tiến hành hoạt động đó. Như vậy, xét về phương diện kinh tế - xã hội,

có thể hiểu việc làm là các hoạt động lao động, tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập và
việc làm là dạng hoạt động của mỗi cá nhân nhưng lại luôn gắn liền với xã hội và
được xã hội công nhận.
- Dưới góc độ pháp lý: Quyền có việc làm được coi là quyền hiến định của
mọi công dân. Tuy nhiên, trước năm 1986, khái niệm việc làm chỉ bó hẹp trong
phạm vi những gì mà pháp luật cho phép. Trong giai đoạn đó, chỉ những người
trong biên chế Nhà nước hoặc là xã viên hợp tác xã mới được coi là có việc làm
nghiêm chỉnh. Quan niệm này xuất phát từ việc đề cao các hình thức sở hữu được
coi là thể hiện bản chất của chế độ XHCN là quốc doanh và tập thể. Bên cạnh đó,
luật pháp cũng không thừa nhận sức lao động là một loại hàng hóa, không thừa
nhận có sự tồn tại của các hiện tượng kinh tế - xã hội như thất nghiệp, thị trường
lao động, quyền tự do kinh doanh của người dân. Nhà nước là chủ sở hữu lớn nhất
và cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất của nền kinh tế, có trách nhiệm đảm bảo
việc làm cho mọi người lao động theo kế hoạch. Từ quan niệm trên, các quy định
pháp lý về vấn đề việc làm chủ yếu thể hiện các chế độ như: tuyển dụng lao động,
cho thôi việc đối với công nhân viên chức Nhà nước. Nhà nước lo tất cả mọi vấn đề
về việc làm cho lực lượng lao động trong biên chế từ tiền lương, các chế độ bảo
hiểm xã hội... cũng như các ưu đãi, phúc lợi xã hội khác. Do vậy, khi đề cập đến
việc làm ở khía cạnh pháp lý, người ta thường cho rằng việc làm trước hết là quyền
của người lao động. Điều 58 Hiến pháp 1980 khẳng định: “công dân có quyền có
việc làm”. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, cơ chế giải
quyết việc làm đã có những thay đổi căn bản.

8


Điều 55, Hiến pháp 1992 khẳng định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của
công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người
lao động”.
Điều 57, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: “ Nhà nước khuyến khích, tạo

điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều
kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định”.
Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và hoàn
cảnh nước ta, nhất là trong bối cảnh đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn
minh. Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2012 đã quy định tại
Điều 9 về việc làm, giải quyết việc làm: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu
nhập mà không bị pháp luật cấm; nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có
trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao
động đều có cơ hội có việc làm”. Điều 10, Bộ Luật lao động 2012 khẳng định
quyền làm việc và tự do lựa chọn việc làm của người lao động: “Được làm việc cho
bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm;
trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc
làm để tìm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ
của mình”.
Như vậy, xét về mặt lịch sử pháp lý, quan niệm về việc làm đã được ghi nhận
một cách rộng mở trong một văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước. Trước
đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực lao động, tuy có ít nhiều đề
cập đến vấn đề việc làm nhưng chủ yếu là đề cập ở góc độ các cơ chế, chính sách
bảo đảm việc làm cho người lao động, chứ chưa đưa ra một quan niệm hay định
nghĩa chính thức về việc làm.
Điều 9, Bộ luật lao động năm 2012 quy định: “Việc làm là hoạt động lao
động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm; nhà nước, người sử dụng lao
động và xã hội có trách nhiệm tham ra giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người
có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”

9



Khái niệm và quy định của Nhà nước về việc làm mặc dù được diễn đạt một
cách ngắn gọn, rộng hơn nhưng về cơ bản vẫn giống như quan niệm tại Điều 13,
Bộ luật lao động năm 1994 và các lần sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006,2007.
Khoản 2, Điều 3-Luật việc làm ngày 16/11/2013 quy định: “Việc làm là hoạt
động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”;
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm việc làm như sau: Việc làm
là một dạng hoạt động lao động, mang lại thu nhập cho người lao động và được xã
hội cũng như pháp luật thừa nhận.
Từ quan niệm trên cho thấy, việc làm được cấu thành bởi ba yếu tố:
+ Thứ nhất, là hoạt động lao động, thể hiện sự tác động của sức lao động của
con người vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
+ Thứ hai, việc làm tạo ra thu nhập, điều này chỉ rõ tính chất hữu ích và nhấn
mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Những hoạt động của con người dù có
tiêu tốn sức lực mà không tạo ra thu nhập, tức không vì mục đích kiếm sống thì
không được thừa nhận là việc làm.
+ Thứ ba, hoạt động đó không bị pháp luật cấm, điều này chỉ rõ tính chất pháp
lý của việc làm. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình
phát triển kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt
vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết, tự do tìm
kiếm việc làm, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp luật, không bị
phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Điều này còn
khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của người lao động thuộc khu vực
ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
* Khái niệm về giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm
và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã
hội. Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai khai thác triệt để tiềm năng của một
con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy,
10



giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở
chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó, có
quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp
phần xây dựng quê hương đất nước. Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở một số
khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và chất
lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - kỹ thuật áp dụng
trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó.
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động phụ
thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di
chuyển của lao động, chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục
đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả
cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật… nhằm nâng cao hiệu quả của việc
làm. Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động gặp gỡ và
tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành.
Giải quyết việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử
dụng lao động và vai trò của nhà nước. Vì vậy "giải quyết việc làm là tổng thể các
biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao
động có thể có việc làm" hay cũng có thể khái quát như sau: Giải quyết việc làm là
một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm và sắp xếp người lao động
phù hợp với chỗ làm việc để có các chỗ làm việc chất lượng, đảm bảo nhu cầu của
cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời đáp ứng mục tiêu phát
triển đất nước.
Theo quy định tại Điều 9, Bộ luật lao động 2012: “Nhà nước, người sử dụng
lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi
người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”. Đây là những khẳng định
có tính chất tuyên ngôn của Nhà nước về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao

động. Theo đó, giải quyết việc làm còn bao gồm phát triển kinh tế - xã hội nhằm
tạo việc làm, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế nhằm tự
tạo việc làm cho mình và cho xã hội. Điều này có nghĩa là, vấn đề tự tạo việc làm
11


cho bản thân chịu tác động của việc thực hiện hàng loạt cơ chế pháp lý khác như
quyền tự do kinh doanh, tự do cư trú, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, khuyến khích đầu tư... Còn việc làm cho người lao động trong
quan hệ với người sử dụng lao động chịu sự tác động của các chế độ pháp lý như
quyền được lao động, tự do tìm kiếm việc làm, tự do cư trú, hợp đồng lao động,
dạy nghề, bảo đảm việc làm, thất nghiệp...
Do vậy, giải quyết việc làm được hiểu là tổng hợp các biện pháp nhằm tạo
việc làm, hạn chế thất nghiệp nhằm mục tiêu phát triển kinh tế và đảm bảo các vấn
đề xã hội.
Giải quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà là trách
nhiệm chung của toàn xã hội, các doanh nghiệp và ngay cả bản thân của người lao
động. Hiện nay, Nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến việc tạo công ăn việc làm
cho người lao động thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình,
chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó, các chương trình, chiến lược phát triển, các hoạt
động cụ thể của các doanh nghiệp tác động trực tiếp đến giải quyết việc làm cho
người lao động như đào tạo nghề, tuyển dụng, bố trí sản xuất phù hợp với nguồn
lực và yêu cầu nhất là nguồn lao động ở các vùng, nơi diễn ra các hoạt động sản
xuất. Giải quyết việc làm còn có một ý nghĩa là tạo thêm được việc làm mới cho
người lao động. Ở đây là tạo thêm việc làm mới cho người lao động mang tính chất
là người lao động đang không có việc làm nay có việc làm chứ không phải người
lao động đang đi làm có thêm việc làm khác nữa. Vậy nên giải quyết việc làm là
tạo thêm việc làm mới từ các cơ chế chính sách của nhà nước cũng như việc tuyển
dụng thêm lao động của các doanh nghiệp. Ngoài ra, hình thành môi trường cho sự
kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Thông qua cơ chế chính sách

khuyến khích thu hút của nhà nước, sự hoạt động đầu tư của nhà sản xuất nhằm tạo
thêm nơi làm việc mà người lao động có thể vận dụng sức lao động của mình vào
sản xuất của cải cho xã hội.
1.1.2. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm:
* Vai trò của việc làm:
Để đánh giá được vai trò của việc làm cần phải đứng ở nhiều góc độ khác
nhau, ví dụ: dưới góc độ người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước hay
12


đánh giá đầy đủ trên phương diện mỗi cá nhân, trong quan hệ lao động và phạm vi
quốc gia.
Như vậy, việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể
thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế-xã hội, là vấn đề cốt lõi, xuyên
suốt và có mối quan hệ thân thiết cũng như chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tếxã hội.
Thứ nhất, đối với từng cá nhân: Việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống
bản thân mình, ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc
làm ngày nay gắn liền với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá nhân.
Thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những vùng
nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,..); vào
những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn
hoá thấp..). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi,
nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến
thức, trình độ vốn có. Dưới khía cạnh pháp lý, có việc làm là quyền cơ bản của con
người; mỗi cá nhân có khả năng lao động, có nhu cầu lao động đều có quyền được
làm việc để tạo ra thu nhập cho bản thân nếu hoạt động đó không trái pháp luật.
Điều này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật của
nhiều nước như: Điều 2, Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 của Liên hợp
quốc ghi nhận: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những
điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống lại thất nghiệp”;

Điều 1, Công ước số 122 của ILO về chính sách việc làm năm 1964 cũng nêu rõ:
“Các nước thành viên phải tuyên bố và áp dụng một chính sách tích cực nhằm xúc
tiến toàn dụng lao động, có năng suất và được tự do lựa chọn” cho người lao động;
ngay tại Điều 5 Bộ luật lao động năm 1994 của Việt Nam cũng khẳng định: “Mọi
người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và
nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc,
thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”; đến Bộ luật lao động 2012, tại Điều 5
cũng quy định rõ: “Người lao động có các quyền sau đây: Làm việc, tự do lựa chọn
việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân
biệt đối xử; Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận
với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo
13


đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có
lương và được hưởng phúc lợi tập thể...”
Về mặt pháp lý, những quy định trên của quốc tế cũng như của quốc gia là
cơ sở pháp lý để đảm bảo cho mỗi cá nhân đều có việc làm và thu nhập, có được
cuộc sống ổn định và bền vững, đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người.
Thứ hai, đối với kinh tế: Lao động là một trong những nguồn lực quan trọng,
là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành, nó là nhân tố tạo nên tăng
trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân. Nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc
làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và
kinh tế, tức là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững,
ngược lại nó cũng duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
Thứ ba, đối với xã hội: Mỗi cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã
hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội: một mặt nó tác động tích
cực; mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã
hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội ,
không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về

nhân cách và trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc
làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội, ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động
ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự
hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến
lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn
xã hội. Ngoài ra, khi không có vệc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu
nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình
chính trị. Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan
trọng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước
phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này.
* Vai trò của giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi
quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Đối với
nước ta, quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động hội
14


nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc liên quan đến việc làm và
chính sách giải quyết việc làm. Đây là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả
nguồn lực lao động, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Giải quyết việc làm cho người lao động, hạn chế thất nghiệp ở tỷ lệ thấp
là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thường xuyên quan tâm
thực hiện. Chính sách giải quyết việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính
sách kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách việc
làm với các chính sách như: chính sách dân số, giáo dục - đào tạo, chính sách cơ
cấu kinh tế, chính sách công nghệ... Chính sách giải quyết việc làm kéo theo các
chính sách phát triển giáo dục để nhằm đào tạo nguồn lực phù hợp cung cấp cho thị
trường lao động. Trên cơ sở về cơ cấu dân số, chính sách giải quyết việc làm cũng
được xây dựng phù hợp. Giải quyết việc làm vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có

ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Các chính sách về giải quyết việc làm phù hợp
sẽ giảm tỉ lệ thất nghiệp, giảm các tệ nạn xã hội. Ngược lại, thực hiện không tốt
công tác giải quyết việc làm giúp, nhất là trong giai đoạn kinh tế suy thoái, nạn thất
nghiệp sẽ tăng và cùng với nó là tình trạng đói nghèo, các tệ nạn sẽ dễ dàng phát
sinh. Khi đó gánh nặng sẽ đè lên các chính sách về bảo trợ xã hội, an ninh xã hội.
Tình trạng bất ổn trong công tác giải quyết việc làm kéo dài có thể gây ra bất ổn về
chính trị, xã hội.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết việc làm.

1.2.1.Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giải quyết việt làm:
* Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do việc làm:
Khoản 1, Điều 5, Bộ luật lao động 2012 quy định về quyền của người lao
động: “a) Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình
độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử; b) Hưởng lương phù hợp với trình độ
kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao
động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ
theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể; c) Thành
lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy
định của 20 pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với người sử dụng lao động,
thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao
15


động; d) Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật; đ)
Đình công”.
Đây là sự khẳng định quyền làm việc và tự do lựa chọn việc làm của người
lao động, cũng nhằm khẳng định và cụ thể một nguyên tắc hiến định rất tiến bộ tại
Điều 5, Hiến pháp năm 1992 “Lao động là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân”; khoản 1, Điều 35, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có

quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc...”. Điều đó cũng
phù hợp với nguyên tắc tự do việc làm của pháp luật quốc tế. Nguyên tắc này cũng
được ghi nhận tại khoản 1, Điều 4-Luật việc làm năm 2013.
* Nguyên tắc cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao động:
Theo khoản 2, 3 điều 8, Bộ luật lao động 2012 quy định các hành vi bị
nghiêm cấm: “Ngược đãi người lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
Cưỡng bức người lao động”. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người
lao động. Theo đó, trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động vốn có lợi thế
hơn so với người lao động, nên người sử dụng lao động không bị ép buộc người lao
động tiến hành những việc làm trái với ý muốn của họ hoặc ngược đãi họ. Ở khía
cạnh nào đó, nguyên tắc này như là sự bổ sung cho nguyên tắc bảo đảm quyền tự
do việc làm. Tuy nhiên, xét ở bình diện rộng hơn, nguyên tắc này bảo vệ nhân
quyền và chống lại ách nô dịch việc làm.
* Nguyên tắc không phân biệt, đối xử, bảo đảm sự bình đẳng trong lĩnh vực
việc làm:
Nguyên tắc này được thể hiện ngay trong các quy định của Hiến pháp, cụ thể
tại Điều 16, Hiến pháp 2013 có quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật; Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội”, tiếp tục được quy định tại các Điều 7,8 - Bộ luật lao động 2012, theo
đó mọi công dân đều có quyền bình đẳng về cơ hội có việc làm, được đối xử bình
đẳng đối với mọi việc làm và được trả công ngang nhau khi làm những công việc
như nhau, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo. Nguyên tắc này, xa hơn là bảo vệ quyền bình đẳng cơ hội việc
làm của người lao động. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận tại khoản 2, Điều 4Luật việc làm 2013. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong công ước của tổ
16


chức lao động quốc tế ILO, công ước 111 về phân biệt đối xử trong việc làm và
nghề nghiệp năm 1858.
* Nguyên tắc thực hiện một số ưu đãi đối với một số đối tượng lao động đặc thù:

Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế không phải ai cũng có khả năng làm việc
như nhau, có được cơ hội việc làm như nhau do có sự khác nhau trong những vấn
đề như: giới tính, mức độ trưởng thành hay những đặc điểm đặc thù như là người
tàn tật, người có hoàn cảnh đặc biệt, yếu thế, nhất là trong điều kiện cạnh tranh lao
động ngày càng gay gắt. Do vậy, chính sách giải quyết việc làm đã dành cho các
đối tượng cụ thể như: Tại chương X, Bộ luật lao động 2012 có những quy định
riêng đối với lao động nữ như chính sách của Nhà nước đối với lao động nữ; nghĩa
vụ của người sử dụng lao động đối với lao động nữ; bảo vệ thai sản đối với lao
động nữ; quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động
nữ mang thai; nghỉ thai sản; bảo đảm việc làm cho lao động nữ nghỉ thai sản; trợ
cấp nghỉ để chăm sóc con ốm, khám thai, thực hiện các biện pháp tránh thai; quy
định một số công việc không được sử dụng lao động nữ. Chương XI, Bộ luật lao
động 2012 quy định lao động chưa thành niên, lao động là người cao tuổi; lao động
là người khuyết tật; lao động nữ. Chính sách pháp luật có những ưu đãi nhất định
nhằm hỗ trợ họ có được những cơ hội việc làm, hòa nhập với cộng đồng, khắc phục
những yếu thế đặc thù của họ. Đây cũng là một nội dung trong chính sách xã hội
của Nhà nước.
* Nguyên tắc khuyến khích mọi hoạt động tạo ra việc làm và hỗ trợ tạo ra
việc làm:
Khoản 2, 3, 4 và 5, điều 12 BLLĐ quy định về chính sách hỗ trợ phát triển
việc làm của Nhà nước, cụ thể: “2) Có chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các chính
sách khuyến khích để người lao động tự tạo việc làm; hỗ trợ người sử dụng lao
động sử dụng nhiều lao động nữ, lao động là người khuyết tật, lao động là người
dân tộc ít người để giải quyết việc làm.3) Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh để tạo việc làm cho người lao động. 4) Hỗ trợ người sử dụng lao động,
người lao động tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động ở nước ngoài. 5) Thành
lập Quỹ quốc gia về việc làm để hỗ trợ cho vay ưu đãi tạo việc làm và thực hiện
các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.”.
17



×