Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tư pháp từ thực tiễn địa bàn thành phố cao bằng, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 93 trang )

ĐÀM THỊ KIM THUYÊN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH
LUẬT KINH TẾ

CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TƯ PHÁP TỪ THỰC
TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO
BẰNG

ĐÀM THỊ KIM THUYÊN

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

ĐÀM THỊ KIM THUYÊN



Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 8 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HOÀNG THẾ LIÊN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đàm Thị Kim Thuyên


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập nghiên cứu tại Trường Đại học Mở Hà Nội, tôi đã hoàn
thành luận văn thạc sĩ với đề tài “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất

đai theo thủ tục tư pháp từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Cao bằng, tỉnh Cao Bằng”.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này, tôi đã nhận
được sự quan tâm, hướng dẫn của các Thầy, Cô, đồng nghiệp, anh chị và các bạn.
Qua luận văn này, bằng tất cả niềm kính trọng, tôi xin phép được bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới các Thầy, Cô giáo giảng viên Trường Đại học Mở Hà Nội đã trang bị
cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập tại nhà trường.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Hoàng Thế Liên - người Thầy
đáng kính đã dạy và hướng dẫn chỉ bảo cho tôi những kiến thức cần thiết, sâu sắc
nhất, góp phần quan trọng trong việc hoàn thành luận văn thạc sĩ của tôi.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo, đồng nghiệp tại Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Cao Bằng, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, Văn phòng, Phòng
tài nguyên môi trường và Phòng thanh tra Ủy ban nhân dân thành phố Cao Bằng đã
giúp đỡ, chia sẻ cho tôi những kinh nghiệm thực tế và số liệu, tài liệu quý giá để tôi
có thể hoàn thiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, người thân
và những người đặc biệt yêu thương nhất đã luôn dành cho tôi sự động viên, giúp đỡ
không thể thiếu trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn
của mình.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đàm Thị Kim Thuyên



MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TƯ PHÁP

1.1.

Khái niệm, đặc điểm và phân loại tranh chấp đất đai

6
6

1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai

6

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai

7

1.1.3. Các loại hình tranh chấp đất đai

7

1.2.


9

Nguyên nhân tranh chấp đất đai

1.2.1. Nguyên nhân khách quan

9

1.2.2. Nguyên nhân chủ quan

10

1.3

Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các phương thức giải quyết tranh
chấp đất đai theo thủ tục tư pháp

13

1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai

13

1.3.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai

14

1.3.3. Vai trò của giải quyết tranh chấp đất đai

15


1.3.4. Các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tư pháp

16

1.4.

20

Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

1.4.1. Khái quát về lịch sử phát triển của pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai trước và sau khi có Hiến pháp 1980

20

1.4.2. Nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

26

1.4.3. Quy định về chủ thể có quyền khiếu nại, tố cáo và khiếu kiện tòa án
về tranh chấp đất đai

29

1.4.4. Quy định về phương thức và chủ thể có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp về đất đai
1.4.5. Quy định về thủ tục, trình tự giải quyết tranh chấp đất đai

30

30

Chương 2: TÌNH HÌNH TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH
CAO BẰNG

2.1.

37

Đặc điểm về địa lý, kinh tế - xã hội của thành phố Cao Bằng, tỉnh
Cao Bằng

37


2.2.

Những thuận lợi và khó khăn tác động đến việc giải quyết tranh
chấp đất đai trên địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng

38

2.2.1. Thuận lợi

38

2.2.2. Khó khăn

42


2.3.

Tình hình tranh chấp đất đai xảy ra trên địa bàn thành phố Cao
Bằng trong thời gian gần đây

2.4.

44

Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn thành phố
Cao Bằng

48

2.4.1. Đánh giá chung về kết quả giải quyết tranh chấp đất đai trên địa
bàn thành phố Cao Bằng

48

2.4.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn thành phố Cao
Bằng bằng các phương thức
2.5.

49

Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế kết quả giải quyết tranh chấp
đất đai trên địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng

61


2.5.1. Tập trung xử lý số đơn tồn đọng

61

2.5.2. Hạn chế phát sinh đơn mới

62

2.5.3. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra

63

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

3.1.

Một số định hướng về nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết tranh
chấp đất đai

3.2.

64
64

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp
đất đai


69

2.3.1. Nhóm các giải pháp chung

69

2.3.2. Nhóm các giải pháp cụ thể

71

2.3.3. Nhóm các giải pháp bảo đảm thực hiện các luật về giải quyết tranh
chấp đất đai
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

75
82


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Kết quả giải quyết chấp đất đai của UBND ở một số phường,
xã trong hai năm 2016, 2017

2.2

51

Thống kê số vụ tranh chấp QSDĐ xét xử sơ thẩm trong 02
năm (2016-2017) của TAND thành phố Cao Bằng

58



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài tài luận văn
Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển
đất nước. Không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của đất đai đối với cuộc sống
của con người, nó có ý nghĩa hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an
ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia.
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội. Đặc biệt,
khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành một loại hàng
hóa đặc biệt có giá trị thì tranh chấp đất đai có xu hướng ngày càng gia tăng cả về
số lượng cũng như mức độ phức tạp. Và hiện nay, tranh chấp đất đai là một hiện
tượng xảy ra phổ biến trong xã hội, các dạng tranh chấp đất đai phổ biến như là
tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền
sử dụng đất (QSDĐ); tranh chấp do lấn chiếm đất; tranh chấp QSDĐ và tài sản gắn
liền với đất; tranh chấp đất đai trong các vụ án ly hôn. Có thể liệt kê rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tranh chấp đất đai như việc quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót, sơ hở,
việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) tiến hành
chậm, việc lấn chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng không được ngăn
chặn và xử lý kịp thời và đất đai từ chỗ chưa được thừa nhận có giá trị nay trở thành
tài sản có giá trị cao, thậm chí ở nhiều nơi, nhiều lúc giá đất tăng đột biến...
Các tranh chấp đất đai diễn ra gay gắt và phát sinh ở hầu hết các địa
phương. Tình trạng tranh chấp đất đai diễn ra kéo dài dẫn đến số lượng người dân
khiếu kiện ngày càng đông. Đây là vấn đề rất đáng được quan tâm. Tranh chấp đất
đai phát sinh nhiều sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội, ảnh
hưởng đến phong tục đạo đức tốt đẹp của người dân Việt Nam, gây ra sự mất ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội
Nhà nước ta đã rất cố gắng trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai nhằm
ổn định tình hình chính trị, xã hội. Hệ thống các văn bản pháp luật đất đai ngày càng


1


được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó quy định việc giải quyết tranh chấp đất
đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân (UBND) và Tòa án nhân dân (TAND).
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay là loại việc khó khăn,
phức tạp nhất và là khâu yếu nhất trong công tác giải quyết các tranh chấp dân sự
nói chung. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật
về đất đai, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai; thực trạng tranh chấp đất đai
và việc giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan có thẩm quyền bằng thực tiễn
trên địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng trong một số năm gần đây, trên cơ
sở đó đề xuất những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về đất
đai và xác lập cơ chế giải quyết các tranh chấp đất đai thích hợp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
cho công dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng, tính cấp thiết của vấn đề nêu trên, tôi đã
lựa chọn nghiên cứu đề tài "Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai
theo thủ tục tư pháp từ thực tiễn địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng"
làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong bối cảnh tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp, khó xử lý, tồn đọng,
kéo dài, việc giải quyết tranh chấp còn nhiều bất cập thiếu thống nhất thì tranh chấp
đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau, phạm vi khác nhau. Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu
và các bài viết liên quan đến đề tài này dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, mục
đích nghiên cứu khác nhau và dẫn đến quan điểm khác nhau, kết quả nghiên cứu
khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề. Liên quan đến
đề tài này, có thể kể đến một số công trình khoa học đã được công bố như:
+ Một số công trình nghiên cứu về tranh chấp đất đai:

Báo cáo tham luận "Tranh chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên
nhân trong quá trình thực thi pháp luật" của GS.TSKH Đặng Hùng Võ; Báo cáo
tham luận "Tình hình tranh chấp khiếu kiện đất đai ở Việt Nam trong thời gian qua"

2


của tác giả Vũ Ngọc Kích (2008); Báo cáo tham luận "Những dạng tranh chấp đất
đai chủ yếu ở nước ta hiện nay và khuôn khổ pháp luật liên quan" của TS. Doãn
Hồng Nhung. Các báo cáo này được các tác giả công bố và trình bày tại hội thảo
"Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp",
ngày 08 - 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột - Đắk Lắk.
+ Một số công trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp đất đai nói chung
như: Luận văn Thạc sĩ luật học "Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật đất đai
2003", của Châu Huế (2003), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ
luật học "Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường tòa án", của Trần Văn Hà
(2007), Viện Nhà nước và Pháp luật; Luận văn thạc sĩ luật học Giải quyết tranh chấp
đất đai theo Luật đất đai 2003", của Phạm Thị Hương Lan (2009), Viện Nhà nước và
Pháp luật; Luận văn thạc sĩ luật học "Thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai
tại Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái", của Trần Văn Nam (2016), Học viện Khoa học Xã
hội Việt Nam; Luận văn thạc sĩ luật học "Giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án,
từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng", của Nguyễn Thị Hải Thanh (2016),
Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam; Doãn Hồng Nhung (2014), Kỹ năng áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội; Mai Thị Tú Oanh (2013), Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai
bằng tòa án ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội...
Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhận thấy:
Nhìn nhận một cách tổng quan thì các công trình, các bài viết nêu trên được
tiếp cận, nghiên cứu, nhận định và đánh giá dưới nhiều khía cạnh và ở những mức
độ khác nhau về những nội dung có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến pháp luật

về tranh chấp đất đai và hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai. Hiện nay vẫn còn
thiếu những công trình nghiên cứu chuyên sâu về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai một cách toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn của vấn đề,
các công trình nghiên cứu cũng chưa đặt nội dung nghiên cứu trong mối quan hệ
giao thoa giữa các ngành luật. Đặc biệt, chưa có công trình nào nhận định vấn đề từ

3


khía cạnh thực tiễn thông qua việc điều tra, thu thập và tổng hợp số liệu ở các địa
phương. Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội đang có những thay đổi liên
tục và nhanh chóng thì các kết quả mà giới khoa học pháp lý nước ta đã đạt được
vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những quy định của pháp
luật đất đai liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đất đai, thực trạng giải quyết
tranh chấp đất đai trên địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Trên cơ sở đó
chỉ ra những thiếu sót, tồn tại của pháp luật đất đai hiện hành về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn hiện pháp luật đất đai,
nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp đất đai trong thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp
đất đai như: Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp đất đai; Khái niệm, đặc
điểm, nguyên tắc, ý nghĩa giải quyết tranh chấp đất đai.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai ở
Việt Nam dưới các góc độ sự hình thành và phát triển của pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai, pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết
tranh chấp tranh chấp đất đai trên địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

Thứ ba, từ những phân tích, đánh giá về lý luận và thực tiễn giải quyết tranh
chấp đất đai, luận văn đưa ra định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về giải quyết
tranh chấp đất đai và thực tiễn giải quyết tranh chấp đất trên địa bàn thành phố Cao
bằng, tỉnh Cao Bằng.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật đất đai, vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của
TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng tốt nhất các
yêu cầu trong cải cách tư pháp. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải
cách tư pháp và chủ yếu là Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử dụng
phương pháp bình luận, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp,
chứng minh, thu thập dữ liệu để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số kiến nghị của đề
tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong
quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai nói chung và
pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn

gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh
chấp đất đai.
Chương 2: Tình hình tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai trên
địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp đất đai.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TƯ PHÁP

1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Trong bất kỳ xã hội nào, đất đai luôn có vai trò và vị trí quan trọng đối với
con người, góp phần quyết định sự phát triển phồn vinh của mỗi quốc gia. Cùng với
sự phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu sử dụng đất của con người ngày
càng phong phú và đa dạng hơn. Xuất phát từ lợi ích của cuộc xây dựng và phát
triển đất nước, Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đất đai nhằm
tạo lập một môi trường pháp lý lành mạnh cho hoạt động khai thác và sử dụng đất
đai hợp lý, có hiệu quả. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết dứt
điểm và có hiệu quả những tranh chấp đất đai nảy sinh
Theo khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai 2013: "Tranh chấp đất đai là tranh
chấp quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đai giữa hai hay nhiều bên trong
quan hệ đất đai".
Theo khái niệm này, đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai là quyền
và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Tranh chấp tổng thể các quyền và nghĩa vụ hay

chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ "đơn lẻ" của người sử dụng đất do pháp
luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền và nghĩa vụ mà
người sử dụng đất có được khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác cho đến nay
vẫn chưa được chính thức xác định. Đã có quan niệm cho rằng, tranh chấp đất đai
"là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về
quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất" hoặc "tranh chấp đất đai
là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các
chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai".

6


Tranh chấp đất đai hiểu theo nghĩa rộng là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất
đồng trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với
đất đai, phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Theo nghĩa hẹp, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và
sử dụng đất đai.
Trong thực tế, tranh chấp đất đai được hiểu là sự tranh chấp về quyền quản
lý, quyền sử dụng xung quanh một khu đất cụ thể mà mỗi bên đều cho rằng mình
phải được quyền đó do pháp luật quy định và bảo hộ. Vì vậy, họ không thể cùng
nhau tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phân
xử (giải quyết).
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh
những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai còn mang
những đặc điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp lao
động, tranh chấp kinh tế... Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những
lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng đất đai.

Các chủ thể tranh chấp đất đai là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có
quyền sở hữu đối với đất đai.
Tranh chấp đất đai không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên
tham gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước.
Tranh chấp đất đai làm cho những quy định của pháp luật đất đai và chính
sách của Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để.
1.1.3. Các loại hình tranh chấp đất đai
Thực tế hiện nay, tranh chấp đất đai không chỉ là hiện tượng phổ biến mà
còn hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, căn cứ vào
tính chất pháp lý của các tranh chấp, có thể phân ra thành các nhóm chủ yếu sau:

7


a. Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất
Đây là tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan đến
các giao dịch về đất đai và tranh chấp thừa kế QSDĐ. Về bản chất khi giải quyết
tranh chấp này tòa án phải xác định QSDĐ thuộc về ai.
Các tranh chấp phổ biến trong trường hợp này là tranh chấp về ranh giới đất
liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp GCNQSDĐ nhưng bị trùng diện tích, người
sử dụng đất được cấp GCNQSDĐ nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc chủ cũ được cấp
GCNQSDĐ nhưng người sử dụng đất cho rằng việc cấp GCNQSDĐ là không đúng.
b. Tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất
Các tranh chấp này có thể là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng,
công nhận hiệu lực của hợp đồng, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu… Bản chất của
tranh chấp trong các trường hợp này là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Thời hiệu
khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện
đối với các tranh chấp về hợp đồng nói chung.
Riêng đối với vụ án ly hôn khi các bên đương sự có tranh chấp QSDĐ trong
việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng, đây không phải thuộc loại quan

hệ tranh chấp đất đai. Trong quan hệ ly hôn, Tòa án giải quyết quan hệ trọng tâm là
quan hệ mang tính nhân thân, đây là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết
định tính chất và nội dung của quan hệ tài sản. Cơ sở pháp lý đề bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể xuất phát chính từ các quan hệ nhân thân trước.
c. Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.
Đây là các tranh chấp yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Bản chất của dạng
tranh chấp này là tranh chấp thừa kế có đối tượng là QSDĐ và Tòa án phải xác định
ranh giới đất để phân chia. Thời hiệu khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp
dụng như đối với thời hiệu khởi kiện các tranh chấp về thừa kế tài sản nói chung.
d. Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
Tranh chấp về tài sản gắn liền với QSDĐ bao gồm: Tranh chấp tài sản về
nhà ở, vật kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà thờ,

8


tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao
để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống
tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài
sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu
năm khác gắn liền với QSDĐ đó. Tranh chấp trong trường hợp này có thể là tranh
chấp về ai là người có QSDĐ gắn liền với tài sản, thừa kế hoặc tranh chấp về ai là
người có QSDĐ gắn liền với tài sản, thừa kế hoặc tranh chấp về các hợp đồng liên
quan đến tài sản gắn liền với đất.
1.2. Nguyên nhân tranh chấp đất đai
1.2.1. Nguyên nhân khách quan
Tranh chấp đất đai ở nước ta phát sinh có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại. Ở
Miền Bắc, sau Cách mạng tháng 8 và sau năm 1953, Đảng và Chính phủ đã tiến hành
cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong kiến, thiết
lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân. Năm 1960, thông qua con đường hợp

tác hóa nông nghiệp, ruộng đất của người nông dân được đưa vào làm tư liệu sản xuất
chung trở thành sở hữu tập thể, do đó tình hình sử dụng đất đai tương đối ổn định.
Ở Miền Nam, sau hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm tình hình sử dụng
đất đai có nhiều diễn biến phức tạp hơn. Trong những năm kháng chiến, Chính phủ
đã tiến hành chia ruộng đất cho người nông dân hai lần vào các năm 1949-1950 và
năm 1954, nhưng đến năm 1957, ngụy quyền Sài gòn thực hiện cải cách điền địa,
thực hiện việc "truất hữu" nhằm xóa bỏ thành quả của cách mạng, gây ra những xáo
trộn về quyền quản lý ruộng đất của người nông dân. Sau khi thống nhất đất nước,
năm 1975, Nhà nước đã tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời xây dựng
hàng loạt các lâm trường, nông trường, trang trại. Những tổ chức đó bao chiếm quá
nhiều diện tích đất nhưng sử dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua hai lần điều chỉnh
ruộng đất vào các năm 1977-1978 và năm 1982-1983, với chính sách chia cấp đất
theo kiểu bình quân, "cào bằng" đã dẫn tới những xáo trộn lớn về ruộng đất, về ranh
giới, số lượng và mục đích sử dụng đất đai.

9


Khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế
quản lý làm cho đất đai thì đất đai ngày càng trở nên có giá trị. Dưới góc độ kinh tế,
đất đai được coi như một loại hàng hóa trao đổi trên thị trường theo quy luật cung
cầu, quy luật giá trị. Đây là quy luật tự nhiên, nhưng đối với đất lại không được
thừa nhận một cách dễ dàng ở nước ta trong một thời gian khá dài. Do vậy, Nhà
nước chưa kịp thời có các chính sách để điều tiết và quản lý có hiệu quả.
Từ khi nhà đất trở nên có giá trị cao đã tác động đến tâm lý của nhiều người
dẫn đến tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho
mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng hoặc khi thực hiện một số
chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước đây mà không có các văn bản xác định
việc sử dụng đất ổn định của họ.
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan

1.2.2.1. Về cơ chế quản lý đất đai
Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn bị buông
lỏng, nhiều sơ hở, có khi phạm sai lầm, giải quyết tùy tiện, sai pháp luật.
Trong cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch hóa cao độ, Nhà nước phân công,
phân cấp cho quá nhiều ngành, dẫn đến việc quản lý đất đai thiếu chặt chẽ, nhiều sơ
hở. Có thời kỳ mỗi loại đất do một ngành quản lý dẫn đến việc tranh chấp về đất
thuộc quyền quản lý của nhiều ngành khác nhau.
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy
hoạch chung, có sự phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý đất đai khá rõ. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều sai phạm, non kém về trình độ quản lý của
đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai. Điều này góp phần làm xuất hiện nhiều
tranh chấp đất đai phức tạp, khó giải quyết. Cụ thể:
+ Hồ sơ địa chính chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nên thiếu căn cứ pháp lý và
thực tế để xác định quyền sử dụng và quản lý đất đai của tổ chức, cá nhân, đặc biệt
là ở những vùng mà quan hệ đất đai phức tạp và có nhiều biến động. Trong nhiều
trường hợp, việc tranh chấp đất đai lại bắt nguồn từ những tài liệu lịch sử của chế độ

10


cũ để lại. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến hành theo một quy trình chặt
chẽ, nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất lạc.
+ Quy hoạch sử dụng đất đai chưa đi vào nề nếp, nên nhiều trường hợp sử
dụng đất không hợp lý khó bị phát hiện. Khi phát hiện thì lại không được xử lý kịp
thời. Nhiều địa phương còn có những nhận thức lệch lạc về chính sách đất đai, quản
lý đất đai còn nặng về biện pháp mệnh lệnh hành chính mà chưa chú ý đến biện
pháp quản lý về mặt kinh tế.
+ Một số nơi ban hành văn bản pháp lý đất đai không rõ ràng hoặc chủ
trương sai lầm của một số cán bộ đã làm cho một bộ phận nhân dân hiểu lầm là Nhà
nước có chủ trương "trả lại đất cũ", trả lại đất ông cha, dẫn đến việc khiếu kiện đòi

lại đất ngày càng nhiều.
1.2.2.2. Về công tác cán bộ công chức thực hiện công vụ liên quan đến đất đai
Một bộ phận cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý đất đai đã thực
hiện không tốt nhiệm vụ được giao, thiếu gương mẫu, lạm dụng chức quyền, vì lợi
ích riêng tư bị kẻ xấu lợi dụng để "đục nước béo cò", thực hiện những âm mưu đen
tối, gây mất ổn định xã hội.
Lợi dụng chủ trương điều chỉnh ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo cơ chế
mới, một số cán bộ, đảng viên lợi dụng sơ hở trong các chế độ, chính sách đất đai
của Nhà nước và dựa vào chức quyền để chiếm dụng đất đai trái phép, gây bất bình
trong nhân dân. Đặc biệt, ở những nơi nội bộ mất đoàn kết thì lại lấy vấn đề đất đai
làm phương tiện để đấu tranh với nhau, một số phần tử xấu lợi dụng cơ hội này để
bao chiếm đất đai hoặc kích động gây chia rẽ nội bộ và gây mất ổn định về tình hình
chính trị - xã hội, làm mất uy tín của tổ chức Đảng và chính quyền.
1.2.2.3. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết tranh chấp đất đai ở nhiều nơi,
nhiều lúc còn hữu khuynh, mất cảnh giác. Chẳng những hồ sơ đất đai không đầy đủ,
mà việc đăng ký nhân khẩu, hộ khẩu ở nông thôn cũng chưa chặt chẽ, kẻ xấu có
điều kiện để hoạt động dễ dàng. Khi phát hiện những kẻ cầm đầu, tổ chức gây rối,

11


kích động vi phạm pháp luật thì lúng túng trong xử lý, nương nhẹ trong thi hành
pháp luật, không tổ chức được lực lượng quần chúng cốt cán đấu tranh với mọi biểu
hiện tiêu cực, mà trái lại, để quần chúng bị bọn xấu lôi kéo. Tổ chức Đảng và chính
quyền trở thành người bị động, phải chạy theo giải quyết những vụ việc đã xảy ra
hoặc xử lý những hậu quả nặng nề.
1.2.2.4. Về đường lối chính sách, pháp luật về đất đai
Chính sách đất đai và các chính sách khác có liên quan đến đất đai chưa
đồng bộ, có mặt không rõ ràng và đang còn biến động. Thực tế áp dụng các chính

sách đất đai còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản xuất nông
nghiệp thì thiếu ruộng đất, ngược lại, người có ruộng đất lại không có khả năng
hoặc nhu cầu sản xuất, để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém hiệu quả. Tình
trạng người nông dân phải ra các đô thị bán sức lao động, gây mất ổn định cơ cấu
lao động sản xuất cũng có nguyên nhân từ việc thiếu đất để sản xuất
Thực tiễn đã chứng minh những sai lầm trong phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp như nóng vội, gò ép, đưa quy mô hợp tác xã nhỏ lên quy mô hợp tác xã lớn
không phù hợp với trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ cơ sở đã dẫn đến hậu quả là đất đai sử dụng bừa bãi, lãng phí và kém hiệu quả.
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp được đổi mới,
người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, đòi hỏi phải có một diện
tích đất nhất định để sản xuất. Do đó đã xuất hiện tư tưởng đòi lại đất để sản xuất.
Chính sách đất đai chưa phù hợp, chậm đổi mới đã tạo cơ sở cho việc lấn chiếm đất
đai diễn ra khá phổ biến, song chưa được giải quyết và xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, việc Nhà nước chia, tách, nhập hoặc thành lập mới những đơn vị
hành chính trong những năm gần đây dẫn đến việc phân địa giới hành chính không rõ
ràng, cụ thể làm cho tình hình tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp và gay gắt hơn.
1.2.2.5. Về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật
Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai chưa được coi
trọng, làm cho nhiều văn bản pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến
sâu rộng trong nhân dân.

12


Tuy nhiên, việc tranh chấp đất đai ở mỗi địa phương khác nhau còn có
những nguyên nhân đặc thù và việc tìm ra những nguyên nhân đó phải căn cứ vào
thực tế sử dụng đất và phong tục tập quán của từng địa phương để xây dựng được
những giải pháp tốt nhất nhằm giải quyết có hiệu quả từng vụ tranh chấp. Song trên
thực tế khía cạnh này chưa được các cơ quan nhà nước chú trọng xem xét.

1.3. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai
theo thủ tục tư pháp
Từ lâu đời, ông cha ta đã có câu "Hôn nhân điền thổ, vạn cố chi thù", ý
muốn nói trong xã hội có hai chuyện thường xảy ra khúc mắc, dễ kết thù oán và thù
oán lâu nhất là hôn nhân và ruộng đất. Điều này cho thấy tính phổ biến và phức tạp
của các tranh chấp đất đai đã tồn tại từ lâu và có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Tính phức
tạp, gay gắt của nó không chỉ dừng lại ở khía cạnh tranh chấp tranh chấp dân sự mà
còn có thể dẫn đến các vụ án hình sự, thậm chí có thể mang tính chính trị, gây ảnh
hưởng đến trật tự xã hội. Vì vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung rất
quan trọng và không thể thiếu của pháp luật đất đai.
1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai trước hết là nội dung quản lý nhà nước về đất
đai, là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các tranh
chấp, bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa nhân dân với tổ chức và giữa
các tổ chức và giữa các tổ chức sử dụng đất với nhau để qua đó phục hồi các quyền
lợi hợp pháp bị xâm hại đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi
phạm pháp luật về đất đai.
Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xem xét giải quyết tranh chấp đất đai là
một trong những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai phát huy được vai trò trong
đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết tranh chấp đất đai. Nhà nước điều chỉnh các
quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của xã hội. Đồng thời, giáo
dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật cho mọi công dân, ngăn ngừa những vi phạm
pháp luật có thể xảy ra. Giải quyết tranh chấp đất đai, với ý nghĩa là một nội dung của

13


chế độ quản lý nhà nước đối với đất đai, được hiểu là hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhằm tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật,
nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên, khôi phục lại quyền lợi cho

bên bị xâm hại. Đồng thời, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Như
vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng đúng đắn các quy định của pháp
luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Tranh chấp nói chung, tranh chấp đất đai nói riêng, không những ảnh hưởng
đến lợi ích của các bên liên quan mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, bởi nó
gây nên sự mất ổn định trong xã hội, làm cho chính sách của Nhà nước không thực hiện
được. Chính vì vậy, pháp luật đất đai cần có những quy định về giải quyết tranh chấp.
1.3.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai
Từ định nghĩa giải quyết tranh chấp đất đai ở trên có thể rút ra các đặc điểm
của giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
Thứ nhất: Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp, một tranh chấp các chủ thể có thể sử dụng
nhiều biện pháp như: Tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai
không quan tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra
các quy định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia của cơ
quan nhà nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện sự tôn trọng
của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể, Nhà nước sẽ cung
cấp một công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ không có được sự thống
nhất. Một khi đã có sự tham gia của cơ quan nhà nước thì các quy phạm pháp luật
về giải quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ có những quy phạm pháp luật này thì
người dân cũng như chính cơ quan nhà nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp và giải quyết theo trình tự, thủ tục gì.
Thứ hai: Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là tranh chấp đất
đai, trong đó các đương sự yêu cầu cơ quan nhà nước xác định rõ những quyền và
nghĩa vụ của các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp.

14


Thứ ba: Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ

của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết định
có hiệu lực của pháp luật.
Thứ tư: Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể địa phương tham gia.
Thứ năm: Liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, như: nhà ở, xây dựng…
Thứ sáu: Cần phải hiểu phong tục, tập quán địa phương để có cách giải
quyết thỏa đáng.
1.3.3. Vai trò của giải quyết tranh chấp đất đai
Thứ nhất, về mặt kinh tế. Khi các tranh chấp xảy ra trước hết nó ảnh hưởng
đến tâm lý, thời gian, tiền của của các bên tranh chấp. Tiếp đó, nó ảnh hưởng đến
hoạt động của các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước phải duy trì một bộ
máy không nhỏ để giải quyết các tranh chấp đất đai. Điều này gây tốn kém cho cả
Nhà nước và nhân dân. Bên cạnh đó các tranh chấp đất đai có thể làm ngưng trệ các
hoạt động sản xuất kinh doanh, làm thiệt hại đến lợi ích của các bên, lợi ích Nhà
nước và lợi ích của xã hội.
Thứ hai, về mặt chính trị. Các tranh chấp phát sinh có thể gây ảnh hưởng
xấu, gây mất ổn định tình hình kinh tế, xã hội, làm giảm hiệu quả thực hiện các
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, các tranh chấp
xảy ra nếu không được giải quyết kịp thời, triệt để thì có thể gây mất lòng tin trong
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
Thứ ba, về mặt xã hội. Các tranh chấp này sẽ là nguyên nhân gây nên rạn
nứt trong mối quan hệ tình cảm giữa cha - mẹ, vợ - chồng, anh - em. Lợi ích kinh tế
có thể làm lu mờ các chuẩn mực đạo đức xã hội, trong nhiều trường hợp có thể dẫn
đến việc phạm pháp hình sự của các bên, kéo theo hàng loạt các phức tạp khác.
Như vậy, khi đánh giá tác động của tranh chấp đất đai đối với các mặt của
đời sống kinh tế - xã hội, chúng ta càng thấy được mức độ nguy hại của các tranh
chấp đất đai cũng như tính cấp bách trong việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp
này nhằm ổn định xã hội, tạo đà phát triển cho nền kinh tế của đất nước. Việc giải

15



quyết tranh chấp đất đai chính là nhằm giải quyết bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên,
duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường sự đoàn kết trong nội
bộ nhân dân; đồng thời góp phần bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật làm tăng sự
tin tưởng của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
1.3.4. Các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tư pháp
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội: "…Việc giải
quyết tranh chấp đất đai là tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm giải
quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Trên cơ sở đó phục hồi các
quyền lợi hợp pháp cho bên bị xâm phạm đồng thời bắt buộc bên vi phạm phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý do hành vi của họ gây ra" [34].
Để quán triệt quan điểm chỉ đạo của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá: "Việc giải quyết tranh chấp đất
đai trước hết cần tiến hành hoà giải, nếu hoà giải không thành thì đưa ra toà án
giải quyết. Nhà nước quy định thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại, không
để kéo dài" và Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về tiếp
tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại: "Các cơ quan có thẩm quyền phải tập trung giải quyết
kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định
của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; công bố công
khai kết quả giải quyết".
Các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai bao gồm:
1.3.4.1. Giải quyết bằng hòa giải
Hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với
sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Phương thức hòa giải cũng là một phương
thức giải quyết tranh chấp không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, được thực hiện
hoàn toàn dựa trên thiện chí của các bên. Khi tiến hành hòa giải, các bên được thỏa


16


thuận lựa chọn ra một bên trung gian, độc lập, có kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng
giải quyết tranh chấp để đưa ra các lời khuyên về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên.
Ý kiến của hòa giải viên chỉ có tính chất tham khảo. Kết quả của phiên hòa giải là
sự thỏa thuận của các bên, không phải của hòa giải viên.
Giải pháp phổ biến nhất mà các bên tranh chấp lựa chọn khi giải quyết
tranh chấp đất đai là thương lượng với nhau. Thứ hai là đề nghị chính quyền can
thiệp (chủ yếu là UBND, gần như không nhờ đến cơ quan thanh tra). Thứ ba là hòa
giải với sự có mặt của người thứ ba. Ba giải pháp này có sự khác biệt thống kê giữa
các khu vực nội thành và ngoại thành. Người dân ở khu vực nội thành thiên về biện
pháp hòa giải, thông qua thương lượng hoặc với sự có mặt của người thứ ba, trong
khi đó người dân ở ngoại thành lại tin cậy hơn vào sự can thiệp của chính quyền.
Hòa giải các tranh chấp đất đai là một trong những biện pháp giải quyết
tranh chấp đất đai mang lại hiệu quả và được người dân ưa chuộng bởi lẽ:
Thứ nhất, khác với việc giải quyết các tranh chấp đất đai được thực hiện
thông qua các cơ quan công quyền, hòa giải tranh chấp đất đai không mang tính
chất bắt buộc, cưỡng chế thi hành mà thể hiện sự thỏa thuận ý chí của các bên. Điều
này phù hợp với một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường là
tôn trọng và đề cao quyền tự do kinh doanh của cá nhân.
Thứ hai, xã hội truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo Trung Hoa (đề cao tư tưởng "đức trị"), nên người dân (đặc biệt là người dân
sống ở khu vực nông thôn) rất coi trọng các giá trị đạo đức. Các quan hệ xã hội bị
chi phối mạnh mẽ bởi các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán truyền thống hơn là
các quy phạm pháp luật. Hơn nữa, trải qua hàng nghìn năm (kể cả thời kỳ bị các thế
lực ngoại bang đô hộ), xã nông thôn Việt Nam vẫn trường tồn bền vững là nơi duy
trì, bảo tồn các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống. Người dân sống trong các đơn
vị làng, xã luôn có ý thức giữ gìn tình đoàn kết giữa các thành viên trong cộng đồng
và không chấp nhận sự tồn tại của các yếu tố gây tổn hại đến mối quan hệ khăng

khít giữa thành viên với cộng đồng. Đây chính là môi trường thuận lợi để hòa giải

17


×