1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những
chuyển biến mạnh mẽ. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã được nhường chỗ
cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước. Cơ chế
mới đã tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đặc biệt
là nền kinh tế nông nghiệp đã có những bước nhảy vượt bậc, góp phần tích cực
vào quá trình CNH – HĐH đất nước; trong đó phát triển nguồn lực lao động
nông thôn đóng vai trò quan trọng.
Phát triển nguồn lực LĐNT được Đảng và Nhà nước xem là trọng tâm để
thực hiện xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, làm cơ sở vững
chắc cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước; chính vì lẽ đó trong các năm qua,
nhiều chính sách, đề án về đào tạo nghề cho LĐNT được Nhà nước ban hành;
các cấp chính quyền, đoàn thể tổ chức thực hiện và bước đầu đã đem lại hiệu
quả kinh tế - xã hội trên địa bàn các địa phương.
Ngày 27/11/2009 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 1956/QĐ-ttg
phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho LĐNT đến năm 2020” nhằm tăng cường đào
tạo nghề cho LĐNT và cán bộ phường xã để đáp ứng mục tiêu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng cường nguồn nhân lực để thực hiện thành công chương trình kế
hoạch xây dựng nông thôn mới trong thời gian sớm nhất; theo đó hàng năm phải
đào tạo cho hàng triệu LĐNT, trong đó giải quyết việc làm cho 70% và đào tạo
bồi dưỡng hàng trăm ngàn lượt cán bộ xã phường…
Cùng với cả nước, huyện Chư Păh tỉnh Gia Lai đã tích cực tổ chức triển
khai các hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT nhằm góp phần vào quá trình cơ cấu
lại ngành nghề; phân công lại lao động theo hướng chuyển dịch lao động từ
nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu lao động; bước đầu đã đạt
được một số kết quả là tỷ trọng lao động trong sản xuất nông nghiệp đã giảm,
2
lượng lao động dịch chuyển sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ bước đầu tăng
đáng kể; các nghề ở nông thôn đã từng bước hình thành, thu hút và giải quyết
việc làm tại chỗ cho một số LĐNT…
Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện Đề án đào tạo nghề cho LĐNT trên địa
bàn huyện, đến nay số LĐNT đã qua đào tạo nghề mới đạt hơn 5.7%/ số LĐNT
trong huyện, số LĐNT hiện chiếm hơn 80% tổng số lao động của huyện; số
LĐNT đã qua đào tạo nghề có việc làm mới là rất nhỏ, còn cách xa chỉ tiêu mà
Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và địa phương đã đề ra.
Như vậy, so với nhu cầu và tiềm năng phát triển của địa phương thì kết
quả đào tạo nghề cho LĐNT trên địa bàn huyện Chư Păh giai đoạn 2006 – 2010
chưa đạt cả về số lượng và chất lượng, cho nên việc tiếp tục tổ chức thực hiện có
hiệu quả hơn đề án đào tạo nghề cho LĐNT để góp phần CNH – HĐH Nông
nghiệp, nông thôn và giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nông dân trên
địa bàn là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ thực tế trên và điều kiện nghiên cứu của bản thân, tác giả
chọn đề tài “Đánh giá tác động của Đề án đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến giải quyết việc làm trên địa bàn huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai giai
đoạn 2006 – 2010” làm luận văn Thạc sĩ cho mình.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng luận các công trình đã công bố về vấn đề nghiên
1.1.1. Các chính sách chủ yếu của Đảng và Nhà nước về Đào tạo nghề lao
động nông thôn
Nước ta là nước nông nghiệp, từ lâu Đảng và Nhà nước đã hết sức quan
tâm để phát triển nền nông nghiệp hiện đại, làm cơ sở để phát triển công nghiệp,
dịch vụ và các ngành nghề khác; đồng thời để nâng cao đời sống của nông dân
thông qua việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, phân công lao động, giải quyết
việc làm, tăng cường xuất khẩu lao động cho LĐNT.
Để thực hiện Chiến lược Nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trong những
năm qua Đảng ta đã ra nhiều Nghị quyết, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị
định, Quyết định, Đề án về đào tạo nghề cho LĐNT nhằm góp phần tạo việc làm
mới cho nông dân, trong đó có thể kể đến:
+ Quyết định số 70/2003/QĐ-ttg ngày 29 tháng 4 năm 2003 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010;
với mục tiêu tổng quát: Giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ thanh niên Việt
Nam phát triển toàn diện, trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao và phát
huy vai trò xung kích, sáng tạo của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu cụ thể chỉ rõ: Giảm thiểu tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm trong thanh niên; nâng cao thu nhập cho thanh niên và gia đình
trẻ. Tạo thêm nhiều việc làm mới, phấn đấu giải quyết việc làm cho thanh niên
đạt 75% tổng số lao động được giải quyết việc làm, khoảng 1 - 1,1 triệu thanh
niên được giải quyết việc làm mỗi năm; giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp trong thanh
niên đô thị; tăng tỷ lệ thời gian lao động trong năm của thanh niên khu vực nông
thôn lên 85% vào năm 2010.
+ Quyết định số 81/2005/QĐ-ttg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ
4
về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho LĐNT; đối tượng thụ hưởng là
LĐNT trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo nghề, có nhu cầu học nghề, đủ
điều kiện xét tuyển vào học nghề ngắn hạn. Ưu tiên lao động bị mất đất sản xuất
do Nhà nước thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; lao động thuộc diện
chính sách, dân tộc thiểu số; lao động nữ và lao động chưa có việc làm.
+ Quyết định số 33/2006/QĐ-TTg ngày 7/2/2006 Phê duyệt đề án Dạy
nghề cho lao động đi làm việc ở nước ngoài đến năm 2015; với mục tiêu chung:
phát triển nguồn lao động đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu
ngành nghề cho thị trường lao động nước ngoài, góp phần tạo việc làm, tăng thu
nhập, cải thiện đời sống người lao động; có mục tiêu cụ thể chỉ ra đến năm
2010, tỷ trọng lao động đi làm việc ở nước ngoài có nghề đạt 70%; trong đó, lao
động lành nghề và trình độ cao trở lên đạt 30%. Đến năm 2015, 100% lao động
đi làm việc ở nước ngoài có nghề, trong đó 40% có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao; lao động đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo đạt chuẩn về ngoại
ngữ, giáo dục định hướng.
+ Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ những
nhiệm vụ cơ bản của nông nghiệp, nông thôn và nông dân là: Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong đó chú trọng đào tạo
nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho LĐNT, nhất là các vùng Nhà nước thu
hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng
lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
Tạo điều kiện cho LĐNT có việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài
+ Nghị định số: 66/2006/nđ-cp ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển
ngành nghề nông thôn; trong đó qui định các hoạt động ngành nghề đào tạo tại
địa bàn nông thôn. Theo đó các dự án đầu tư cơ sở dạy nghề nông thôn được
5
hưởng các chính sách về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo quy định
để đào tạo nguồn nhân lực đối với các ngành nghề cần phát triển theo quy hoạch
phát triển ngành nghề nông thôn; LĐNT khi tham gia học nghề được hỗ trợ kinh
phí đào tạo theo chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho LĐNT; được vay vốn
từ chương trình quốc gia giải quyết việc làm.
+ Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008, Hội nghị lần thứ
VII Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
nhấn mạnh: Mục tiêu đến năm 2020, phát triển nông nghiệp kết hợp với phát
triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm,
nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay; Lao
động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua
đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Nghị
quyết đã đề ra các nhiệm vụ giải pháp: Giải quyết việc làm cho nông dân là
nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước; có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách đảm bảo việc làm
cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Ðẩy mạnh
xuất khẩu lao động từ nông thôn; triển khai kế hoạch hợp tác sản xuất nông
nghiệp với một số quốc gia có nhu cầu. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân;
đào tạo nghề cho bộ phận con em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động;
hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn
nhân lực; đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu LĐNT.
+ Quyết đinh số: 1956/QĐ-ttg ngày 27 tháng 11 năm 2009 phê duyệt Đề
án “đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; Đề án đặt ra mục
tiêu: Bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu LĐNT, nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của LĐNT;
góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.
6
+ Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2020
được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua, một trong những giải pháp có tính đột
phá để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020 là phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; trong đó coi trọng
đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân. Chỉ tiêu đặt ra:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động
nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội; lao động qua đào tạo đạt trên
70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng số lao động xã hội.
+ Báo cáo Hội nghị giao ban toàn quốc ngày 15/4/2011 sơ kết một năm
thực hiện và kế hoạch tiếp tục thực hiện Đề án đào tạo nghề cho LĐNT của Ban
chỉ đạo TW thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Theo đó, mục tiêu thực hiện kế hoạch của đề án năm 2011 được xác định: Hỗ
trợ dạy nghề và đặt hàng dạy nghề cho khoảng 500.000 LĐNT theo chính sách
của Đề án, trong đó ít nhất 70% có việc làm sau đào tạo.
Như vậy, nhiệm vụ đào tạo nghề cho LĐNT để giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho nông dân đã được Đảng, Nhà nước quan tâm và tập trung các nguồn lực để
đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng. Thực hiện thành công nhiệm vụ này
sẽ góp thêm nguồn lực vào quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, đóng góp
tích cực vào sự nghiệp phát triển của đất nước trong tương lai.
1.1.2. Các nghiên cứu chủ yếu đã công bố
- Trên Thế giới:
Đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là vấn đề được coi là hàng
đầu của mọi quốc gia, nó là nền tảng quyết định sự phát triển kinh tế và xã hội.
Chính vì thế mà đã không ít các nhà khoa học, các nhà làm giáo dục đã viết về
lĩnh vực đào tạo nhằm đổi mới và thúc đẩy phát triển đào tạo. Trên thế giới có tổ
chức Seameo Voctech chuyên nghiên cứu để tìm ra các phương pháp nhằm
7
nâng cao chất lượng đào tạo, để quảng bá cho các trường trên các quốc gia có
thể vận dụng, đặc biệt là về đào tạo nghề.
Chương trình VocTech “Nâng cao chất lượng và tăng cường hệ thống
giáo dục nghề nông lâm nghiệp theo nhu cầu” do Chính phủ Hà Lan tài trợ cho
khối trường có dạy nghề nông lâm nghiệp của Bộ Nông nghiệp và PTNT Việt
Nam đã phát triển và ứng dụng các nghiên cứu trên thế giới về đào tạo nghề cho
nông dân cùng với đi sâu nghiên cứu đặc điểm của LĐNT Việt Nam để từ đó
xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức dạy nghề cho nông
dân và triển khai trong các trường có dạy nghề nông lâm nghiệp của Việt nam.
- Ở Việt Nam
Đến năm 2010, lực lượng lao động (dân số hoạt động kinh tế) của nước ta
có 50,4 triệu người (tổng số 56,5 triệu người trong độ tuổi lao động, bằng 58%
dân số; trong đó có hơn 70% số lao động ở khu vực nông thôn [1]. Trong thời
gian qua ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực Nông nghiệp,
nông thôn và nông dân; trong đó đề cập đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở
nông thôn, nhấn mạnh đào tạo nghề cho LĐNT nhằm giải phóng nguồn lực sức
lao động to lớn của nông dân; trên cơ sở đó để CNH – HĐH nông nghiệp, nông
thôn; góp phần tích cực vào quá trình phát triển của đất nước:
+ Đặng Kim Sơn và nhóm tác giả thuộc Viện chính sách và chiến lược
phát triển Nông nghiệp nông thôn Việt Nam (2008), trong tác phẩm “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam Hôm nay và mai sau”[14], qua nghiên
cứu thực trạng Nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta sau 20 năm đổi mới
đã có sự mô tả, so sánh, đánh giá và đề xuất những định hướng và kiến nghị
những chính sách nhằm tạo động lực để nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt
nam không ngừng phát triển trong tương lai. Hạn chế của tác phẩm này là chưa
đề xuất được những giải pháp cụ thể để có thể huy động toàn diện và phát huy
hiệu quả nguồn lực lao động ở nông thôn.
8
+ Cao Văn Sâm với bài viết “Nâng cao chất lượng nguồn lực xuất khẩu
lao động thời kỳ hậu khủng hoảng” [13] đã đề cập đến vấn đề xuất khẩu lao
động đạt hiệu quả cần phải đẩy mạnh dạy nghề, nhất là dạy nghề cho xuất khẩu
lao động nhằm tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng. Tuy nhiên, hạn chế của bài viết là chưa chỉ ra được LĐNT dồi dào là
nguồn lực đã và đang tham gia tích cực vào chương trình xuất khẩu lao động;
hơn lúc nào hết, để thực hiện giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho LĐNT, góp
phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu ngành nghề ở nông thôn, xây dựng CNH –
HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới nhất thiết phải tăng cường đào
tạo nghề cho lực lượng lao động này, tạo điều kiện để họ tham gia sâu hơn, bền
vững hơn vào chương trình xuất khẩu lao động của Nhà nước; đặc biệt cần quan
tâm giáo dục phổ thông để chuẩn bị cho người dân nông thôn có đủ điều kiện
tham gia quá trình học nghề đạt chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu
lao động trong tương lai.
+ Mạc Văn Tiến trong bài viết “Phát triển dạy nghề hiện đại hội nhập với
khu vực và thế giới”[20] đã có nhận xét tích cực về kết quả đào tạo nghề trong
10 năm gần đây và tác giả cũng đã đề nghị những giải pháp nhằm phát triển dạy
nghề theo hướng hiện đại để hội nhập với khu vực và thế giới; trong đó nhấn
mạnh việc mở rộng quy mô dạy nghề cho LĐNT nhằm đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và LĐNT, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo vững
chắc, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, đặc thù LĐNT và đào tạo nghề cho
LĐNT chưa được tác giả làm rõ; đặc biệt là dạy nghề nông nghiệp hiện đại,
nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình phân công lao động với mục tiêu giảm
nhanh tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng lao động trong công
nghiệp và dịch vụ.
+ Nhà báo Ngọc Cẩm trong bài viết “Dạy nghề cho nông dân phải gắn
với giải quyết việc làm” [5] đã chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng hạn chế đến kết
quả đào tạo nghề nông thôn trong thời gian qua đồng thời cũng đã đề nghị: trong
9
quá trình đào tạo nghề rất cần thiết có sự kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp,
HTX, các cơ sở sản xuất để họ một mặt tham gia vào quá trình đào tạo; mặt
khác có thể tạo cơ hội cho người học được tham gia vào quá trình kinh doanh
sản xuất của doanh nghiệp, HTX từ khi còn học và sau khi học nghề xong là có
thể làm việc được ngay với nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, vai trò hoạch
định, tổ chức phát triển nghề nghiệp tại các địa phương của các cấp chính quyền
chưa được tác giả quan tâm; bởi ngoài cơ chế thị trường thì bàn tay điều tiết của
Nhà nước về nguồn lực lao động thông qua quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành nghề, phát triển kinh tế trên địa bàn là hết sức quan trọng.
+ Nguyễn Tiến Dũng với bài viết “Đào tạo nghề cho nông dân trong thời
kỳ hội nhập quốc tế” [7] đã có đánh giá: chưa bao giờ vấn đề đào tạo nghề nói
chung và đào tạo nghề cho LĐNT lại được Đảng và Nhà nước quan tâm như
hiện nay và đã có những cơ chế, chính sách và các giải pháp đồng bộ để thực
hiện. Tác giả cũng đã đề nghị các giải pháp để nâng cao hiệu quả đào tạo nghề
cho nông dân trong thời kỳ hội nhập, trong đó nhấn mạnh: đào tạo nghề cho
nông dân và LĐNT phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thực sự của các
cơ sở sản xuất, kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn; từ nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế về nghề nghiệp
của người dân, vì vậy, công tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường
xuyên; nắm chắc các nhu cầu thực tế; đào tạo nghề cho nông dân và LĐNT phải
gắn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; gắn với xóa đói, giảm
nghèo và góp phần bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông
thôn mới. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nhất là vai trò của
chính quyền cấp xã, cấp huyện. Tuy nhiên, đối tượng LĐNT hiện nay rất đa
dạng, đặc biệt là sự chênh lệch về trình độ văn hóa đòi hỏi phải có sự phân biệt,
lựa chọn, bố trí đào tạo nghề phù hợp (cấp độ nghề, ngành nghề, thời gian đào
10
tạo…) thì mới phát huy được nguồn lực lao động này một cách hiệu quả, mới có
thể phù hợp với hội nhập Quốc tế (tại chỗ và ở nước ngoài).
1.2. Một số vấn đề cơ bản về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
1.2.1. Đào tạo nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn
1.2.1.1- Khái niệm đào tạo nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn
- Khái niệm nghề
Nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến gắn chặt với sự
phân công lao động xã hội, với tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn minh nhân loại;
nó được nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu dưới các góc độ khác
nhau. Nghề xuất hiện trong xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu làm ăn sinh sống của
con người và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo nhiều lĩnh vực hoạt
động xã hội, nhiều khu vực lãnh thổ và cộng đồng.
Cho đến nay thuật ngữ “nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau và theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau nhất định.
Chẳng hạn ở Pháp “Nghề là một loại lao động có thói quen và kỹ năng, kỹ xảo
của một người để từ đó tìm được một phương tiện sinh sống”, ở Đức “Nghề là
hoạt động cần thiết cho xã hội ở một lĩnh vực lao động nhất định, đòi hỏi phải
được đào tạo ở một trình độ nào đó”…Ở Việt Nam, một định nghĩa được nhiều
người sử dụng, “Nghề là công việc chuyên, làm theo sự phân công lao động xã
hội” (Từ điển tiếng Việt. NXB KHXH 1989). Mặc dù khái niệm nghề được hiểu
dưới nhiều góc độ khác nhau song chúng ta có thể nhận thấy một số nét đặc
trưng nhất định sau:
+ Đó là công việc chuyên môn;
+ Là phương tiện để sinh sống;
+ Là hoạt động lao động của con người;
+ Có thể làm thuê cho người khác hoặc làm cho bản thân;
+ Phù hợp với yêu cầu xã hội và nhu cầu của bản thân.
11
- Khái niệm đào tạo nghề
“Đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm
hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học” (Luật dạy nghề 2006), thông
thường sau khi tốt nghiệp lớp đào tạo nghề, người lao động được cấp văn bằng,
chứng chỉ nghề. Đào tạo nghề là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
Đào tạo nghề là một quá trình sản xuất đặc biệt. Học sinh trên thực tế là
sản phẩm ngành công nghiệp dạy nghề. Họ vào trường với tư cách là nguyên vật
liệu, trải qua quá trình xử lý (đào tạo) phức tạp của nhà trường (cơ sở đào tạo)
để biến đổi trình độ, nhân cách và chính thức là thành phẩm sau khi tốt nghiệp.
Trong quá trình học tập học sinh phải tiếp thu kiến thức, thực hiện các bài tập,
rèn luyện kỹ năng nghề, kiểm tra, thi… dưới sự kiểm soát đánh giá của giáo
viên. Như vậy, bản thân học sinh chính là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá
trình đào tạo, đồng thời là tiêu điểm của mọi chương trình, quá trình, biện pháp
giáo dục góp phần nâng cấp đầu vào thành đầu ra có mức chất lượng cao hơn.
Đào tạo nghề là quá trình tiếp thu kết quả giáo dục phổ thông để đào tạo nghề
nghiệp cho học sinh học nghề; hình thành năng lực nghề nghiệp, chú trọng đến
các kỹ năng thông qua luyện tập tay nghề, đó chính là những yêu cầu, vị trí công
tác, hoạt động nghề nghiệp của người công nhân kỹ thuật.
- Đào tạo nghề có: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề:
+ Đào tạo nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học nghề năng
lực thực hành một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc của
một nghề; tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm
việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn. Thời gian học từ
ba tháng đến dưới một năm; kết thúc khóa học nếu đạt yêu cầu được cấp chứng
chỉ.
12
+ Đào tạo nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả
năng làm việc độc lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; tạo điều
kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc
làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn. Thời gian học từ một đến bốn năm
tuỳ theo nghề và trình độ văn hóa của người học; kết thúc khóa học nếu đạt yêu
cầu được cấp bằng tốt nghiệp trung cấp nghề.
+ Đào tạo nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề, có khả
năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo, ứng
dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; giải quyết được các tình huống phức
tạp trong thực tế; tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả
năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn. Thời
gian đào tạo từ hai đến ba năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng
tốt nghiệp trung học phổ thông; từ một đến hai năm học tuỳ theo nghề đào tạo
đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề cùng ngành nghề đào tạo; kết
thúc khóa học nếu đạt yêu cầu được cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề.
- Đào tạo nghề bao gồm đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên:
+ Đào tạo nghề thường xuyên bao gồm: chương trình bồi dưỡng, nâng
cao, cập nhật kiến thức và kỹ năng nghề; chương trình đào tạo nghề theo hình
thức kèm cặp nghề, truyền nghề; chương trình chuyển giao công nghệ; chương
trình đào tạo SCN, TCN, CĐN được thực hiện theo hình thức vừa làm vừa học
hoặc tự học có hướng dẫn để được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề, bằng tốt nghiệp
trung cấp nghề, bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề. Đào tạo nghề thường xuyên
được thực hiện linh hoạt về thời gian, địa điểm, phương pháp, hình thức đào tạo
để phù hợp với yêu cầu của người học nghề nhằm tạo điều kiện cho người lao
động học suốt đời, nâng cao trình độ kỹ năng nghề, đổi mới nghề nghiệp nhằm
thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động và có cơ hội tạo việc làm.
13
+ Đào tạo nghề chính quy được thực hiện với các chương trình sơ cấp
nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các cơ sở dạy nghề đúng theo quy
định của Luật Dạy nghề theo các khoá học tập trung và liên tục.
- Khái niêm đào tạo nghề lao động nông thôn
Cũng như khái niệm về đào tạo nghề đã nêu ở trên, đào tạo nghề LĐNT
chỉ khác là xác định đối tượng đào tạo rõ hơn, đó là những nông dân trong tuổi
lao động đang làm việc ở nông thôn, gắn với nông nghiệp và số lượng lao động
này có tốc độ tăng cao hàng năm, tỷ lệ thuận với tốc độ tăng dân số ở nông thôn
và đào tạo nghề phải gắn với giải quyết việc làm, dịch chuyển cơ cấu nghề
nghiệp ở mức độ cao nhất cho LĐNT học nghề nhằm giảm tỷ trọng lao động
trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ.
1.2.1.2. Đặc điểm đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Thứ nhất, do sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa
nông thôn và thành thị, trình độ văn hóa của người dân nông thôn còn thấp;
Thứ hai, tỷ lệ sinh ở khu vực nông thôn khá cao so với khu vực thành thị
nên hàng năm số người bước vào tuổi lao động ở khu vực này tăng nhanh;
Thứ ba, nền văn hoá, tâm lý, thói quen, sắc tộc, tín ngưỡng đối với các bộ
phận dân cư khác nhau tạo nên tính đa dạng; mục đích và động cơ đi học nghề,
động lực học nghề, nhu cầu học nghề của các đối tượng LĐNT không giống
nhau và thường không rõ ràng; đặc điểm các ngành nghề mà nông dân có nhu
cầu hầu hết là nghề nông nghiệp, gắn liền với đất đai, với điều kiện tự nhiên, với
khu vực địa lý, với thời gian học nghề không dài; đặc biệt yêu cầu về chương
trình, tài liệu, hình thức, phương pháp giảng dạy trong đào tạo nghề cho nông
dân cũng cần linh hoạt phù hợp với đối tượng là LĐNT;
Thứ tư, kinh tế nông thôn chưa phát triển, hiệu quả lao động không cao, thu
nhập của nông dân còn thấp, chi phí về đào tạo còn nhiều tốn kém, việc tự trang
trải chi phí này đối với các gia đình nông dân sẽ gặp nhiều trở ngại nên người
14
dân nông thôn ít quan tâm đúng mức tới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, họ chưa
đầu tư thỏa đáng cho việc học hành của chính mình và con em mình. Trong khi
đó Nhà nước chưa có cơ chế thỏa đáng và tiềm lực kinh tế mạnh để khuyến
khích, hỗ trợ nông dân trong đào tạo và tự đào tạo. [15]
- Từ các đặc điểm trên của nhân lực nông thôn cho ta thấy cần phải có sự
can thiệp của Nhà nước thông qua hệ thống chính sách nhằm tạo nên sự hợp lý
về số lượng và tăng cường chất lượng nguồn nhân lực nông thôn.
- Từ các đặc điểm trên cũng cho thấy lực lượng LĐNT mang trong mình
những hạn chế vốn có do chịu ảnh hưởng của đời sống và nền sản xuất nông
nghiệp nên quá trình đào tạo nghề cho đối tượng lao động này cũng cần phải có
những hình thức, phương pháp, nội dung, thời gian… phù hợp với người học, có
như vậy người lao động học nghề mới tiếp thu và ứng dụng vào quá trình làm
việc cũng như tự tạo việc làm cho mình đạt hiệu quả.
1.2.1.3. Mục đích đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020” đã xác định rõ mục đích:
+ Đào tạo nghề cho LĐNT nhằm nâng cao chất lượng LĐNT, đáp ứng đáp
ứng yêu cầu CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn;
+ Học nghề là quyền lợi và nghĩa vụ của LĐNT nhằm tạo việc làm, chuyển
nghề, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Như vậy mục đích của đào tạo nghề nông thôn là nhằm giải phóng sức lao
động của khu vực hiện chiếm hơn 70% lao động; thông qua đào tạo nghề cho
LĐNT để trang bị cho nông dân những kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp
phù hợp để tham gia tích cực, hiệu quả vào quá trình phân công lao động xã hội
hiện tại và tương lai theo chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020 đã đề ra.
15
1.2.1.4. Yêu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” có yêu cầu:
+ Chuyển mạnh đào tạo nghề cho LĐNT từ đào tạo theo năng lực sẵn có
của cơ sở đào tạo sang đào tạo theo nhu cầu học nghề của LĐNT và yêu cầu của
thị trường lao động; gắn đào tạo nghề với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương;
+ Đổi mới và phát triển đào tạo nghề cho LĐNT theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để LĐNT tham gia học nghề
phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề của mình;
+ Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho LĐNT, có
chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi
LĐNT, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo
nghề cho LĐNT.
Như vậy, yêu cầu phải huy động các nguồn lực xã hội để ưu tiên phục vụ
đào tạo nghề cho LĐNT, thông qua đó tạo nhiều việc làm cho LĐNT cả trong
nông nghiệp cũng như các ngành khác; mặt khác quá trình đào tạo phải thực sự
lấy người học làm trung tâm gắn với quy hoạch, kế họach phát triển của ngành,
của địa bàn nông thôn, sao cho tạo việc làm sau đào tạo đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.2. Việc làm;
1.2.2.1. Một số khái niệm
- Việc làm
Việc làm là một khái niệm phức tạp, nó gắn với hoạt động thực tiễn của
con người, vì vậy để hiểu rõ được khái niệm về việc làm thì chúng ta phải hiểu
rõ khái niệm người có việc làm.
Tại Hội nghị lần thứ 13 năm 1983 tổ chức lao động thế giới (ILO) đưa ra
quan niệm: “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả
công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia
16
vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia
đình, không nhận được tiền công hay hiện vật”.
Người có việc làm là những người lao động ở tất cả các khu vực (công
và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân và gia đình, xã hội. Tại
nhiều nước trên thế giới sử dụng khái niệm này.
Khi điều tra thống kê về lao động và việc làm, khái niệm trên được cụ thể
hoá bằng các tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mỗi nước trên thế giới đặt ra,
trong đó có thể chia ra thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất: Là nhóm có việc làm và đang làm việc, đó là những
người đang làm bất cứ công việc gì được trả công hoặc làm việc trong các trang
trại hay cơ sở sản xuất kinh doanh của gia đình;
Nhóm thứ hai: Là những người có việc làm nhưng hiện không làm việc,
đó là những người có việc làm nhưng hiện tại đang nghỉ ốm hoặc các lý do cá
nhân khác.
Những người không thuộc hai nhóm trên gọi là người không có việc làm.
Theo điều 13 bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được
thừa nhận là việc làm”. Như vậy một hoạt động lao động được coi là việc làm
nếu nó đáp ứng được hai tiêu chuẩn:
Thứ nhất, đó là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm.
Thứ hai, hoạt động lao động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động.
Việc làm là hoạt động được thể hiện trong ba dạng sau:
+ Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó;
+ hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền
sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để tiến hành
công việc đó;
17
+ Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được
trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
Việc làm còn có thể hiểu là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa
sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho
xã hội, theo quan niệm này thì việc làm bao gồm:
Thứ nhất: Là sự biểu hiện của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất;
Thứ hai : Lấy lợi ích vật chất, tinh thần mà các hoạt động đó đem lại, xem
xét hoạt động đó có phải là việc làm hay không.
Theo quan điểm của Mac: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công
nghệ…) để sử dụng sức lao động đó”.
Sức lao động do người lao động sở hữu; những điều kiện cần thiết như
vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…. có thể do người lao động có quyền sở hữu,
sử dụng hay quản lý hoặc không. Theo quan điểm của Mac thì bất cứ tình huống
nào xảy ra gây nên trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần
thiết để sử dụng sức lao động đó đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm hay mất
việc làm.
Từ đó ta có: việc làm là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu
sản xuất. Sự phù hợp đó thể hiện trên cả mặt số lượng và chất lượng thông qua
tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) và chi phí lao động (V). Quan hệ tỷ lệ này phù hợp
với trình độ công nghệ của sản xuất; khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì
quan hệ này cũng thay đổi theo.
VL C/V
Trong đó : VL : việc làm; C : tư liệu sản xuất; V: lực lượng lao động.
- Thất nghiệp
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại
khi một số người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm
được việc làm ở mức tiền công thịnh hành”.
18
Như vậy người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm
việc làm và có đăng ký tìm việc theo quy định.
Để xem xét và so sánh tình hình thất nghiệp người ta sử dụng các con số
chủ yếu là tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ số giữa số người thất nghiệp
với dân số hoạt động kinh tế:
UR = U/LF
Trong đó : UR: Tỷ lệ thất nghiệp
U: Số người thất nghiệp; LF: Dân số hoạt động kinh tế.
Thất nghiệp là một khái niệm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội,
nói đến thất nghiệp là nói đến sự khó khăn cho việc hoạch định chính sách của
các quốc gia. Tuy nhiên trên thực tế thất nghiệp ở bất cứ quốc gia nào, thời gian
nào cũng có, có điều phải làm sao giữ nó ở mức thấp và hợp lý với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
- Thiếu việc làm
Thiếu việc làm là việc làm không tạo điều kiện, không đòi hỏi người lao
động sử dụng hết thời gian lao động làm việc theo chế độ và mang lại thu nhập
dưới mức tối thiểu; thiếu việc làm có hai dạng :
Thiếu việc làm vô hình: Là khi thời gian sử dụng cho sản xuất kinh doanh
không có hiệu quả dẫn đến thu nhập thấp, người lao động phải làm việc bổ sung
thêm để tăng thu nhập. Người thiếu việc làm vô hình là người có thời gian làm
việc tuy đủ hoặc vượt mức chuẩn quy định về đủ số giờ làm việc trong tuần lễ
điều tra nhưng việc làm có năng suất thấp, thu nhập thấp, công việc không phù
hợp với chuyên môn nghiệp vụ và họ có nhu cầu tìm việc làm thêm.
Thiếu việc làm hữu hình: Là khi thời gian làm việc thấp hơn mức bình
thường. Người thiếu việc làm hữu hình là người có việc làm nhưng số giờ làm
việc trong tuần lễ điều tra ít hơn mức quy định chuẩn và họ có nhu cầu làm việc
thêm.
19
Khái niệm về thiếu việc làm khá rộng do đó việc xác định số người thiếu
việc làm là rất khó khăn; nhất là ở Việt Nam, nên khi xác định thiếu việc làm
chúng ta cần bám chắc khái niệm thiếu việc làm của ILO, từ đó chỉ xác định
người thiếu việc làm ở dạng nhìn thấy còn những trường hợp khác nên đưa vào
nhóm những người có việc làm nhưng không ổn định.
Tình trạng thiếu việc làm hiện nay tồn tại ở nhiều nước nhất là ở những
nước đang phát triển như Việt Nam. Giải quyết vấn đề này phải có sự kết hợp
của nhiều cấp, nhiều ngành, của bản thân người lao động và mang tính lâu dài.
- Tạo việc làm
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để
tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá
và dịch vụ theo yêu cầu thị trường.
Tạo việc làm cho người lao động là một vấn để rất phức tạp nhưng rất cần
thiết mà mỗi quốc gia, mỗi địa phương luôn phải quan tâm. Tạo việc làm cho
người lao động chịu ảnh hưởng không những của nền kinh tế - xã hội mà còn
chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác. Vì vậy khi xem xét để đưa ra chính
sách tạo việc làm cho người lao động cần phải quan tâm đến rất nhiều nhân tố
khác.
Thực chất của tạo việc làm cho người lao động là tạo ra trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất gồm cả về chất lượng và cả số lượng.
Chất lượng, số lượng của tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, những tiến
bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất cũng như việc sử dụng và quản lý
các tư liệu đó.
Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô và cơ cấu dân số. Chất lượng
lao động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục và y tế. Ngoài ra
vấn đề môi trường cho sự kết hợp giữa các yếu tố này là hết sức quan trọng, nó
bao gồm các chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động cũng như người
sử dụng lao động. Thị trường lao động chỉ có thể được hình thành khi người lao
20
động với người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng
sức lao động, do vậy vấn để tạo việc làm phải được nhìn nhận ở cả người lao
động và người sử dụng lao động đồng thời không thể không kể đến vai trò của
Nhà nước.
Người sử dụng lao động là người chủ yếu tạo ra chỗ làm việc cho người
lao động, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngoài nước. Để có
quan hệ lao động thì giữa người lao động và người sử dụng lao động phải có
những điều kiện nhất định. Đó là người sử dụng lao động cần phải có vốn, công
nghệ, kinh nghiệm và thị trường tiêu thụ. Còn người lao động cần phải có sức
khoẻ, trình độ, chuyên môn, kinh nghiệm phù hợp với công việc của mình. Để
có được việc làm được trả công theo ý muốn của mình thì người lao động luôn
phải học hỏi, trau dồi kiến thức, rèn luyện tay nghề cho mình để theo kịp sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ. Ngoài ra người lao động phải luôn tự đi
tìm việc làm phù hợp với mình hoặc tự mình tạo việc làm trên cơ sở trợ giúp
một phần từ bên ngoài để đem lại thu nhập cho mình và gia đình mình. Tuy
nhiên khi nói đến quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao
động không thể không kể đến vai trò của Nhà nước; Nhà nước quản lý quan hệ
lao động bằng các chính sách khuyến khích động viên nhằm đem lại lợi ích cho
cả hai bên; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho cả người lao động và người sử
dụng lao động để họ phát huy tối đa năng lực của mình; ngoài ra Nhà nước cũng
đưa ra các chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo phân bổ
nguồn nhân lực một cách hợp lý. Vì vậy, khi nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý
đến vấn đề đầu tư của Nhà nước cũng như tư nhân là các khu vực có thể tạo ra
cơ hội việc làm cho người lao động.
Trước đây việc đầu tư của Nhà nước cũng như của các tư nhân đều tập
trung ở thành thị và các khu công nghiệp vì ở những nơi này sẽ tạo ra được tỷ lệ
lợi nhuận cao hơn và có khả năng liên kết với nhau hơn; còn địa bàn nông thôn
thường bị bỏ ngỏ, vì vậy bộ phận lớn lực lượng lao động xã hội nằm ở nông
21
thôn chưa được quan tâm tạo việc làm; chính vì điều này sẽ gây ra hiện tượng
người lao động từ nông thôn ra thành thị và cũng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở
nông thôn. Hiện nay Đảng và Nhà nước đã có chủ trương và từng bước đầu tư,
có chính sách tạo việc làm phù hợp cho cả người lao động ở thành thị và nông
thôn trên cơ sở đẩy mạnh CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, giải phóng
nguồn nhân lực nông thôn, nơi đang tập trung gần 80% dân số với hơn 70% lao
động xã hội.
Khi nghiên cứu chính sách tạo việc làm cho người lao động không thể
thiếu những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
1.2.2.2. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
Tạo việc làm cho người lao động bất cứ lúc nào cũng hết sức cần thiết.
Người lao động có việc làm không những có lợi cho chính bản thân họ và gia
đình đồng thời cũng có lợi cho cả địa phương và quốc gia.
Đối với người thất nghiệp thì họ không có việc làm nên không có thu
nhập, buộc họ phải đi làm những công việc để kiếm thu nhập trang trải cuộc
sống, có thể kể cả công việc mà pháp luật cấm; còn đối với người thiếu việc làm
thì họ luôn bị áp lực về kinh tế bởi có mức tiền công thấp và có khả năng bị mất
việc làm, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ra những tệ nạn xã hội như mại
dâm, ma tuý… Đối với xã hội thì thất nghiệp và thiếu việc làm gây ra sự lãng
phí nguồn lực xã hội, nó làm giảm thu nhập của người lao động, xã hội phải bỏ
ra chi phí trợ cấp, do đó đời sống xã hội giảm, vì vậy tạo việc làm cho người lao
động là hết sức cần thiết đối với mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của mình.
Tạo việc làm là một chính sách giải quyết những vấn đề xã hội, mọi người
lao động đều có việc làm sẽ làm cho xã hội ổn định hơn, văn minh hơn, tạo việc
làm cho người lao động được quan tâm đúng mức sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, xoá bỏ tình trạng nghèo đói. Vì thế mỗi quốc gia, mỗi địa phương cần phải
22
quan tâm đến điều kiện của mình để xây dựng chính sách tạo việc làm cho phù
hợp, sao cho mọi người lao động đều có việc làm và điều này chứng tỏ quốc gia
đó, địa phương đó khai thác triệt để nguồn lực con người sẵn có và tạo ra một
nền sản xuất phát triển.
1.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động
- Tư liệu sản xuất
Tư liệu sản xuất ở đây gồm vốn, đất đai, máy móc, công cụ, kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, nguồn lực sinh học, … Trong đó quan trọng nhất là yếu tố về vốn,
đất đai, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các yếu tố khác có thể mua được bằng vốn.
Vốn được biểu hiện bằng tiền của tư liệu sản xuất và đối tượng lao động
được sử dụng vào trong quá trình sản xuất. Trong công nghiệp vốn có vai trò rất
quan trọng, là yếu tố thiết yếu để ngành phát triển. Vốn được dùng để xây dựng
nhà xưởng, mua sắm thiết bị nguyên vật liệu, máy móc, vốn để dự trữ cho quay
vòng. Có nhiều vốn để đầu tư, quy mô sản xuất ngày càng được nâng cao, hiệu
quả sản xuất càng cao và số lao động thu hút làm việc sẽ ngày một nhiều hơn.
Trong sản xuất nông nghiệp, vốn cũng có vai trò hết sức quan trọng. Sự
tác động của vốn đến hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp không phải
bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng, vật nuôi, yếu tố kỹ thuật trong nông
nghiệp; khi diện tích đất đai là không đổi thì vốn đóng một vai trò quan trọng
trong việc phát triển chiều sâu của sản xuất nông nghiệp. Khi nguồn vốn được
sử dụng trong nông nghiệp tăng thì càng tạo ra được nhiều chỗ làm việc cho
người lao động trong nông thôn, nhất là khi mà lượng thiếu việc làm của người
LĐNT còn rất nhiều.
Ngành thương mại dịch vụ chỉ có thể hoạt động khi có vốn. Khi vốn tăng
thì hoạt động dịch vụ sẽ được mở rộng và do đó sẽ tạo nhiều chỗ làm cho người
lao động trong lĩnh vực này.
23
Như vậy, trong bất cứ hoạt động nào thì yếu tố vốn cũng đóng vai trò
quan trọng và gián tiếp ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
Yếu tố thứ hai nhưng đóng vai trò quan trọng nhất trong tư liệu sản xuất
đó là đất đai. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề của mọi quá trình sản xuất; sự
ảnh hưởng của đất đai là khác nhau đối với các ngành khác nhau.
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai không chỉ tham gia với tư cách là yếu
tố thông thường mà là yếu tố tích cực không thể thay thế được; đất đai trong sản
xuất nông nghiệp là có hạn, không thể tăng được. Hiện nay trong quá trình
CNH, đất đai đang bị thu hẹp, dân số thì gia tăng nên diện tích đất trên đầu
người giảm do đó vấn đề sử dụng đất trong nông nghiệp càng khó khăn hơn; vì
vậy chúng ta cần khai thác chiều sâu trong sản xuất nông nghiệp để tạo ra nhiều
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Để tạo ra nhiều việc làm
cho người lao động, nhất là LĐNT thì việc chú trọng trong sử dụng, khai thác và
chăm sóc đất đai hợp lý là hết sức cần thiết, nhằm tạo được việc làm tăng thu
nhập cho người nông dân.
Trong công nghiệp đất đai được dùng để xây dựng nhà máy, trụ sở, xí
nghiệp và nó luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư bởi hoạt động sản
xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác mà các yếu tố đó liên quan
đến vị trí đất. Các nhà đầu tư luôn lựa chọn địa điểm mà ở đó tụ hội được các lợi
thế cho họ như: gần đường giao thông, khu dân cư đông đúc, cơ sở hạ tầng
thuận tiện, … nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và đem lại lợi nhuận cao trong
sản xuất kinh doanh.
Ngày nay chiều hướng người lao động chuyển dần sang lĩnh vực hoạt
động công nghiệp và ngành này đang là ngành tạo nhiều chỗ làm việc mới cho
người lao động. Vì vậy chúng ta cần phải khai thác phát triển ngành công nghiệp
để giải quyết việc làm cho nhiều người lao động đặc biệt là người lao động ở
nông thôn.
24
Như vậy, trong bất cứ ngành nào thì đất đai cũng là một điều kiện tiền đề
để ngành tồn tại và phát triển. Do đó chúng ta cần phải có chính sách sử dụng
đất hợp lý.
Ngoài yếu tố vốn và đất đai thì yếu tố cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động. Các yếu tố đó là các hệ
thống thuỷ lợi, giao thông, kho tàng, thông tin liên lạc, bến bãi, … Các yếu tố
này phát triển tốt là tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện để
phát triển các ngành và như vậy sẽ thu hút thêm lao động trong ngành đồng thời
tạo thêm việc làm cho người lao động.
Yếu tố tư liệu sản xuất là yếu tố hàng đầu tác động đến quá trình tạo việc
Làm, vì vậy Nhà nước và các nhà đầu tư cần lựa chọn kỹ lượng, sử dụng hợp lý
yếu tố này để tạo thêm nhiều chỗ làm việc cho người lao động.
- Môi trường
Môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề tạo việc làm cho người lao
động, môi trường ở đây được hiểu là môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế.
- Xã hội.
Môi trường tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên thiên
nhiên, khí hậu, đất đai, … Như đã nói ở phần trên thì đất đai là điều kiện tiền đề
không thể thay thế được. Còn các yếu tố khác như vị trí địa lý, địa hình, khí hậu,
… có tác động để lựa chọn phương thức sản xuất. Người lao động sinh sống ở
những nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có điều kiện tìm được việc làm dễ
hơn người lao động sinh sống ở những nơi có điều kiện khắc nghiệt. Mặt khác
khi sản xuất những mặt hàng khác nhau thì không thể sản xuất ở một nơi nhất
định mà mỗi loại mặt hàng sẽ phù hợp với một điều kiện cụ thể; nó gắn với
nguồn nguyên liệu, khí hậu thời tiết, … Vì vậy môi trường tự nhiên ảnh hưởng
rất nhiều đến việc phát triển kinh tế của một địa phương và vì vậy ảnh hưởng
đến việc tạo việc làm cho người lao động.
25
Môi trường xã hội đó là quy định của luật pháp, các chính sách khuyến
khích, đầu tư, giáo dục - đào tạo, hỗ trợ, ưu đại, thuế, … của Nhà nước, của địa
phương, đó là sự quan tâm là thái độ đối xử, …. đối với người lao động và các
nhà đầu tư, nó ảnh hưởng rất lớn đến việc tạo việc làm cho người lao động;
chính sách phát triển kinh tế của địa phương sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cơ cấu
việc làm và tạo việc làm cho lao động ở địa phương. Do đó mỗi địa phương cần
dựa vào điều kiện, lợi thế của mình mà xây dựng chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội cho phù hợp nhằm tạo nhiều chỗ làm việc cho người lao động.
Việc xây dựng môi trường xã hội không những ở địa phương mà ngay cả
ở nơi làm việc của người lao động cũng phải có một môi trường thuận lợi. Đó là
việc xây dựng văn hoá trong doanh nghiệp để từ đó kích thích tâm lý người lao
động, để nâng cao năng suất lao động. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải đảm
bảo các quyền lợi của người lao động để người lao động yên tâm làm việc.
Môi trường kinh tế cũng tác động đến việc tạo việc làm cho người lao
động. Đó chính là xu hướng phát triển của các ngành công nghiệp, nông nghiệp
và dịch vụ; đồng thời môi trường kinh tế cũng là sự vận động của thị trường
hàng hoá diện ra trong khu vực; môi trường kinh tế sẽ tác động đến sự phát triển
của các ngành kinh tế nên sẽ ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho người lao
động tại khu vực đó.
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm cũng có ảnh hưởng đến việc
tạo việc làm cho người lao động. Các hoạt động của chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm bao gồm các hoạt động chủ yếu được chia làm ba nhánh chính:
phát triển kinh tế – xã hội tạo mở việc làm; đẩy mạnh xuất khẩu lao động và
chuyên gia; tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho
người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế trong thị
trường lao động.
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm tạo điều kiện cho người lao
động có nhiều cơ hội được làm việc và luôn hướng về việc phát triển kinh tế xã