Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 83 trang )

NGUYỄN QUANG TRUNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI

NGUYỄN QUANG TRUNG

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI

NGUYỄN QUANG TRUNG


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS – TS VŨ THỊ HỒNG VÂN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Đào tạo Sau Đại học - Viện Đại học
Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Quang Trung


LỜI CẢM ƠN

Đề tài “Thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại” là nội dung tôi chọn để nghiên cứu và làm Luận văn tốt nghiệp
sau hai năm theo học chương trình cao học chuyên ngành Luật Kinh tế tại Viện Đại
học Mở Hà Nội.

Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến PGS - TS Vũ Thị Hồng
Vân - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội đã trực tiếp chỉ bảo, tận
tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu để tôi hoàn thiện Luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô Khoa Đào tạo Sau Đại học-Viện Đại
học Mở Hà Nội, những người đã truyền đạt kiến thức quý báu cho tôi suốt trong thời
gian học tập vừa qua.
Sau cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn
động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2018
Học viên

Nguyễn Quang Trung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................ 2
3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn ..................................................................... 3
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ..................................................... 5
7. Kết cấu của Luận văn ......................................................................................... 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
.................................................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại và thẩm quyền của Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ................................ 7

1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại ........................................ 7
1.1.2. Khái niệm về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ........................ 9
1.1.3. Khái niệm về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại ................................................................................................. 13
1.2. Cách thức phân định thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại................................................................................ 14
1.2.1. Phân định thẩm quyền theo vụ việc............................................................... 15
1.2.2. Phân định thẩm quyền theo cấp xét xử ......................................................... 15
1.2.3. Phân định thẩm quyền theo lãnh thổ ............................................................ 15
1.2.4. Phân định thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn............................. 16
1.3. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật về thẩm quyền của Toà án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ....................................... 16
1.3.1. Giai đoạn năm 1994 - 2004 .......................................................................... 17
1.3.2. Giai đoạn 2005 - 2011................................................................................... 17
1.3.3. Giai đoạn 2012 – 30/6/2016 .......................................................................... 19
1.4.4. Giai đoạn 01/7/2016 đến nay ........................................................................ 20


Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẨM
QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI ..................................................................................... 21
2.1. Quy định về thẩm quyền theo vụ việc............................................................ 21
2.1.1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại ................. 21
2.1.2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và quyền chuyển giao công nghệ ................... 22
2.1.3. Tranh chấp giữa những người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty ..................... 26
2.1.4. Tranh chấp trong nội bộ công ty .................................................................. 30
2.1.5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định
................................................................................................................................ 33
2.2. Quy định về thẩm quyền theo cấp Toà án ..................................................... 33

2.2.1. Thẩm quyền của Toà án cấp huyện ............................................................. 33
2.2.2. Thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh ................................................................. 36
2.3. Những quy định về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ........................... 40
2.4. Quy định về thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn...... 43
2.4.1. Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có
tài sản giải quyết (điểm a khoản 1 Điều 40) ........................................................... 44
2.4.2. Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh
giải quyết (điểm b, khoản 1, Điều 40) .................................................................... 45
2.4.3. Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết (điểm g, khoản 1, Điều 40) ............. 45
2.4.4. Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải
quyết (điểm h, khoản 1, Điều 40) ........................................................................... 47
2.4.5. Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác
nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải
quyết (điểm i, khoản 1, Điều 40) ............................................................................ 47


Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DUNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI ..................................................................................................... 49
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại .................................................... 49
3.1.1. Số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
của Toà án.............................................................................................................. 49
3.1.2. Những kết quả đã đạt được .......................................................................... 53
3.1.3. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân ............................................ 55

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại................................. 60
3.2.1. Giải pháp về pháp luật.................................................................................. 60
3.2.2. Giải pháp về tổ chức, đảm bảo áp dụng quy định về thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại............................... 65
KẾT LUẬN............................................................................................................ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 72
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .......................................................................... 75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT

Chữ viết tắt

Giải nghĩa

1

BLDS

Bộ luật dân sự

2

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự


3

NQ - HĐTP

Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán

4

NQ - TW

Nghị quyết Trung ương

5

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống cơ quan tư pháp của Việt Nam thì Tòa án là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp chủ yếu, với chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án mà pháp luật
quy định để bảo vệ pháp luật và sự công bằng xã hội. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ:
“Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội… kế thừa
truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù
hợp với hoàn cảnh của nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới thủ
tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân

tiếp cận công lý”. Bên cạnh đó, Nghị quyết còn xác định “tòa án là trung tâm của tư
pháp, trọng tâm của hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử của tòa án”[2], Đường lối
cải cách tư pháp nói trên có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, trong đó có các quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại giữa các tòa án. BLTTDS năm 2004 được thông qua
ngày 15/6/2004 (gọi tắt là BLTTDS) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2011 (gọi tắt là BLTTDS sửa đổi, bổ sung) đã dành một
chương gồm 13 Điều luật để quy định về thẩm quyền của tòa án, trong đó có quy
định về thẩm quyền của tòa án theo loại việc, thẩm quyền của tòa án cấp huyện và
tòa án nhân dân các cấp, thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của
nguyên đơn. Đây là là cơ sở pháp lý quan trọng để phân định thẩm quyền sơ thẩm
giữa các tòa án. Nhìn chung quy định về thẩm quyền sơ thẩm giữa các tòa án được
xây dựng một cách đầy đủ, cụ thể và khoa học, hạn chế sự chồng chéo khi tòa án
thực hiện nhiệm vụ, giảm bớt phiền hà cho người dân khi thực hiện quyền khởi kiện
của mình tạo điều kiện thuận lợi cho các Thẩm phán, Kiểm sát viên... nhận thức và
vận dụng đúng các quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại của tòa án vào việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại, nhằm góp
phần đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân.
Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án cũng còn nhiều khiếm khuyết. Sự
thiếu cụ thể, rõ ràng của pháp luật làm cho đương sự lúng túng trong việc xác định
1


tòa án mà họ có thể nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc, các tòa án
cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc khi xác định một vụ việc cụ thể có thuộc
thẩm quyền sơ thẩm của tòa án mình hay không.
Việc nghiên cứu những quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại của tòa án có ý nghĩa xác định một tòa án cụ thể nào đó sẽ
có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại phát sinh tại tòa án.

Đây là vấn đề cơ bản trong quá trình xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại của tòa án. Do vậy, khi nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án thì hai vấn đề sẽ được chú trọng,
đó là phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa tòa án các cấp và phân định thẩm quyền sơ
thẩm của tòa án theo phạm vi lãnh thổ.
Từ thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại của tòa án, vướng mắc trong thực tiễn thi hành và ý nghĩa của việc xác
định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án, chúng
tôi thấy rằng cần thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ hơn nữa
những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại của tòa án cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng những quy định của pháp luật về vấn đề này.
Chính vì vậy, học viên chọn nghiên cứu vấn đề sau đây “Thẩm quyền của Toà
án trong việc giải quyết tranh các tranh chấp kinh doanh, thương mại” làm luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án
đã được đề cập khá nhiều trong các công trình như Luận án tiến sĩ (TS) của Đào Văn
Hội với đề tài “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam”; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Vinh với đề tài “Pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà án ở Việt nam”; tác giả Lê thị Thu Thuỷ với
chuyên đề “Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh tế”, Tạp chí Toà án Nhân dân, số 19/2012; … Nhưng việc nghiên cứu
chuyên sâu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án
chưa thật sự được chú ý, chủ yếu là được đăng tải dưới hình thức các bài viết trên tạo
chí pháp lý như: Tiến sĩ Vũ Thị Hồng Vân với chuyên đề “Về mở rộng thẩm quyền
2


của Toà án cấp huyện trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo

BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2006; Tiến sĩ Vũ Thị Hồng Vân với chuyên đề “Về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án theo BLTTDS”,
Tạp chí Luật học, số 4/2008; tác giả Nguyễn Thị Vân Anh với chuyên đề “Một số kiến
nghị liên quan đến quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại theo Điều 29 BLTTDS”, Tạp chí Nghề luật, số 3/2010,… Có thể thấy, các công
trình nghiên cứu nêu trên đều đánh giá và chỉ ra những bất cập trong việc phân định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án, đồng thời đưa
ra những kiến nghị để khắc phục những điểm bất cập đó. Tuy nhiên, có một điểm
chung giữa các công trình nghiên cứu đã công bố nêu trên đó là những phân tích, nhận
định của các tác giả đều áp dụng đối với BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung năm
2011. Nhưng việc nghiên cứu thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại của Toà án, tiếp cận từ các quy định mới của BLTTDS 2015 thì chưa có công
trình nghiên cứu nào được công bố.
3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo thủ tục
sơ thẩm của tòa án, bao gồm những vấn đề: thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền
của các cấp tòa án, thẩm quyền theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Những số liệu và thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại của tòa án được khảo sát và phân tích trong Luận văn giới hạn từ
năm 2010 -2017. Luận văn không nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại theo thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái
thẩm; thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thông qua việc thực
hiện thẩm quyền của các Hội đồng xét xử. Những quy định về thẩm quyền giải quyết
việc dân sự và việc kinh doanh, thương mại cũng không thuộc phạm vi nghiên cứu của
Luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
- Thứ nhất, luận văn sẽ nghiên cứu các vấn đề chung về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án như khái niệm, đặc điểm, các căn cứ
để phân định thẩm quyền, v…v.


3


- Thứ hai, luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về thẩm quyền của Toà
án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo BLTTDS 2015
trong quan hệ so sánh với các quy định của BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung
năm 2011
- Thứ ba, luận văn sẽ đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về thẩm quyền
của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo
BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011, do BLTTDS 2015 chưa có hiệu
lực thi hành. Bên cạnh đó, khi đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật theo BLTTDS
2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011, chúng tôi cũng sẽ đối chiếu với quy định
pháp luật của BLTTDS 2015, từ đó đánh giá những tác động của quy định pháp
luật hình thành trong thực tiễn áp dụng, đồng thời tiếp tục đóng góp ý kiến hoàn
thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh
các tranh chấp kinh doanh, thương mại và những đề xuất để sớm triển khai có
hiệu quả và thực thi những quy định này trong thời gian tới.
- Ngoài ra, luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong
việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại, không nghiên cứu đến các
trường hợp tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết bởi Toà án nước ngoài.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ những quy định của BLTTDS năm 2015 và các văn
bản hướng dẫn thi hành (gọi chung là pháp luật tố tụng dân sự hiện hành) về thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án; đánh giá sự tác động của
những quy định này đối với hoạt động giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại
của Toà án; phân tích một số khó khăn, vướng mắc mà tòa án đã gặp phải trong thực
tiễn thi hành các quy định này từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm thi hành có
hiệu quả quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành. Để đạt được những mục đích
trên, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề cụ thể sau:

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại của toà án;
- Phân tích, nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của toà án và ý nghĩa
của những quy định đó đối với hoạt động của toà án;
4


- Đề cập tới những khó khăn, vướng mắc đã, đang và sẽ xảy ra trong thực tiễn
thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của toà án trên cơ sở đó đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong áp dụng các quy định về thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của toà án.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dưng dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của
triết học Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp và cải cách nền hành
chính quốc gia.
Việc nghiên cứu Luận văn còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết của
ngành tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ của các
cơ quan chức năng, dư luận xã hội... làm cho những kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp
luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại không những chỉ
dựa trên cơ sở khoa học mà còn có cơ sở thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu so sánh những quy định tương ứng trong pháp luật
của các quốc gia khác cũng là vấn đề được nghiên cứu trong tính hệ thống, từ đó cho
phép đưa ra những kiến nghị về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của tòa án một cách toàn diện và đầy đủ hơn.
Những phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống cũng được áp
dụng trong quá trình nghiên cứu Luận văn như phương pháp tổng hợp, tiếp cận hệ
thống, lịch sử, thống kê v.v...

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa khoa học
- Lần đầu tiên vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
của Toà án được nghiên cứu dưới góc độ những quy định mới của BLTTDS 2015.
- Trong quá trình phân tích, đối chiếu những quy định mới của BLTTDS 2015
với BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 về vấn đề thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án, luận văn đưa ra những nhận xét về
mức độ hợp lý của quy định đó, đánh giá xem những quy định này đã đáp ứng được

5


nhu cầu thực tiễn hay chưa để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện
pháp luật (nếu cần).
* Ý nghĩa thực tiễn
- Sau khi tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật về thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án, bên cạnh việc đưa ra kiến nghị nhằm
tiếp tục hoàn thiện pháp luật (nếu cần), luận văn còn đề xuất một số giải pháp để tháo
gỡ các bất cập đã và đang có khả năng gặp phải trong thực tiễn giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Toà án.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Chương 2. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả
quy định về thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại


6


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại và thẩm quyền của Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp kinh doanh, thương mại nói riêng
là một thuật ngữ, một khái niệm đã trở nên rất phổ biến trong đời sống xã hội. Thuật
ngữ này không chỉ xuất hiện trong văn bản pháp luật mà còn xuất hiện thường ngày
trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trong đời sống kinh tế…
Theo từ điển tiếng việt thì tranh chấp là sự giành nhau một cách giằng co cái
không rõ thuộc về bên nào. Tranh chấp cũng có nghĩa là đấu tranh, giằng co khi có ý
kiến bất đồng, thường là trong vấn đề về quyền lợi giữa hai bên khi tham gia một quan
hệ pháp luật bất kỳ.
Ở Việt Nam, trong khoa học pháp lý đã tồn tại một số khái niệm như: tranh
chấp kinh tế; tranh chấp thương mại; tranh chấp kinh doanh, thương mại… Nhìn
chung, ở một phương diện nào đó, các khái niệm trên có cùng nội hàm, tuy nhiên qua
từng thời kỳ, trước bối cảnh cụ thể mà các nhà làm luật lại sử dụng những thuật ngữ
khác nhau.
Theo BLTTDS 2015 thì tranh chấp kinh doanh, thương mại đã được quy định
theo hướng khái quát hóa:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản
7


trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.”
Từ những nội dung và nhận định nêu trên, chúng tôi xin đưa ra định nghĩa:
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh,
thương mại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa
vụ của mình”.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại có những đặc điểm cơ bản sau: do tranh
chấp kinh doanh, thương mại thực chất là một loại tranh chấp dân sự, nên bên cạnh
việc mang những nét đặc trưng của tranh chấp dân sự thì tranh chấp kinh doanh,
thương mại còn có những đặc điểm riêng biệt như sau:
Một là, tranh chấp kinh doanh, thương mại là những mâu thuân (bất đồng) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ phát sinh từ hoạt động kinh doanh,
thương mại. Đặc điểm này nhằm giúp phân biệt với tranh chấp dân sự thông thường
bởi lẽ hoạt động kinh doanh, thương mại gắn liền với mục đích lợi nhuận. Thông
thường các chủ thể tham gia quan hệ kinh doanh, thương mại đều nhằm mục đích
cuối cùng là lợi nhuận nên khi hợp tác với nhau, các bên đều muốn giành được nhiều
lợi ích về phía mình, do đó mâu thuẫn phát sinh là điều không tránh khỏi.
Hai là, về chủ thể của tranh chấp, tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu
phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, tổ chức kinh doanh) với nhau.

Ngoài ra, trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải
là thương nhân) cũng có thể là chủ thể tranh chấp thương mại như: tranh chấp về
giao dịch giữa thương nhân với một bên không nhằm mục đích sinh lời thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích sinh lời đó chọn
áp dụng luật thương mại hoặc tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa
các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty... Trong khi đó,
hiện nay chủ thể của tranh chấp dân sự chủ yếu là cá nhân và pháp nhân.

8


Ba là, các quan hệ kinh doanh, thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản
nên nội dung tranh chấp thường phản ánh những xung đột chủ yếu liên quan đến tài
sản, liên quan tới lợi ích kinh tế các bên.
Bốn là, do hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình liên tục với
nhiều công đoạn khác nhau có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vì vậy, các tranh chấp
kinh doanh, thương mại thường rất phức tạp và liên quan đến nhiều ngành nghề,
nhiều chủ thể thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến một thị trường, một quốc gia... mà
không chỉ đơn thuần là tranh chấp giữa các chủ thể đơn lẻ như trong tranh chấp dân
sự. Các tranh chấp kinh doanh, thương mại nếu không được giải quyết một cách triệt
để, kịp thời có thể gây ra những hậu quả mang tính phản ứng dây chuyền làm đình
trệ hoạt động kinh doanh, thương mại và gây tác động xấu đến lợi ích của các chủ thể
tham gia vào thương trường.
Tóm lại, tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát trong quá trình
sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh doanh khi thực hiện hoạt động kinh doanh,
thương mại đòi hỏi phải có những phương thức giải quyết tranh chấp một cách nhanh
chóng, hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể kinh doanh. Việc xác định nội
hàm của khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại có ý nghĩa quan trọng cả về
mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong việc xác định nguyên tắc, thẩm quyền, trình

tự và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
1.1.2. Khái niệm về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Về bản chất, tranh chấp kinh doanh, thương mại chính là sự xung đột về lợi
ích của các bên khi tham gia quan hệ kinh doanh, thương mại. Khi các tranh chấp
kinh doanh, thương mại xuất hiện có nghĩa là lợi ích kinh tế của một trong các bên đã
bị xâm phạm và sự mâu thuẫn về lợi ích này làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của chủ thể. Do vậy, việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại được đặt ra nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể, đảm bảo sự phát triển ổn định của các quan hệ kinh doanh, thương mại.
Có thể hiểu giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là việc các bên tranh
chấp thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các biện pháp nhằm khắc phục, loại
bỏ những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ kinh
doanh, thương mại, bảo vệ trật tự kinh tế - xã hội.
9


Khi mâu thuẫn xảy ra, mong muốn của hầu hết các bên chủ thể là muốn nhanh
chóng chấm dứt xung đột, nhưng vẫn phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Một vấn đề mà các bên chủ thể khi muốn giải quyết các tranh chấp quan tâm đó
là việc lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp với nhu cầu của họ.
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các tranh chấp kinh doanh, thương mại
nói chung thường được giải quyết bằng các phương thức chính: thông qua thương
lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Mỗi phương thức lại có sự khác nhau về nội dung,
hình thức, tính chất; cũng như có các ưu điểm, nhược điểm khác nhau. Nhưng tựu
chung lại, thì quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp vẫn phụ thuộc vào ý
chí của mỗi bên và đặc điểm của tranh chấp.
Điều 317 Luật Thương mại 2005 quy định các hình thức giải quyết tranh chấp
trong thương mại bao gồm: Thương lượng; Hoà giải; Giải quyết tại Trọng tài hoặc
Toà án. Một trong các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đang

được áp dụng phổ biến nhất đó là giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan tài phán
nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục
nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án, quyết định của Tòa án sẽ được đảm bảo thi hành
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án có thể phân biệt với
các phương thức giải quyết tranh chấp khác qua một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là Tòa án
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là hoạt động do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền thực hiện căn cứ vào các quy định của pháp luật, quan điểm,
đường lối của Đảng và thực tiễn để tìm ra phương thức phù hợp nhằm giải quyết bất
đồng, mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp. Trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại, mặc dù Nhà nước coi trọng và đề cao các phương thức thương lượng, hoà
giải nhằm giải quyết ổn thoả tranh chấp, duy trì sự ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo
sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Song không vì thế mà không cần đến sức mạnh của
quyền lực nhà nước bởi lẽ, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các
tranh chấp kinh doanh, thương mại. Ở nước ta, các chủ thể thường lựa chọn hình thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Toà án như một giải pháp cuối cùng
10


để bảo vệ có hiệu quả nhất các quyền và lợi ích của mình khi thất bại trong việc sử
dụng cơ chế thương lượng, hoà giải, bởi lẽ:
Một là, Toà án là một thiết chế của Nhà nước; hoạt động của Toà án là một hoạt
động rất đặc biệt và mang tính kỹ năng nghề nghiệp cao. Toà án nhân dân được tổ
chức theo một hệ thống độc lập nằm ngoài hệ thống cơ quan quản lý. Hơn nữa, Toà án
có một đội ngũ Thẩm phán có năng lực, trình độ và kỹ năng xét xử chuyên nghiệp. Cơ
chế vận hành của Toà án dựa trên nguyên tắc cơ bản “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Do đó, hoạt động xét xử của Tòa

án đảm bảo tính chính xác, công minh.
Hai là, Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước và xét xử nhân danh quyền lực
Nhà nước. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp, Tòa án trực tiếp thụ lý, giải
quyết, các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà
nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm thi hành bản án, quyết định của Tòa án mà không tự nguyện chấp
hành sẽ bị cưỡng chế thi hành án. Do đó, khi các vụ việc tranh chấp đã đưa ra Toà án
để giải quyết thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua
kiện có tài sản để thi hành. Vì vậy, những phán quyết có hiệu lực pháp luật của Toà án
thể hiện tính nghiêm minh, tuân thủ pháp luật.
Ba là, nguyên tắc xét xử công khai là nguyên tắc đặc thù trong hoạt động của
Toà án, xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ công lý, lẽ công bằng
được nhà nước ghi nhận bằng pháp luật, xã hội thừa nhận bằng sự tự nguyện, tuân
thủ vô điều kiện. Ngoài ra, nguyên tắc xét xử công khai của toà án còn có tác dụng
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của mọi người, đồng thời răn đe, cảnh báo
những hành vi vi phạm pháp luật. Hơn nữa, nguyên tắc này còn tạo điều kiện để
người dân và công luận xã hội giám sát hoạt động xét xử của Toà án. Vì vậy, phán
quyết của Toà án có tính thuyết phục cao đối với các bên đương sự.
Bốn là, việc giải quyết tranh chấp thông qua quyết định của toà án có thể qua
nhiều cấp xét xử.
Hiện nay, hoạt động xét xử của Toà án thông qua hai cấp xét xử: sơ thẩm và
phúc thẩm. Trong một số trường hợp cụ thể, các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật còn có thể xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc

11


biệt. Nguyên tắc nhiều cấp xét xử đảm bảo cho quyết định của Toà án được chính
xác, công khai, khách quan và đúng pháp luật.
Năm là, Toà án giải quyết các tranh chấp theo nguyên tắc xét xử tập thể và

quyết định theo đa số.
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án không chỉ góp
phần làm ổn định các quan hệ kinh tế thị trường mà còn tác động tích cực tới các
quan hệ đó, đảm bảo cho các quan hệ kinh tế này tồn tại và phát triển phù hợp với
định hướng phát triển chung của đất nước. Ngoài ra, trên thực tế, thông qua việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án, Nhà nước sẽ kịp thời phát hiện,
ghi nhận những khiếm khuyết, vướng mắc của các quy định pháp luật từ đó tiếp tục
sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy định pháp luật mới nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật của nước ta, tạo dựng một môi trường pháp lý ổn định cho các chủ thể
tham gia các quan hệ kinh tế.
Sáu là, hoạt động xét xử của Toà án được tiến hành theo một quá trình tố tụng
chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Do đó, dường như nó loại trừ ở mức thấp nhất
những sai sót trong việc đưa ra phán quyết của Tòa án, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất ở mức hiệu quả nhất và có giá trị pháp lý cao nhất...
Thứ hai, căn cứ Tòa án áp dụng để giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thông qua Toà án chịu sự
điều chỉnh của nhiều đạo luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự
Luật Thương mại, Luật Kinh doanh tín dụng, Luật kinh doanh bất động sản,... Điều
này có nghĩa là trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, Toà án
phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự của Bộ luật Tố
tụng dân sự (các quy định về luật hình thức giải quyết vụ việc tranh chấp kinh doanh,
thương mại); đồng thời, Thẩm phán khi thụ lý, giải quyết vụ án phải căn cứ vào các
quy định của Bộ luật dân sự, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh tín dụng, Luật kinh
doanh bất động sản... để xác định chứng cứ cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể (các quy định về luật nội dung giải quyết vụ việc tranh chấp kinh doanh,
thương mại).
Thứ ba, mục đích của giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
12



Mục đích của giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là loại bỏ các bất
đồng, mâu thuẫn, xung đột giữa các chủ thể thông qua việc thương lượng, hoà giải,
đàm phán, và trình tự tố tụng nghiêm ngặt tại tòa án... nhằm khôi phục lại tính ổn định
của các quan hệ đã được xác lập hoặc tăng cường, củng cố và duy trì sự tồn tại ổn định
của các mối quan hệ xã hội, góp phần vào việc bảo vệ sự bền vững của trật tự xã hội
hoặc của các thiết chế xã hội.
1.1.3. Khái niệm về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, “thẩm quyền” được giải thích trong từ điển tiếng việt
đó là “quyền được xem xét và quyền được quyết định”.
Xét dưới góc độ pháp lý, theo từ điển Luật học thì thẩm quyền là “tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định”.
Trên thực tế, khái niệm thẩm quyền gắn liền với chức năng nhiệm vụ của các cơ
quan trong bộ máy Nhà nước. Trong tiếng Pháp, thẩm quyền “Compétence” được hiểu
là quyền của cơ quan nhà nước, hành chính hay tư pháp, quan chức hành chính hay tư
pháp được làm một số việc, được quyết định và ra một số văn bản về một số vấn đề
trong phạm vi được pháp luật cho phép. Mỗi cơ quan nhà nước có những chức năng
nhất định, chức năng ấy chi phối việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó. Sự
phân biệt giữa cơ quan này với cơ quan khác theo chức năng chính là sự phân biệt khác
nhau về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước.
Từ những nghiên cứu trên, thẩm quyền có thể được hiểu là “khả năng xem
xét, giải quyết một vấn đề của tổ chức, cá nhân trong phạm vi pháp luật quy định của
pháp luật”.
Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trong đó, Tòa án là cơ quan
thực hiện quyền tư pháp. Căn cứ vào Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 thì
tòa án có chức năng chính là xét xử. Như vậy, Tòa án thực hiện thẩm quyền của

mình trong xét xử các vụ án vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp
luật; để bảo vệ pháp luật, đảm bảo sự công bằng xã hội. Thuật ngữ “thẩm quyền” lúc
13


này không những chỉ ra phạm vi, ranh giới hoạt động của Tòa án mà còn giúp phân
biệt chức năng của Tòa án với các cơ quan nhà nước khác.
Đề cập tới thẩm quyền của Tòa án, tác giả Nguyễn Đức Mai cho rằng “Thẩm
quyền của tòa án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với
nhau đó là thẩm quyền hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình
thức thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét của Tòa án (thẩm quyền xét
xử và phạm vi xét xử) còn thẩm quyền về nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết,
quyết định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét”.
Trong tiếng Anh, người ta sử dụng thuật ngữ “Jurisdistion” để chỉ quyền lực
của một tòa án để xét xử những vụ án và vấn đề được yêu cầu.
Qua những phân tích nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về thẩm quyền của
Tòa án như sau: “Thẩm quyền của Tòa án là quyền hạn của Tòa án trong việc xem
xét, giải quyết các vụ việc mà pháp luật quy định và quyền hạn ra quyết định khi tiến
hành xem xét, giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng”.
Đặt khái niệm thẩm quyền của Tòa án trong mối liên hệ với khái niệm “tranh
chấp kinh doanh, thương mại” và khái niệm “giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại” được nêu ra ở trên, chúng tôi cho rằng “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được hiểu là quyền hạn của Tòa án trong
việc xem xét, giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại và quyền hạn ra bản
án, quyết định khi tiến hành giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo
thủ tục tố tụng dân sự”.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của
Tòa án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự, việc xác định đúng thẩm
quyền sẽ giúp các Tòa án chủ động trong xét xử, khiến việc xét xử diễn ra một cách kịp

thời, nhanh chóng từ đó giảm thiểu tối đa thời gian cũng như chi phí của những người
tham gia tố tụng. Điều này là một trong những yếu tố then chốt, ảnh hướng lớn đến lợi
ích của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại.
1.2. Cách thức phân định thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án được các
nhà làm luật nghiên cứu và phân định theo nhiều góc độ: thẩm quyền theo vụ việc,
14


thẩm quyền theo cấp xét xử, thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo sự lựa chọn
của nguyên đơn.
1.2.1. Phân định thẩm quyền theo vụ việc
Phân định thẩm quyền theo vụ việc của Toà án là xác định những loại những
tranh chấp nào thuộc giải quyết của TAND. Bằng cách này, có thể phân định thẩm
quyền của Toà án với th2耀 quyền của các cơ quan, tổ chức khác trong việc giải quyết
các vấn đề nảy sinh từ quan hệ pháp luật nội dung.
Ngoài ra, việc phân định thẩm quyền của Toà theo vụ việc còn xác định rõ thẩm
quyền của từng Toà án cụ thể, bởi lẽ trong cơ cấu tổ chức của hệ thống Toà án nước ta
hiện nay, ở TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện còn tổ chức các toà
chuyên trách: Toà Dân sự, Toà Kinh tế, Toà Lao động… Việc phân định như vậy sẽ
tránh trường hợp các Toà án đùn đẩy trách nhiệm, hay giải quyết các vụ việc không
thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách.
1.2.2. Phân định thẩm quyền theo cấp xét xử
Thẩm quyền của Toà án theo cấp xét xử là xác định thẩm quyền của Toà án các
cấp. Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, chỉ có TAND cấp huyện và TAND cấp
tỉnh có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ việc dân sự. Do vậy, việc phân định thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các tranh chấp kinh doanh thương mại giữa Toà án các cấp được
xem xét giữa Toà án cấp huyện và Toà án cấp tỉnh.
Xuất phát từ thực tiễn xét xử cho thấy, đối với các tranh chấp kinh doanh

thương mại, tuỳ theo quy mô hay tính chất phức tạp hoặc theo từng lĩnh vực đặc thù
mà các nhà làm luật quyết định trao thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án cấp huyện
hay Toà án cấp tỉnh. Sự phân định này đảm bảo khả năng về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ của Toà án, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật và các điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng, chính
xác, hiệu quả và đúng pháp luật.
1.2.3. Phân định thẩm quyền theo lãnh thổ
Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ là thẩm quyền của Toà án theo phạm vi
lãnh thổ. Việc phân định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ là sự phân định thẩm
quyền sơ thẩm giữa các Toà án cùng cấp với nhau. Việc phân định thẩm quyền của
Toà án theo lãnh thổ còn phải bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Trong một số
15


trường hợp, pháp luật quy định cho nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong các Toà
án có điều kiện giải quyết vụ việc mà không phụ thuộc vào ý chí của bị đơn.
Ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ nhằm xác định Toà án có
điều kiện tốt nhất giải quyết vụ tranh chấp, bảo đảm việc giải quyết tranh chấp được
nhanh chóng, đúng đắn, tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng, tránh sự
chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các Toà án cùng cấp cũng như tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án.
Việc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ nhằm xác định thẩm quyền giữa các
tòa án một cách hợp lý, khoa học tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện
nhiệm vụ giữa các tòa án với nhau. Không chỉ có vậy, việc xác định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự của tòa án theo lãnh thổ một cách hợp lý, khoa học còn tạo thuận lợi cho
các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước tòa án, giảm bớt
những phiền phức cho đương sự. Các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
tòa án theo lãnh thổ chính là cơ sở pháp lí để nguyên đơn chủ động trong việc xác
định được tòa án mà mình có thể giử đơn kiện hoặc lựa chọn tòa án thuận lợi nhất
cho mình trong việc tham gia tố tụng, từ đó giúp đương sự nhanh chóng thực hiện

được quyền khởi kiện bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình.
1.2.4. Phân định thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Trong thực tế, việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của tòa án dễ làm phát sinh trường hợp một vụ việc có nhiều tòa án cùng
có thẩm quyền giải quyết. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên đơn trong
việc tham gia tố tụng, pháp luật cho phép họ có quyền lựa chọn một trong các Toà án
có đủ thẩm quyền để giải quyết vụ án mà không phụ thuộc vào ý chí của bị đơn và
những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Việc quy định về thẩm quyền
của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là sự cụ thể hóa quyền tự quyết định và
định đoạt của đương sự.
1.3. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật về thẩm quyền của Toà án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đã trải qua các quá trình phát triển khác
nhau gắn liền với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Cụ thể:
16


1.3.1. Giai đoạn năm 1994 - 2004
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường đã chứng
kiến sự phát triển đa dạng của các loại hình kinh tế và sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế thuộc các hình thức sở hữu khác nhau trong các hoạt động kinh doanh.
Điều này đã dẫn đến sự thay đổi về hình thức nội dung của các tranh chấp trong kinh
doanh. Sự thay đổi đó đòi hỏi phải đổi mới phương thức giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh, thương mại. Do đó vào ngày 28/12/1993, Quốc Hội khóa 10 đã thông
qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1992. Theo đó
Tòa kinh tế với tư cách là một tòa chuyên trách trong hệ thống tòa án nhân dân được
thành lập có chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế. Cũng trong thời gian này, Ủy
ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
có hiệu lực từ ngày 01/7/1994. Tại thời điểm đó Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ

án kinh tế quy định về thủ tục khởi kiện, điều tra, hòa giải, xét xử các vụ án về kinh
tế. Trong chương II về thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thì Toà án có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp kinh tế thuộc các nhóm sau đây: (i) Các tranh chấp về hợp
đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký
kinh doanh; (ii) Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể
công ty; (iii) Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; (iv) Các
tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Các tranh chấp có yếu tố nước ngoài hoặc có tranh chấp có giá trị từ 50 triệu
đồng trở lên thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh, các tranh chấp kinh tế có giá trị
dưới 50 triệu và không có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Toà án cấp
Huyện. Nhằm đảm bảo quyền lợi cho đương sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế cũng quy định về Thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên
đơn v…v.
1.3.2. Giai đoạn 2005 - 2011
Giai đoạn này được xác định từ khi Quốc hội đã ban hành BLTTDS 2004 có
hiệu lực vào ngày 01/01/2005 trên cơ sở pháp điển hóa quy định của Pháp lệnh giải
quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và một số văn bản pháp luật khác. Đây là lần đầu
tiên, các nhà làm luật đã sử dụng thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh, thương mại”.
Điều 29 BLTTDS 2004 đã liệt kê các tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa án:
17


×