Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Pháp luật về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.43 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN HÀNG HOÁ
QUA PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN HÌNH

NGUYỄN THỊ HẰNG

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN HÀNG HOÁ
QUA PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN HÌNH

NGUYỄN THỊ HẰNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ ĐÌNH VINH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong các công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của mình
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hằng


LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình” là nội
dung tôi chọn để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp sau hai năm theo học
chương trình cao học chuyên ngành Luật kinh tế tại Viện đại học mở Hà Nội.
Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này, lời đầu tiên
tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến thầy Lê Đình Vinh, thầy đã trực tiếp chỉ bảo
và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thiện luận văn này.
Ngoài ra tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Sau Đại học - Viện
Đại học Mở Hà Nội đã đóng góp những ý kiến quý báu cho luận văn.
Nhân dịp này, tôi cũng xin cảm ơn Khoa Sau Đại học - Viện Đại học Mở Hà
Nội, lãnh đạo và các anh chị đang công tác tại Khoa đã tạo điều kiện và thời gian
cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã luôn bên tôi, động
viên tôi hoàn thành khóa học và bài luận văn này.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hằng



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN HÌNH ........................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình ................................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm của Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình .... 7
1.1.2. Đặc điểm của Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ..... 7
1.2. Khái niệm đặc điểm nội dung của pháp luật Mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình ................................................................................ 9
1.2.1. Khái niệm của pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình ................................................................................................ 9
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình .......................................................................................................... 11
1.3. Vai trò của pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
..................................................................................................................... 13
1.4. Nghiên cứu pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
của một số quốc gia trên thế giới ................................................................ 14
1.4.1. Pháp luật quốc tế về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình .......................................................................................................... 14
1.4.2. Pháp luật về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở một
số quốc gia............................................................................................... 17
1.5. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình ....................................................................... 20
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA QUA PHƢƠNG TIỆN
TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................... 26
2.1. Pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở Việt



Nam hiện nay .............................................................................................. 26
2.1.1. Chủ thể tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình .............................................................................................. 26
2.1.2. Quy định về các hình thức hoạt động mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình .......................................................................... 29
2.1.3. Các nguyên tắc hoạt động của mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình .............................................................................................. 29
2.1.4. Các hành vi bị cấm trong mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình .............................................................................................. 31
2.1.5. Vấn đề an ninh, an toàn trong mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình .............................................................................................. 32
2.1.6. Vấn đề liên quan đến việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình ................................................................... 32
2.1.7. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình ....................................................................................... 34
2.1.8. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình .......................................................................... 35
2.1.9. Cơ chế giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm trong mua bán hàng
hóa qua phương tiện truyền hình ............................................................ 35
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình ở Việt Nam hiện nay ................................................................ 36
2.2.1. Tình hình chung ............................................................................ 36
2.2.2.Thực trạng cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật trong vấn đề mua
bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ............................................. 39
2.2.2. Thực trạng nguyên tắc trong mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình .............................................................................................. 44
2.2.3. Thực trạng giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình .............................................................................................. 51



2.2.4. Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình ................................................................... 55
2.2.5. Thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong mua bán hàng
hóa qua phương tiện truyền hình ............................................................ 57
2.2.6. Ý thức tuân thủ, sử dụng pháp luật của các chủ thể tham gia quan
hệ mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ................................ 60
2.2.7. Thực trạng cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ............................................. 62
2.2.8. Thực trạng cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình .................................... 66
2.3. Nhận xét về hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
..................................................................................................................... 75
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
MUA BÁN HÀNG HÓA QUA PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN HÌNH ............... 82
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình ở Việt Nam hiện nay ................................................................ 82
3.1.1. Yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với Mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình .......................................................................... 82
3.1.2. Vai trò của hoàn thiện pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình ....................................................................................... 87
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình ở Việt Nam............................................................................... 89
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật để nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập
của doanh nghiệp Việt Nam thông qua mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình ....................................................................................... 89
3.2.2. Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của pháp luật mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình cũng như tính đặc thù của pháp luật mua
bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam ......................... 90



3.2.3. Hoàn thiện tính thống nhất, đồng bộ với pháp luật thương mại Việt
Nam và tương thích với các cam kết quốc tế .......................................... 93
3.2.4. Một số giải pháp về giải quyết tranh chấp trong mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình ................................................................... 94
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 101


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bước vào thế kỷ số, các hình thức bán hàng trực tiếp thông thường dần dần
dịch chuyển thị phần sang các kiểu bán hàng khác như bán hàng dạng Mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình (qua internet), bán hàng qua truyền hình (hay
còn gọi là TV Home Shopping), bán hàng theo mạng (hay còn gọi là bán hàng đa
cấp). Nhưng trên hết, tất cả đều phục vụ cho sự tiện dụng của người tiêu dùng, giảm
thiểu thời gian định hướng mua hàng, chọn hàng và mua hàng.
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình là sự phát triển của thương
mại truyền thống, được cấu thành bởi nhiều thành tố, trong đó có sự áp dụng các
thành quả của khoa học - kỹ thuật phục vụ đời sống con người cũng như việc thỏa
mãn các nhu cầu khác.
Thực tế cũng cho thấy, các quan hệ Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình đã và đang hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới
và cũng đang phát triển ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, để điều chỉnh các quan hệ
xã hội mới vận hành trên nền tảng của công nghệ điện tử và công nghệ viễn thông,
đòi hỏi phải có cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp, tương thích nhằm đảm bảo để
các quan hệ về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình phát triển hiệu quả,
khả thi, có tính định hướng đúng đắn, lành mạnh và bền vững.

Pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở nhiều quốc
gia tiên tiến đã và đang nắm giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan
hệ mua bán hàng hóa.
Có thể nói, sự phát triển của Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem
lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải thừa nhận
rằng, những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên mạng là hiện
thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần
phải hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ.
Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy việc mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình thì Nhà nước cần phải (i) Xây dựng chính
1


sách, tạo môi trường thuận lợi trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ điện tử; và (ii) Xây
dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ
sở pháp lý vững chắc cho việc mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình hoạt
động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải quyết
các vấn đề có liên quan và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng sẽ rất khó có
cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh doanh Mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình.
Với tốc độ phát triển mạnh mẽ của Thương mại điện tử nói chung và Mua
bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình nói riêng hiện nay, thì việc xây dựng và
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý được coi là yếu tố rất quan trọng. Hơn thế nữa, Mua
bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình là một lĩnh vực mới mẻ, cho nên tạo
được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ Mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình là một việc làm có tính cấp thiết, mà một trong những hạt
nhân là phải tạo ra được một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất
một cách chặt chẽ.

Vấn đề pháp luật về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình chưa
được điều chỉnh phổ biến dẫn đến quyền lợi của người tiêu dùng khi mua hàng hóa
qua truyền hình vẫn chưa thực sự được bảo đảm.
Kể từ đó, việc đặt vấn đề nghiên cứu toàn diện về pháp luật Mua bán hàng
hóa qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam hiện nay là có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các quan hệ Mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là lý do mà
tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình” để nghiên cứu và làm Luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình đều nghiên cứu về thực trạng pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình đặt trong mối quan hệ giữa Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình với các quy định hiện hành và đặt ra các yêu cầu chung về hoàn thiện hệ thống
pháp luật có liên quan.
Với đề tài “Quảng cáo trên truyền hình tại Việt Nam - từ lý luận đến thực
tiễn” (2012), tác giả Đào Văn Bình chỉ tập trung nhìn nhận và phân tích những hạn
2


chế của phim quảng cáo trên truyền hình hiện nay, từ đó tìm ra những giải pháp
nâng cao chất lượng phim quảng cáo. Nghiên cứu này chú trọng đến vai trò của
người sáng tạo ý tưởng và đưa ra những con đường dẫn đến ý tưởng như một giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng phim quảng cáo trên truyền hình. Dưới góc
nhìn của người làm phim điện ảnh, truyền hình, người viết có sự so sánh quy trình
làm phim truyện với phim quảng cáo để tìm ra đặc trưng riêng của thể loại phim
quảng cáo.
Trong hội thảo khoa học “Khuynh hướng phát triển của ngành công nghiệp
Quảng cáo – Truyền thông tại Việt Nam & thế giới” được tổ chức vào tháng 6 năm
2014, các kết quả nghiên cứu cũng đã được trình bày nhằm cung cấp cái nhìn tổng

quát bức tranh của ngành công nghiệp quảng cáo – truyền thông & sáng tạo những
năm qua và chỉ ra vài khuynh hướng phát triển mới trong ngành này.
Tác giả Đỗ Kim Dũng đã cung cấp các thông tin cho thấy tại Việt Nam,
cùng với sự suy giảm của quảng cáo trên báo in thì quảng cáo trên truyền hình và
gần đây là quảng cáo trên internet đã phát triển rất mạnh. Trong năm 2014, quảng
cáo internet đã vươn lên vị trí đứng thứ hai sau truyền hình và sẽ tiếp tục biến đổi.
Nghiên cứu cũng đã nêu rõ những mặt hạn chế trong cách thức quảng cáo của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Những đặc điểm của các nghiên cứu trước đây về mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình tại Việt Nam là: (1) Nhiều doanh nghiệp khi tiến hành bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình chưa phân tích sâu về những đặc điểm cụ thể
liên quan đến quảng cáo trên truyền hình tại Việt Nam; hoặc (2) có thể phân tích sâu
nhưng chỉ trên một vài khía cạnh nhất định như về cách làm phim quảng cáo hoặc
khai thác về doanh số quảng cáo. Chính vì lẽ đó, một nghiên cứu trên các yếu tố
khác nhau về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình như về mục tiêu
quảng cáo, thông điệp quảng cáo, chi phí quảng cáo, chủ thể quảng cáo, các nhà
cung cấp dịch vụ quảng cáo và các nhóm sản phẩm được quảng cáo được xem là hết
sức cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, đặc điểm, nội dung và thực tiễn
thực hiện pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình nhằm đề xuất
hoàn thiện pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình và đáp ứng
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện
3


truyền hình ở Việt Nam
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích của đề tài, thì nhiệm vụ nghiên
cứu đặt ra là:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về Mua bán hàng

hóa qua phương tiện truyền hình, làm rõ các đặc trưng cơ bản, cơ chế thực hiện của
pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình.
- Nghiên cứu đánh giá về thực trạng pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật
về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, chỉ ra các hạn chế, bất cập và
nguyên nhân là cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về Mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam.
- Đưa ra các kiến nghị về định hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp
luật cũng như nâng cao hiệu quả cơ chế thực hiện pháp luật về Mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về mua Mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình ở Việt Nam và thực trạng thực hiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý
luận, đặc điểm và nội dung cơ bản về pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình ở Việt Nam, không dàn trải theo nền tảng của pháp luật thương mại
truyền thống.
Nội dung nghiên cứu liên quan đến một số nội dung cơ bản của pháp luật
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật
và xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp. Luận văn chú trọng đến giải quyết tranh
chấp giữa các chủ thể giao dịch Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình mà
không đi sâu vào các biện pháp giải quyết khác.
Việc nghiên cứu pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới chỉ mang tính
chất tham khảo, so sánh nhằm đánh giá những tiếp thupháp luật quốc tế có phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam hay không.
Về mặt thời gian, với đặc thù của hoạt động Mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình ở Việt Nam, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật Mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình từ thời điểm Luật Thương mại 2005, Luật
Giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin năm 2006 cùng hệ thống
các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này được ban hành cho đến nay.
4



5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp mang
tính truyền thống như phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài
ra, trên cơ sở tìm ra quy luật phát triển của Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình và sự phù hợp giữa phát triển Mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình với chính sách, pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình. Luận văn nghiên cứu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống,
luật học so sánh và dự báo trên cơ sở các tài liệu thu thập được từ các công trình
khoa học của các nhà khoa học trong và ngoài nước để trả lời các câu hỏi nghiên
cứu trong phạm vi đề tài một cách thấu đáo.
Trong từng nội dung nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng một cách linh hoạt, cụ thể:
- Chương 1: Phương pháp tổng hợp, thống kê, thu thập, phân tích, nhằm làm
rõ khái niệm, đặc điểm của Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình;
phương pháp lịch sử, thống kê, quy nạp, phân tích, diễn giảng, chứng minh để làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản, đặc điểm cũng như cơ chế bảo đảm thực hiện
của pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam.
- Chương 2: Phương pháp phân tích, so sánh, diễn giảng, quy nạp lịch sử,
khảo sát thực tiễn v.v... nhằm khái quát và đánh giá thực trạng pháp luật cũng
như cơ chế thực thi pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
ở Việt Nam.
- Chương 3: Phương pháp phân tích, tổng hợp, dự báo, khái quát hoá để xác
định các yêu cầu cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, luận văn là công trình khoa học được nghiên cứu khá chuyên
sâu về các vấn đề pháp lý nhằm đảm bảo tính an toàn, hợp pháp cho các quan hệ
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, từ đó, góp phần làm rõ đặc trưng

của pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ là công trình
khoa học có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình. Đồng thời Luận văn có thể sử dụng
như nguồn tư liệu nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng
5


như nâng cao hiệu quả cơ chế thực thi pháp luật về Mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu làm 3 chương (có kết luận cho từng chương) với những nội dung cơ
bản như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật Mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về Mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình.

6


CHƢƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT MUA BÁN HÀNG HÓA QUA
PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm của mua bán hàng hóa qua phƣơng tiện truyền hình
1.1.1. Khái niệm mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình được định nghĩa là hành vi

của người tiêu dùng trong việc mua sắm thông qua các cửa hàng trên mạng hoặc
website sử dụng các giao dịch mua hàng trực tuyến (Haubl, G. and Trifts, V.
(2000)).
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình là quá trình mua sản phẩm
hay dịch vụ thông qua internet. Mua hàng qua mạng là một hình thức của mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình được dùng trong giao dịch B2B hoặc B2C
(Haubl, G. and Trifts, V. (2000)).
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình là một giao dịch được thực
hiện bởi người tiêu dùng thông qua giao diện dựa trên máy tính bằng cách máy tính
của người tiêu dùng được kết nối và có thể tương tác với các cửa hàng số hóa của
nhà bán lẻ thông qua mạng máy tính (Haubl, G. and Trifts, V. (2000)).
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình thực chất là hoạt động mua
bán, giao dịch hàng hóa thông qua các phương pháp điện tử, thông qua việc trao đổi
thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung
không phải in ra giấy khi giao dịch. Việc trao đổi thông tin qua phương tiện truyền
hình bao gồm sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán hay giao sản phẩm/dịch vụ bằng
phương tiện điện tử.
1.1.2. Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
Mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình thực chất là mua bán hàng
hóa thông qua internet. Trong giai đoạn hiện nay mua bán hàng hóa qua internet là
phương tiện chủ yếu của giao dịch điện tử. Chính vì vậy, đặc điểm của mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình mang những đặc điểm của mua bán hàng hóa
thông qua mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình. Cụ thể, mua bán hàng
hóa qua phương tiện truyền hình có đặc điểm như sau:
Thứ nhất, các bên trong mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải có quan hệ quen biết từ
trước. Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ trực tiếp để tiến hành
7



đàm phán, thỏa thuận và ký kết các hợp đồng. Từ khi xuất hiện mạng máy tính toàn
cầu Internet thì việc trao đổi thông tin trong các hoạt động thương mại đa dạng đã
mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lượng người tham gia ngày
càng gia tăng. Những người tham gia là cá nhân hoặc doanh nghiệp, có thể đã biết
hoặc hoàn toàn chưa biết nhau bao giờ.
Thứ hai, mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình được thực hiện
trong một thị trường không có biên giới hay nói cách khác, mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình được thực hiện trên một thị trường thống nhất trên toàn
quốc. Trong nền kinh tế số, thông tin được số hóa thành các byte, lưu trữ trong máy
tính và truyền qua mạng với tốc độ cao. Điều này tạo ra những khả năng hoàn toàn
mới làm thay đổi thói quen tiêu dùng và mua bán của con người, mà trong đó người
bán và người mua hàng có thể giao dịch với đối tác ở bất cứ đâu trên thế giới.
Nếu như trong thương mại truyền thống, biên giới quốc gia có một ý nghĩa
vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thì trong
mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, khái niệm biên giới quốc gia không
còn ý nghĩa quá lớn.
Thứ ba, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch thương mại truyền
thông, trong giao dịch mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình xuất hiện
thêm một bên thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ qua mạng, các cơ quan chứng
thực và quản lý... Đây là những người tạo môi trường cho các giao dịch mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình được thực hiện. Nhà cung cấp dịch vụ mạng
và cơ quan chứng thực, quản lý có nhiệm vụ chuyển đi, lữu trữ các thông tin giữa
các bên tham gia giao dịch mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, đồng
thời họ cũng xác nhận tính xác thực của các thông tin trong giao dịch mua bán hàng
hóa qua phương tiện truyền hình.
Thứ tư, đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là
phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình thì mạng lưới thông tin chính là thị trường. Các trang Web nổi tiếng
như America Online, Google hay AltaVista v.v... đóng vai trò như các website gốc
đưa khách hàng truy cập vào nhiều trang web khác với vô số thông tin. Các trang

web này đã trở thành các “khu chợ" khổng lồ trên mạng Internet.
Thứ năm, các loại hình giao dịch trong mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình là rất phong phú, bao gồm: (i) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp
8


với doanh nghiệp (B2B - Business to Business) được xem như là một trong hai mô
hình phát triển mạnh nhất trong ngành mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình, mô hình B2B áp dụng trong việc giao tiếp, mua bán, sử dụng dịch vụ sản
phẩm giữa các doanh nghiệp với doanh nghiêp; (ii) Mô hình giao dịch giữa doanh
nghiệp với khách hàng (B2C - Business to Consumer) là mô hình phát triển mạnh
nhất, phổ thông nhất ở Việt Nam, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều Website, phương
tiện hoạt động theo mô hình này; (iii) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ
quan nhà nước (B2G - Business to Government) là mô hình Website thương mại
trong đó các doanh nghiệp có vai trò trong việc cung cấp thông tin, dịch vụ, sản
phẩm cho Nhà nước. Việc tiêu thụ các sản phẩm phục vụ cho công việc quản lý,
điều hành của Nhà nước cũng được xếp trong mô hình này; (iv) Mô hình giao dịch
trực tiếp giữa các cá nhân với nhau (C2C - Consumer to Consumer) là mô hình
trong đó các cá nhân là những người mua bán hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của cá
nhân khác mà không phải là tổ chức kinh doanh.
Thứ sáu, hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình có tính
rủi ro cao do lệ thuộc vào các yếu tố kỹ thuật. Hoạt động mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình được thực hiện qua các phương tiện điện tử có kết nối
mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác, do vậy, tiềm ẩn
nhiều rủi ro như: Thông tin có thể bị đánh cắp hoặc bị tiết lộ phục vụ mục đích
khác, an toàn hệ thống có thể bị ảnh hưởng do các nguyên nhân khách quan như
trục trặc kỹ thuật, hệ thống hoạt động không ổn định v.v...
Như vậy, có thể nói đây là đặc điểm quan trọng của mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình so với thương mại truyền thống.
1.2. Khái niệm đặc điểm nội dung của pháp luật mua bán hàng hóa qua

phƣơng tiện truyền hình
1.2.1. Khái niệm của pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
Do những đặc điểm của mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình rất
đa dạng nên pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này
cũng có sự tương ứng. Các vấn đề pháp lý trong mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình liên quan đến nhiều chế định pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp nhau trực tiếp để tiến hành
giao dịch hoặc là những người đã quen biết nhau từ trước. Còn trong mua bán hàng
9


hóa qua phương tiện truyền hình mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình,
các chủ thể không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ
trước. Các giao dịch thương mại truyền thống được phân định rõ ràng về ranh giới
quốc gia, trong khi đó mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình lại được thực
hiện trong môi trường hay thị trường phi biên giới. Tuy nhiên, mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình không thể thực hiện được nếu không có người thứ ba là
các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Nếu như trong thương mại truyền thống mạng lưới
là phương tiện để trao đổi thông tin thì trong mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình, mạng Internet chính là một thị trường, do vậy các vấn đề pháp lý nảy
sinh trong thị trường ảo là hoàn toàn khác.
Trên thực tế, mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình về cơ bản là
việc ứng dụng các phương tiện điện tử vào hoạt động kinh doanh, thương mại. Chủ
thể tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình bên cạnh
việc tuân thủ các quy định trực tiếp về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình, còn phải thực hiện các quy định pháp luật liên quan khác như đầu tư kinh
doanh, thương mại, dân sự và công nghệ thông tin v.v… Vì vậy, với tư cách là
nhằm đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý cho những hoạt động kinh doanh,
thương mại trên thị trường ảo là mạng Internet, pháp luật về mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình tập trung điều chỉnh những quan hệ phát sinh chủ yếu trong

lĩnh vực này mà hệ thống pháp luật kinh doanh, thương mại truyền thống chưa điều
chỉnh hoặc không thể điều chỉnh vì những đặc thù riêng của các quan hệ thương mại
trong môi trường điện tử.
Với cách lập luận ở trên, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật mua bán hàng
hóa qua phương tiện truyền hình như sau: “Pháp luật mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình là tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể
là các cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt động thương mại được thực hiện một
phần hay toàn bộ quy trình thương mại bằng các phương tiện điện tử có kết nối với
mạng internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở khác”.
Như vậy, với khái niệm như trên, các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình đều được pháp luật điều chỉnh
và đảm bảo được lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình.
10


1.2.2. Đặc điểm của pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
Từ đặc thù của mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, pháp luật về
mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình bao gồm những đặc trưng cơ bản
như sau:
Thứ nhất, quá trình hình thành các quy phạm pháp luật mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình được ra đời do sự xuất hiện của công nghệ thông tin
và mạng Internet trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam
Khi công nghệ thông tin, viễn thông, trong đó có mạng Internet được sử dụng
thì việc mua bán hàng hóa đã được nâng lên một tầm cao mới và ngày càng phát
triển nhanh chóng. Khi sản phẩm máy tính cá nhân phổ cập, hạ tầng viễn thông phát
triển, việc kết nối Internet trở thành nhu cầu tất yếu của mọi cá nhân, gia đình, tổ
chức, doanh nghiệp thì hoạt động thương mại truyền thống đã có bước ngoặt lớn,
thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Sự hình thành các quan hệ mua bán hàng

hóa qua phương tiện truyền hình luôn tiềm ẩn những rủi ro xuất phát từ những đặc
thù của phương thức thương mại mới cần sự điều chỉnh bằng pháp luật để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ này. Trước yêu cầu đó,
pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình được xây dựng kịp thời để
điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình.
Thứ hai, nguồn pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
của các quốc gia có sự tiếp thu từ pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình quốc tế và có sự vận dụng để điều chỉnh phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh phát triển ở từng quốc gia
Khi tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực hay toàn cầu hoặc các điều
ước quốc tế liên quan thì các quốc gia cũng phải xây dựng pháp luật của mình trong
lĩnh vực mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình đảm bảo các nguyên tắc
chung cơ bản theo luật chơi của các thiết chế đó. Trên thực tế, khi xây dựng pháp
luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, các quốc gia thường hoàn thiện
theo hướng tiệm cận với các tiêu chuẩn chung của quốc tế để đảm bảo các yếu tố,
điều kiện hội nhập của mình cũng như thực hiện các cam kết quốc tế khác mà mình
công nhận hoặc tham gia. Việc tiếp thu các quy định của luật quốc tế cũng dựa trên
đặc điểm của mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình là tính chất phi biên
giới của các hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình.
11


Thứ ba, đối tượng điều chỉnh của quan hệ pháp luật mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình là một bộ phận của quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ
pháp luật thương mại truyền thống.
Tuy nhiên, quan hệ pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
là những quan hệ đặc biệt, được thực hiện một phần hoặc toàn bộ thông qua phương
tiện điện tử như điện thoại, điện thoại thông minh, máy tính có kết nối mạng
internet, mạng nội bộ hoặc các mạng mở khác. Về bản chất thì mua bán hàng hóa
qua phương tiện truyền hình cũng như thương mại truyền thống, tuy nhiên một phần

hay toàn bộ các hành vi thương mại thực hiện bằng phương tiện điện tử.
Thứ tư, các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình được xây dựng trên cở sở khuyến cáo bởi Luật mẫu của
ULCITRAL.
Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình, năm 1996, Uỷ ban Luật Thương mại Quốc tế của Liên Hợp Quốc
(UNCITRAL) đã soạn thảo Luật mẫu về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình [42], hình thành những quy định mẫu về thừa nhận giá trị pháp lý của các
thông điệp dữ liệu. Luật mẫu có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho
các nước trong quá trình xây dựng pháp luật về mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình của mình. Tinh thần của Luật mẫu là bảo đảm những giao dịch mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình được thừa nhận giá trị pháp lý và nếu cần
thiết thì sẽ có những hành động thích hợp để tăng cường khả năng thi hành cho
những giao dịch bằng phương tiện điện tử. Nhiều quốc gia đã thể hiện các nguyên
tắc và nội dung của Luật mẫu UNCITRAL vào hệ thống pháp luật quốc gia của
mình.
Thứ năm, quan hệ pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình
có sự tham gia của người thứ ba – chủ thể cung cấp dịch vụ thông tin, kỹ thuật, dịch
vụ chứng thực nội dung số, thanh toán trung gian hay các đơn vị cung cấp dịch vụ
logicti.
Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình, việc thực hiện
các hành vi mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình còn có một thành tố
quan trọng là bên thứ ba bảo đảm sự vận hành liên tục của mạng Internet, máy chủ
lưu trữ dữ liệu, các đơn vị cung cấp các dịch vụ liên quan như đăng ký tên miền,
cho thuê đường truyền v.v... Đặc điểm này đặt ra yêu cầu điều chỉnh pháp luật phức
12


tạp hơn khi xây dựng các quy phạm pháp luật nội dung cũng như hình thức (quy
phạm pháp luật tố tụng) để xác định hiệu lực pháp luật, xác định thẩm quyền giải

quyết tranh chấp trong lĩnh vực mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình,
đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước liên quan
khi thực thi pháp luật đảm bảo các yêu cầu về quản lý nhà nước theo chức năng
nhiệm vụ của các chủ thể này.
Thứ sáu, nội dung của pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình quy định chặt chẽ về an ninh, an toàn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua
phương tiện truyền hình.
Do việc tiến hành một phần hay toàn bộ quy trình thương mại dựa trên mạng
internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở bằng thiết bị điện tử nên việc
đảm bảo an toàn hệ thống thông tin, viễn thông, bảo mật thông tin cá nhân là vấn đề
được quan tâm đặc biệt khi xây dựng pháp luật điều chỉnh các quan hệ mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình. Trong mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình, các thông tin được chuyển thành thông điệp dữ liệu hoặc thông tin
chuyển tải bằng kỹ thuật tương tự (Analog) nên tất cả đều tiềm ẩn các rủi ro như:
Sập hệ thống, trục trặc kỹ thuật, bị mất dữ liệu hoặc bị đánh cắp dữ liệu cho các
mục đích khác v.v... chính vì vậy để bảo vệ thông tin cá nhân, bảo đảm an toàn
thông tin, pháp luật mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình phải quy định rõ
các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cung cấp dịch vụ viễn thông, thông tin về
việc bảo đảm an ninh, an toàn trong mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình.
1.3. Vai trò của pháp luật Mua bán hàng hóa qua phƣơng tiện truyền hình
Thứ nhất, có thể truy cập không giới hạn về thời gian.
Thông qua internet, việc quản lý bán hàng có thể được diễn ra liên tục 24/7.
Khách hàng có thể truy cập vào trang web từ văn phòng hay nhà riêng của họ hoặc
từ bất cứ nơi nào có internet, vào bất cứ thời gian nào thích hợp và thuận tiện nhất,
và quan trọng hơn cả là cho phép khách hàng mua sản phẩm thậm chí cả ngoài giờ
bán hàng.
Thứ hai, quản lý dễ dàng đội ngũ bán hàng rải rác ở các vùng miền khác nhau.
Việc quản lý nhân viên bán hàng ở các địa điểm khác nhau là điều không hề
dễ dàng. Ngày nay, bằng cách sử dụng công nghệ hiện đại, việc quản lý bán hàng có
thể tăng năng suất bán hàng. Thông qua hệ thống báo cáo cơ sở dữ liệu, chúng ta có

thể xem được tiến độ công việc của một đội bán hàng ở bất kì đâu trên thế giới.
13


Thứ ba, thông tin về các sản phẩm mới tức thì và liên tục cập nhật tình trạng
các sản phẩm hiện tại.
Một trong những băn khoăn lớn nhất của các công ty là thời gian chậm trễ
giữa việc hoàn thành một sản phẩm, dịch vụ mới và cung cấp cho đội ngũ nhân viên
bán hàng của công ty những thông tin cần thiết về sản phẩm để họ có thể chủ động
trong việc bán hàng. Với những công nghệ hiện đại, bạn có thể dễ dàng loại bỏ
được những trăn trở đó.
Thứ tư, quản lý khách hàng hiệu quả
Khách hàng là yếu tố quyết định tới doanh số bán hàng cũng như sự sống còn
của doanh nghiệp. Việc quản lý khách hàng sẽ trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn rất
nhiều khi có sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ. Ngoài việc quản lý danh sách và
thông tin khách hàng, nó còn giúp xác định các khách hàng tiềm năng và tự động
tiến hành dịch vụ điện tử về chăm sóc khách hàng một cách hiệu quả.
Thứ năm, thống kê các số liệu của cửa hàng một cách chính xác và nhanh
chóng.
Sự hỗ trợ của công nghệ dường như khiến mọi việc trở nên dễ dàng hơn rất
nhiều. Thay vì mất thời gian và công sức vào việc ghi chép sổ sách, giấy tờ và làm
các thao tác tính toán trên máy tính đơn giản thì chỉ việc sử dụng một phần mềm
quản lý hiệu quả doanh số bán hàng, doanh thu, chi phí,…
1.4. Nghiên cứu pháp luật mua bán hàng hóa qua phƣơng tiện truyền hình của
một số quốc gia trên thế giới
1.4.1. Pháp luật quốc tế về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình

a) Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement - TPP)
Với mục tiêu thiết lập một khu vực tự do mậu dịch và thắt chặt hơn mối quan

hệ kinh tế giữa các quốc gia tham gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia
thành viên, Hiệp đinh Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement - TPP) đã được các thành viên tham gia Hiệp
định ký kết vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, Niu Di-lân gồm 12 quốc gia thành
viên.Hiệp định TPP gồm 30 chương, đề cập đến nhiều lĩnh vực trong đó có mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình. Trong Hiệp định, các vấn đề pháp lý về mua
bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình được quy định tại chương 14 với 18 điều
(T14.1- 14.18), nội dung của phần quy định về vấn đề pháp lý đối với các hoạt động
14


mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình gồm:
- Ghi nhận và tôn trọng quyền tự do, tự nguyện lựa chọn phương tiện điện tử
để thực hiện các hành vi thương mại trên cơ sở được truy cập, kết nối với mạng
Internet, mạng viễn thông, các mạng mở khác.
- Thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử cũng như
các quy định về chứng thực chữ ký điện tử, quy định các điều kiện để đảm bảo giá
trị của việc chứng thực chữ ký điện tử
- Không phân biệt đối xử đối với sản phẩm số. Vấn đề thương mại phi giấy tờ.
- Bảo vệ người tiêu dùng trong mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình (Khách hàng trên mạng) và quy định về tin nhắn thương mại không mong
muốn (Tin nhắn rác).
Điểm nhấn của Hiệp định TPP về pháp luật mua bán hàng hóa qua phương
tiện truyền hình đó là: “Mỗi bên phải duy trì khung pháp lý kiểm soát các giao dịch
điện tử sao cho phù hợp với các nguyên tắc của Luật Mẫu về thương mại điện tử
năm 1996 của UNCITRAL ho c Công ước Liên hiệp quốc về sử dụng truyền thông
điện tử trong hợp đồng quốc tế ký kết tại New York ngày 23/11/2005” và: “Mỗi bên
phải phấn đấu tránh đ t ra những trách nhiệm pháp lý không c n thiết đối với các
giao dịch điện tử và tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân quan tâm tham gia vào
việc xây dựng khung pháp lý của mình đối với các hoạt động giao dịch điện tử”

Và một vấn đề quan trọng khác là giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình đó là hợp tác và giải quyết tranh chấp
cũng được quy định trong chương 14 của Hiệp định này.

b)

Công ước Liên hợp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp

đồng quốc tế
Với mục đích áp dụng một cách thống nhất và hài hòa trong các giao dịch
mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình của các quốc gia thành viên, Công
ước Liên hợp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế (Công
ước mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình) được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 23/11/2005 tại New York, Hoa Kỳ, Công ước này mới có hiệu
lực kể từngày 1/3/2013 khi có 3 nước phê chuẩn là Dominican, Honduras và
Singapore. Hiện nay Công ước này đã được 18 quốc gia tham gia ký kết và một
quốc gia gia nhập.Công ước 2005 về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền
hình bao gồm 4 chương và 25 điều quy định về việc sử dụng thông tin điện tử
15


trong hợp đồng quốc tế, công nhận giá trị pháp lý cho hợp đồng điện tử, các yêu
cầu về hình thức, thời gian và địa điểm liên quan đến chứng t điện tử, lời đề
nghị giao kết hợp đồng hay sử dụng hệ thống thông tin tự động hay tình huống
lỗi nhập thông tin.
Hiện nay Việt Nam chưa ký kết hay gia nhập Công ước Liên hiệp quốc về sử
dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế ngày 23/11/2005 nhằm ràng buộc
các trách nhiệm pháp lý trong hệ thống pháp luật củamình trong lĩnh vực mua bán
hàng hóa qua phương tiện truyền hình, tuy nhiên việc gia nhập sẽ giúp Việt Nam
tiếp cận các chuẩn mực pháp lý quốc tế cũng như hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế

thế giới.

c)

Luật Mẫu về thương mại điện tử

Để hạn chế các xung đột khi các cá nhân tổ chức ở các quốc gia khác nhau
thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật
thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã ban hành Luật Mẫu về thương mại điện tử
ngày 12/6/1996 (Sửa đổi năm 1998) với hai phần gồm 17 điều. Luật mẫu được soạn
thảo dựa trên các nguyên tắc cơ bản như:
- Tương đương thuộc tính, hay công nhận giá trị pháp lý như văn bản.

- Tự do thoả thuận hợp đồng.
- Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức truyền thông điện tử.
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Xác định thời điểm, nơi gửi và nhận thông điệp dữ liệu.
- Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ưu việt của những quy định pháp lý về
hình thức hợp đồng: những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị pháp lý và khả
năng được thi hành phải được tôn trọng.
Việc xây dựng, ban hành Luật Mẫu về thương mại điên tử được nhiều Quốc
gia thành viên tiếp thu những nguyên tắc, nội dung cơ bản để xây dựng pháp luật về
mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình cho riêng mình.
Luật Mẫu về chữ ký điện tử
Để bảo đảm an toàn cho các giao dịch điện tử, việc xây dựng Luật Mẫu về
chữ ký điện tử đã được Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL) ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2001 nhằm mục đích khuyến nghị các
quốc gia thành viên xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến sử
dụng chữ ký điện tử một cách thống nhất hoặc ít có khác biệt.


d)

16


Luật Mẫu về chữ ký điện tử với 12 điều, với các nguyên tắc cơ bản như:
Nguyên tắc tương đương chức năng, nguyên tắc không phân biệt và trung lập về
công nghệ. Ngoài các nguyên tắc, Luật Mẫu về chữ ký điện tử còn quy định một số
nội dung cơ bản như sau:

- Công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử.
- Những điều kiện để chữ ký điện tử đảm bảo độ an toàn và tin cậy v.v...
Việc xây dựng Luật Mẫu về chữ ký điện tử đã đưa ra các quy định về tiêu
chuẩn kỹ thuật và các điều kiện đảm bảo giá trị hiệu lực của chữ ký điện tử. Hiện
nay, nhiều quốc gia thành viên đã tiếp thu những nguyên tắc và nội dung cơ bản của
Luật Mẫu về chữ ký điện tử trong pháp luật của mình.
1.4.2. Pháp luật về mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở một số
quốc gia

a. Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước đi đầu trong lĩnh vực mua bán hàng hóa qua phương tiện
truyền hình, tháng 7 năm 1999, Hiệp hội các thanh tra viên về pháp luật các tiểu
bang Hoa Kỳ đã thông qua Luật mẫu về các giao dịch điện tử và gửi cho các cơ
quan lập pháp ở từng bang để thông qua và ban hành dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản
là: (i) Các bên được tự do xác lập quan hệ hợp đồng với nhau khi thấy phù hợp; (ii)
Các quy định phải có tính chất trung lập về mặt công nghệ và phải có tính mở cho
tương lai, có nghĩa là không được quy định về một loại công nghệ cụ thể nào đó và
không được hạn chế việc sử dụng hay phát triển của các công nghệ tương lai; (iii)
Các quy định hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới trong trường
hợp cần thiết để hỗ trợ cho việc sử dụng công nghệ điện tử;

Các quy định phải công bằng cho cả các doanh nghiệp đã áp dụng rộng rãi
các công nghệ mới và các doanh nghiệp còn chưa áp dụng. hằm tạo lập một khung
pháp lý thống nhất cho giao dịch mua bán hàng hóa qua phương tiện truyền hình ở
Hoa Kỳ. Ngày 30/6/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký Luật Thương mại quốc
gia và quốc tế về chứ ký điện tử. E-Sign thừa nhận chữ ký điện tử có giá trị pháp lý
tương đương giá trị chữ ký truyền thống trong ký kết hợp đồng và không thể bị phủ
nhận hay t chối chỉ vì lý do đó là chữ ký điện tử. Luật E-Sign của Hoa Kỳ ra đời đã
đánh dấu một mốc quan trọng về mặt pháp lý cho các giao dịch điện tử nói chung
và hợp đồng điện tử nói riêng. Riêng đối với doanh nghiệp Hoa Kỳ, E-Sign được
17


×