Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 78 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Khi quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ pháp lý và trên thị trường có nhu
cầu về các loại sản phẩm và/hoặc dịch vụ được bảo hộ sở hữu trí tuệ thì khi
đó sở hữu trí tuệ sẽ trở thành một tài sản kinh doanh có giá trị. Trong đó, nhãn
hiệu có thể coi là một trong những tài sản đáng lưu tâm của các doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh và hội nhập quốc tế. Nhận thức được điều này, các
doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chú trọng vào việc bảo bộ quyền sở hữu
công nghiệp của mình đối với các nhãn hiệu cho các sản phẩm dịch vụ do
chính mình dày công đầu tư sáng tạo và xây dựng uy tín.
Bên cạnh đó, xu thế hội nhập quốc tế đã đem đến cho doanh nghiệp
nhiều cơ hội kinh doanh nhưng cũng không ít thách thức cạnh tranh, chính vì
vậy, các doanh nghiệp đã thay đổi nhận thức về yếu tố quyết định sức mạnh
của doanh nghiệp trên thương trường là: bảo vệ tài sản vô hình của doanh
nghiệp từ các bí quyết kỹ thuật đến các ý tưởng, chiến lược kinh doanh, các
nhãn hiệu, kiểu dáng, tên thương mại, bí mật kinh doanh, thương hiệu và các
kết quả vô hình khác được tạo ra bởi sự sáng tạo, đổi mới của doanh nghiệp
trên thực tế đã đem lại giá trị cao gấp nhiều lần cho các doanh nghiệp. Như
vậy, cùng với các đối tượng khác, Tên thương mại cũng góp phần quan trọng
vào việc tạo dựng uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu, không ít các doanh nghiệp vướng phải những vấn
đề khó giải quyết. Một trong những vấn đề đó là xung đột về quyền giữa nhãn
hiệu và tên thương mại. Hai đối tượng quyền sở hữu công nghiệp này lại thực
hiện thức năng giống nhau và có cách thức sử dụng tương tự nhau. Điều này
dẫn đến xung đột quyền giữa nhãn hiệu và tên thương mại, cụ thể là nếu thực
tế có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa dịch vụ giữa chủ sở hữu
1


nhãn hiệu và chủ thể kinh doanh sử dụng tên thương mại trong trường hợp có


sự trùng lặp hoặc tương tự giữa nhãn hiệu và tên thương mại đó thì quyền đối
với đối tượng nào sẽ được bảo vệ. Tương tự như vậy, trong vấn đề xác lập
quyền đối với nhãn hiệu, nếu có tranh chấp xảy ra giữa người nộp đơn đăng
ký nhãn hiệu với chủ sở hữu tên thương mại thì quyền ưu tiên sẽ thuộc về ai.
Xuất phát từ những lý do trên đây, học viên đã lựa chọn đề tài: “Xung
đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại” cho Luận văn tốt nghiệp cao học
chuyên ngành Luật Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại” không phải là vấn đề mới
bởi ngay khi soạn thảo Luật sở hữu trí tuệ 2009, nội dung này đã được sự liệu
trước và sau khi ban hành, Luật SHTT 2009 cũng đã có những quy định pháp
luật nhằm giải quyết mối quan hệ xung đột này. Cho đến nay, chỉ có một số ít
công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến vấn đề này như:
- Luận văn Thạc sỹ “Khía cạnh pháp lý về mối quan hệ giữa nhãn hiệu
và tên thương mại” - Bồ Xuân Tuấn; Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị
Bích Ngọc
- “Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại” - Lê Thị
Nam Giang – Tạp chí: Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh,
2013, Số 03(76), tr.54- 62
- “Mối quan hệ giữa nhãn hiệu và tên thương mại” - Trần Hải Linh,
Tạp chí Thông tin KH&CN Nghệ An, số 3.2010”
Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên
cứu này cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu phân tích chung về mối quan hệ
giữa nhãn hiệu và tên thương mại, nêu một số ví dụ về xung đột quyền trong
bảo hộ hai đối tượng này mà chưa nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện,
tổng thể về các nội dung liên quan đến xung đột giữa hai đối tượng này trong

2



vấn đề xác lập, khai thác và bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Tuy vậy,
đây vẫn là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham
khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu
các quy định của luật thực định về bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, tìm
hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để tìm ra những xung đột giữa nhãn hiệu
và tên thương mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu và cơ chế giải
quyết xung đột đó. Từ đó, tìm hiểu những vướng mắc, bất cập, đồng thời tìm
hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, trên cơ sở đó có những nhận xét,
kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu cũng như nâng cao hiệu quả của cơ chế giải quyết xung đột giữa
nhãn hiệu và tên thương mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu trên đây, Luận văn có các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận chung về nhãn hiệu và tên thương
mại, mối quan hệ giữa tên thương mại và nhãn hiệu;
- Phân tích nội dung và hậu quả của mối quan hệ xung đột giữa nhãn
hiệu và tên thương mại;
- Đánh giá thực trạng và hiệu quả cách thức giải quyết xung đột giữa
nhãn hiệu và tên thương mại trong bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu theo quy định Pháp luật Việt Nam hiện hành;
- Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực thi có
hiệu quả những quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về nhãn hiệu
và tên thương mại, mối quan hệ giữa nhãn hiệu và tên thương mại, là các quy
3



định của pháp luật về giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại
trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và thực trạng áp
dụng các quy định pháp luật trong hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu
khoa học truyền thống như phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp
giữa lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so
sánh luật.
6. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xung đột giữa nhãn hiệu và tên
thương mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn xử lý xung đột giữa
nhãn hiệu và tên thương mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu
theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế giải quyết xung đột giữa
nhãn hiệu và tên thương mại trong việc bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn
hiệu.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT
GIỮA NHÃN HIỆUVÀ TÊN THƯƠNG MẠI TRONG BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
1.1. Khái niệm, chức năng, điều kiện bảo hộ nhãn hiệu

1.1.1. Khái niệm
Ngày nay, nhãn hiệu đã phát triển thành công cụ để nhận biết sản phẩm
của các công ty khác nhau. Trên thế giới hiện có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về nhãn hiệu. Theo Khoản 1 Điều 15 Hiệp định về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ - Hiệp định TRIPs:
“Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào. Có khả năng phân biệt
hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng
hóa. Các dấu hiệu đó đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số,
các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc mầu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu
hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Trường hợp
bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ
tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký thuộc
vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể
quy định rằng điều kiện để được đăng ký các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn
thấy được”.[12]
Định nghĩa bao quát chung nhất các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu, từ
bản chất, chức năng, các yếu tố cấu thành đến điều kiện bảo hộ của nhãn hiệu
đều được đề cập trong định nghĩa này. Kế thừa nhưng có phần rút gọn hơn rất
nhiều là định nghĩa về nhãn hiệu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới - WIPO,
theo đó, “nhãn hiệu hàng hóa được hiểu một cách chung nhất là dấu hiệu
phân biệt, để chỉ ra sản phẩm, dịch vụ, được sản xuất hay cung cấp bởi một
chủ thể nào đó và để phân biệt với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”.
(www.wipo.int).

5


Kết hợp giữa hai định nghĩa nêu trên, Hiệp định thương mại Việt Nam
– Hoa Kỳ cũng có định nghĩa về nhãn hiệu. Tại khoản 1 Điều 6 Hiệp định này
quy định : “Trong hiệp định này, nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu

bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa
dịch vụ của một người với hàng hóa dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên
người,hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng
của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm
cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.[11]
Với sự tiếp thu có chọn lọc tinh thần của định nghĩa nhãn hiệu trong
Hiệp định TRIPs và định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng khẳng định bản chất của nhãn hiệu
cũng như nêu bật các yếu tố cấu thành nhãn hiệu trong định nghĩa đề cập trên,
tuy nhiên Hiệp định này không chỉ dừng ở đó mà còn đưa vào định nghĩa đó
phân loại nhãn hiệu.
Không bao hàm quá nhiều nội dung, định nghĩa nhãn hiệu theo quy
định của pháp luật Việt Nam khá ngắn gọn, được đề cập tại Khoản 16, Điều 4
Luật SHTT: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân khác nhau”. [20]
Định nghĩa nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay
loại bỏ gần như tất cả các vấn đề về yếu tố cấu thành, về điều kiện bảo hộ
cũng như phân loại nhãn hiệu mà chỉ tập trung vào bản chất của nhãn hiệu là
dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác
nhau. Mặc dù định nghĩa này dường như gần nhất với định nghĩa về nhãn hiệu
của WIPO, tuy nhiên nếu xem xét kỹ có thể nhận thấy sự khác biệt căn bản
giữa hai định nghĩa này chính là việc xem xét bản chất của nhãn hiệu. Nếu
như định nghĩa nhãn hiệu của WIPO đề cập đến cả hai chức năng chính của
nhãn hiệu là chỉ nguồn gốc và phân biệt hàng hoá dịch vụ thì định nghĩa nhãn

6


hiệu của pháp luật Việt Nam chỉ tập trung vào chức năng thứ hai của nhãn
hiệu và coi đó là chức năng chủ yếu chỉ ra bản chất của nhãn hiệu.

Định nghĩa nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam hiện hành có thể nói là
đã theo kịp xu hướng mở trong cách định nghĩa, với việc khái quát chung như
vậy, việc sửa đổi để thêm các đối tượng được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn
hiệu sẽ không làm thay đổi định nghĩa về nhãn hiệu. Điều này hoàn toàn phù
hợp với xu hướng phát triển của nhãn hiệu trên thế giới, bởi ngày càng có
nhiều đối tượng được xem xét bảo hộ như một nhãn hiệu ví dụ như âm thanh,
màu sắc, mùi vị v..v. Tuy nhiên, tác giả cho rằng định nghĩa như vậy vẫn chưa
đầy đủ bởi nó chưa chỉ ra được hoàn toàn bản chất của nhãn hiệu.
Như vậy, một nhãn hiệu hàng hoá có thể là một từ, khẩu hiệu, logo,
cũng như một màu sắc hoặc tổ hợp màu, âm thanh hoặc thậm chí là mùi
hương. Để có một cái nhìn khái quát về nhãn hiệu là nền tảng cho việc xem
xét nhãn hiệu trong mối quan hệ với tên thương mại cũng như vấn đề giải
quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại trong bảo hộ quyền SHCN
đối với nhãn hiệu trong các chương sau, tác giả xin được đưa ra định nghĩa
chung về nhãn hiệu như sau:
Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là chữ cái, chữ số, từ ngữ,
hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể
hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc… dùng để chỉ ra hàng hoá/dich vụ được
sản xuất/cung ứng bởi tổ chức, cá nhân nhất định. Nhãn hiệu hàng hóa bao
gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.
1.1.2. Chức năng
Nhãn hiệu có các chức năng sau đây:
- Chức năng phân biệt hàng hoá/dịch vụ của một doanh nghiệp này
với hàng hoá/dịch vụ của doanh nghiệp khác.
Chính từ chức năng chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hoá/dịch vụ, nhãn hiệu
còn có thêm một chức năng nữa, đó chính là phân biệt hàng hoá/dịch vụ của
7


các các nhân và tổ chức khác nhau. Mặc dù là chức năng phái sinh từ chức

năng đầu tiên, nhưng với sự phát triển không ngừng của thị trường, của kinh
tế toàn cầu, dường như chức năng này lại trở thành chức năng chính của nhãn
hiệu. Ngày nay, hàng hóa, dịch vụ vô cùng đa dạng và phong phú. Người tiêu
dùng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để mua chủ yếu dựa vào các dấu hiệu mà các
cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên sản phẩm hay bao bì sản phẩm khi đưa ra
thị trường, trong đó nhãn hiệu hàng hoá là một trong những dấu hiệu chỉ dẫn
thương mại được lưu tâm hàng đầu đối với cả nhà sản xuất và người tiêu
dùng. Nhờ có nhãn hiệu hàng hóa mà người tiêu dùng có thể xác định được
hàng hóa, dịch vụ mà mình mong muốn được cung cấp bởi nhà sản xuất/nhà
cung ứng dịch vụ nào, có phải là đơn vị kinh doanh mà người tiêu dùng đã
biết và tin tưởng hay không.
Chỉ khi nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản
phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu đó với sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp khác
trên thị trường thì lúc đó chức năng của nhãn hiệu mới đầy đủ. Điều này cho
thấy chức năng phân biệt và chức năng chỉ dẫn nguồn gốc là hai chức năng
không thể tách rời tạo thành nhãn hiệu. Tuy nhiên không phải bất cứ dấu hiệu
nào cũng thực hiện được cả hai chức năng đề cập trên để có thể thực hiện vai trò
là một nhãn hiệu. Cần có những điều kiện cần và đủ để một dấu hiệu có thể đóng
vai trò như một nhãn hiệu đặc biệt là một nhãn hiệu được bảo hộ cho riêng một
chủ thể nào đó và thực hiện được chức năng của nhãn hiệu.
- Chức năng chỉ dẫn thương mại, cụ thể là chỉ dẫn nguồn gốc của
hàng hoá/dịch vụ:
Chức năng này là chức năng chung của các dấu hiệu chỉ dẫn thương
mại như nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá. Tất cả
các dấu hiệu này khi được gắn lên một hàng hóa hay đi kèm với một dịch vụ

8



nhất định đều nhằm mục đích chỉ dẫn cho người tiêu dùng về cơ sở sản xuất
hoặc cơ sở phân phối hàng hóa đó hay cơ sở kinh doanh cung cấp dịch vụ
mang các dấu hiệu đó. Mặc dù cùng thực hiện chức năng chỉ dẫn thương mại,
tuy nhiên mỗi một loại dấu hiệu này thực hiện chức năng này theo một cách
thức rất riêng.
Khi quyết định lựa chọn một sản phẩm/dich vụ, điều đầu tiên tác động
đến tâm lý người tiêu dùng đó chính là nhãn hiệu. Bởi nhãn hiệu là sợi dây
liên kết giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất/nhà cung ứng dịch vụ. Nhãn
hiệu với chức năng đầu tiên và quan trọng của mình chính là chỉ dẫn cho
người tiêu dùng biết sản phẩm/dich vụ đó được cung cấp bởi nhà sản xuất/nhà
cung ứng dịch vụ nào. Một sản phẩm/dịch vụ khi đã được đưa ra thị trường
với một nhãn hiệu nhất định, đã đem đến cho người tiêu dùng sự tin tưởng
vào uy tín và chất lượng của nhà sản xuất sản phẩm/nhà cung ứng dịch vụ đó,
nhãn hiệu đó sẽ là dấu hiệu để người tiêu dùng quyết định chọn mua một sản
phẩm nào đó mà không hề do dự bởi họ đã biết hàng hóa hàng hoá mang nhãn
hiệu đó đã được chứng minh về mặt chất lượng, chắc rằng hàng hoá mang
nhãn hiệu đó được sản xuất bởi cùng một nhà sản xuất hoặc có liên quan đến
nhau và hoàn toàn tin tưởng vào hàng hóa của nhà sản xuất đó. Như vậy, chỉ
cần nhìn vào nhãn hiệu hàng hóa, người tiêu dùng có thể cho rằng sản phẩm
mang nhãn hiệu hàng hóa đều có cùng nguồn gốc hoặc ngay cả khi đã xác
định được hai sản phẩm mang nhãn hiệu đó được sản xuất bởi các nhà sản
xuất khác nhau thì họ cũng sẽ cho rằng có mối liên hệ nào đó giữa các nhà sản
xuất này. Điều này không có nghĩa là nhãn hiệu nhất thiết phải thông báo cho
người tiêu dùng về người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm chí là
người bán sản phẩm hay người trực tiếp cung ứng dịch vụ. Chỉ cần sao cho
người tiêu dùng có thể tin tưởng vào doanh nghiệp nhất định, là bên có trách
nhiệm đối với sản phẩm được bán ra hay dịch vụ được cung ứng mang nhãn

9



hiệu, chịu trách nhiệm về hàng hoá và dịch vụ mà không nhất thiết phải có
biết cụ thể về doanh nghiệp đó.
1.1.3. Điều kiện bảo hộ
Một dấu hiệu để được bảo hộ như một nhãn hiệu cần đáp ứng hai điều
kiện, điều kiện cần là dấu hiệu đó thuộc trong các đối tượng được bảo hộ với
danh nghĩa nhãn hiệu và điều kiện đủ là dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt.
(i) Các dấu hiệu được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu:
Như đã được đề cập trong định nghĩa về nhãn hiệu trong Hiệp định
TRIPs hay Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, có rất nhiều dấu hiệu có
khả năng được bảo hộ như một nhãn hiệu như “từ ngữ, tên người,hình ảnh,
chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng
hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa”(Định nghĩa về nhãn hiệu trong
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ), “tên riêng, các chữ cái, chữ số,
các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc mầu cũng như tổ hợp bất kỳ của các
dấu hiệu đó” (Hiệp định TRIPs). Trong quy định pháp luật sở hữu trí tuệ của
các quốc gia, không có khái niệm dấu hiệu như thế nào được bảo hộ dưới
danh nghĩa nhãn hiệu, mà hầu hết các quốc gia đều liệt kê các dấu hiệu có thể
được bảo hộ và các dấu hiệu không được phép bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn
hiệu. Trong đó các dấu hiệu thuộc các trường hợp sau được xem xét như điều
kiện cần để bảo hộ như một nhãn hiệu:
- Dấu hiệu là chữ cái, chữ số: Đây là dạng dấu hiệu phổ biến được bảo
hộ như một nhãn hiệu bởi tính đơn giản, dễ nhận biết và dễ ghi nhớ của nó.
Tuy nhiên, không phải dấu hiệu bao gồm chữ cái, chữ số nào cũng được bảo
hộ như một nhãn hiệu. Thông thường các quốc gia sẽ tự đưa ra những dấu
hiệu loại trừ không được bảo hộ do chưa đạt được điều kiện đủ là có khả năng
phân biệt hàng hóa dịch vụ của các tổ chức cá nhân khác nhau. Điều này cũng
đã được quy định rõ ràng trong Hiệp định TRIPs như một quy định mở cho

10



từng quốc gia. Ví dụ như ngay tại Việt Nam, qua mỗi thời kỳ khác nhau, quy
định về yếu tố loại trừ này cũng khác nhau. Trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ
ra đời, tức trước năm 2005, dấu hiệu chỉ bao gồm ba chữ cái không phát âm
được thành từ sẽ không được bảo hộ như một nhãn hiệu, trong khi đó, quy
định hiện nay cho phép dấu hiệu chỉ cần có hai chữ cái phát âm được thành từ
đã có khả năng được bảo hộ như một nhãn hiệu.
- Dấu hiệu hình vẽ, hình ảnh: Để được bảo hộ như một nhãn hiệu, dấu
hiệu hình vẽ phải được trình bày một cách đặc biệt, tạo ra ấn tượng và có khả
năng nhận biết cho người tiêu dùng. Các hình, hình học hai chiều đơn giản
như hình chữ nhật, hình vuông, hình tam giác…hoặc hình quá rắc rối, phức
tạp, khó ghi nhớ và khó nhận biết thì cũng không đảm bảo điều kiện được bảo
hộ như một nhãn hiệu. Điều này được quy định tại pháp luật của hầu hết các
nước trong đó có Việt Nam. Hình ảnh là những gì chúng ta thấy được thông
qua thị giác rồi sau đó chuyển về não giúp ta cảm nhận nhận hình ảnh đó một
cách chân thực nhất từ đó đưa ra những phản xạ, cảm nhận về hình ảnh mà ta
vừa thu nhận. Mặc dù pháp luật có quy định hình ảnh là một trong những đối
tượng được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu, tuy nhiên trong thực tiễn,
những hình ảnh thực tế của thực thể sống sẽ được bảo hộ.
- Dấu hiệu kết hợp giữa các yếu tố chữ và hình được thể hiện dưới một
hoặc nhiều màu sắc. Ngay cả trường hợp các yếu tố chữ và hình tách biệt
không đáp ứng đủ điều kiện về tính phân biệt nhưng sự kết hợp của hai hay
nhiều dấu hiệu hình và dấu hiệu chữ đó tạo thành một tổng thể ấn tượng, dễ
nhận biết và có khả năng phân biệt thì vẫn có thể được bảo hộ như một nhãn
hiệu. Thông thường sự kết hợp đó đều đi kèm với màu sắc để tạo ấn tượng
khác biệt. Qua đó, có thể thấy yếu tố màu sắc là không thể thiếu được đối với
nhãn hiệu hàng hóa bởi ưu điểm gây ấn tượng đối với thị giác con người, qua
đó nó giúp cho nhãn hiệu thực hiện được chức năng phân biệt của mình. Tuy


11


nhiên nếu một yếu tố chỉ bao gồm màu sắc sẽ không được bảo hộ như một
nhãn hiệu theo quy định của hầu hết các nước.
- Dấu hiệu phi truyền thống như hình ba chiều, màu sắc, âm thanh hay
mùi vị: Hình ba chiều được hiểu như một dạng hình ảnh đặc biệt thông qua kĩ
thuật xử lý hình ảnh, làm cho hình ảnh trở nên sắc nét, sống động hơn. Khi
nhìn vào hình ảnh đó, người ta có thể cảm nhận được vật thể một cách rõ ràng
hơn so với hình vẽ và hình ảnh thông thường. Thông thường hình ảnh ba
chiều được bảo hộ trên thực tế là dấu hiệu hình dáng hàng hóa hoặc bao bì sản
phẩm. Tuy nhiên, dấu hiệu hình dáng hàng hóa thường không đáp ứng điều
kiện đủ để bảo hộ nhãn hiệu bởi thiếu tính phân biệt, do vậy chỉ được bảo hộ
trong trường hợp đã được sử dụng rộng rãi và được đông đảo người tiêu dùng
thừa nhận tính phân biệt của nó. Ví dụ như trường hợp hình ảnh ba chiều của
chai sản phẩm nước súc miệng “LISTERINE” của Reckitt Benckiser đã được
bảo hộ ở Việt Nam sau khi chứng minh được dấu hiệu đã đạt được khả năng
phân biệt thông qua thực tế sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam
không chấp nhận bảo hộ dấu hiệu chỉ đơn thuần là màu sắc như mảng màu,
vệt màu mà không được kết hợp với dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình hoặc
không được thể hiện thành dạng dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình, đặc biệt
Việt Nam chưa có cơ chế bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, mùi vị. Giới hạn này đã
được cho phép trong Hiệp định TRIPs như quyền lựa chọn của các quốc gia
thành viên tùy vào điều kiện và năng lực bảo hộ của các quốc gia đó. Trên
thực tế tại các quốc gia phát triển, các dấu hiệu phi truyền thống như dấu hiệu
âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều (ở Đức, Hoa Kỳ, Australia), mùi vị
(ở Australia) đã được xem xét để bảo hộ như một nhãn hiệu khi chúng đã đạt
được khả năng phân biệt thông qua thực tiễn sử dụng. Tuy nhiên, việc xác
định và bảo hộ các dấu hiệu này như một nhãn hiệu hàng hóa là vô cùng khó
khăn đặc biệt là trong quá trình thẩm định tính phân biệt của dấu hiệu.


12


Như đã đề cập trên, ngoài việc liệt kê các dấu hiệu có khả năng được
bảo hộ như một nhãn hiệu, pháp luật của các quốc gia cũng cụ thể hóa các đối
tượng không được phép bảo hộ như nhãn hiệu căn cứ theo Điều 6ter Công
ước Paris, bao gồm:
- Các dấu hiệu trùng/tương tự gây nhầm lẫn với các quốc huy, quốc kỳ
hoặc các biểu tượng quốc gia khác của các nước thành viên của Liên minh,
các dấu hiệu kiểm tra xác nhận hoặc bảo đảm chính thức được các nước đó
chấp nhận, và bất cứ sự bắt chước nào mang đặc điểm huy hiệu;
- Các dấu hiệu trùng/tương tự gây nhầm lẫn với các huy hiệu, cờ, các
biểu tượng khác, tên viết tắt, tên đầy đủ của các tổ chức quốc tế liên Chính
phủ mà có một hoặc nhiều nước thành viên của Liên minh tham gia.
(ii) Điều kiện về khả năng phân biệt của nhãn hiệu.
- Khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu:
Khả năng tự phân biệt của một dấu hiệu được xác định thông qua các
yếu tố cấu thành nên dấu hiệu đó. Nếu dấu hiệu được tạo thành từ một hoặc
một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một
tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ, dấu hiệu đó được coi là có khả năng phân
biệt tự thân.
Một dấu hiệu dễ nhận biết là dấu hiệu bao gồm các yếu tố đủ để tác
động vào nhận thức, tạo ấn tượng và có khả năng lưu trữ trong trí nhớ hay
tiềm thức của con người [9]. Bởi vậy, khi ta đặt dấu hiệu này bên cạnh các
dấu hiệu khác thì chúng ta đều có thể dễ dàng ghi nhớ và phân biệt.
Một dấu hiệu có thể có nhiều yếu tố độc đáo, mới lạ, hoàn toàn không
giống những gì đã có nhưng lại có quá nhiều chi tiết rắc rối, phức tạp gây ra
sự khó khăn cho người tiếp cận và dẫn đến việc rất khó để nhận biết và phân
biệt cũng như ghi nhớ nội dung và cấu trúc của dấu hiệu cũng không đáp ứng

điều kiện khả năng tự phân biệt để được bảo hộ như một nhãn hiệu.

13


Hầu như các nước đều không có quy định liệt kê các dấu hiệu có tính
phân biệt tự thân, thay vì đó, các quy định pháp luật đều đưa ra các trường hợp
bị coi là không có tính phân biệt, trong đó có các trường hợp điển hình sau:
- Dấu hiệu đơn giản, thiếu tính độc đáo: Hình và hình học đơn giản,
chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng;
- Dấu hiệu mô tả hàng hóa, dịch vụ: Dấu hiệu có thể chính là biểu
tượng, hình vẽ, tên gọi thông thường của hàng hóa dịch vụ, hay dấu hiệu chỉ
thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng,
tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác liên quan đến
hàng hóa, dịch vụ được đăng ký. Theo quy định của pháp luật của hầu hết các
nước, dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa dịch vụ cũng không được
bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu.
- Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể
kinh doanh. Bất cứ chủ thể kinh doanh nào cũng gắn liền với hình thức pháp
lý nhất định và lĩnh vực kinh doanh riêng, tuy nhiên rất nhiều chủ thể khác
nhau được thành lập dưới cùng một hình thức pháp lý và hoạt động trong
cùng lĩnh vực kinh doanh do vậy dấu hiệu mô tả thức pháp lý, lĩnh vực kinh
doanh không thể thực hiện được chức năng phân biệt hàng hóa/dịch vụ cùng
loại được cung cấp bởi các chủ thể kinh doanh khác nhau.
Điều 15 Hiệp định TRIPS ghi rõ: "Trong trường hợp bản thân các dấu
hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành
viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt
đạt được thông qua việc sử dụng". Từ quy định này của Hiệp định TRIPs, có
thể nhận thấy Hiệp định TRIPs đã để ngỏ cho các quốc gia phần quy định về
điều kiện bảo hộ trong trường hợp này, tức nếu như các dấu hiệu không có khả

năng phân biệt tự thân, pháp luật quốc gia có thể thừa nhận khả năng một số
dấu hiệu nêu trên có thể dần dần đạt được khả năng phân biệt nhờ quá trình đầu
14


tư tiếp thị và truyền thông của doanh nghiệp. Việt Nam cũng đã có quy định
tương tự trong Luật SHTT, theo quy định của Điều 74 khoản 2 mục a, b Luật
SHTT năm 2005, dấu hiệu có khả năng phân biệt thông qua sử dụng bao gồm
dấu hiệu "đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn
hiệu", "được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến". Ví dụ,
nhãn hiệu “BIA HÀ NỘI”, “VANG ĐÀ LẠT” hoặc nhãn hiệu “SM58” của
hãng micro SHURE nổi tiếng, rõ ràng các dấu hiệu này tự thân nó hoàn toàn
không có khả năng phân biệt, tuy nhiên các nhãn hiệu này đã đạt được khả
năng phân biệt qua một quá trình sử dụng đến trước thời điểm nộp đơn đăng ký
và do vậy, đã được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam.
- Khả năng phân biệt khách quan của nhãn hiệu so với các đối tượng
được bảo hộ khác của quyền SHTT:
Để thực hiện được một cách đầy đủ hai chức năng chính của nhãn hiệu
là chức năng chỉ dẫn nguồn gốc và chức năng phân biệt, dấu hiệu xem xét
phải không được trùng hoặc tương tự ở mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu
hoặc một đối tượng của quyền SHTT cùng đóng vai trò là các chỉ dẫn thương
mại đã tồn tại trước đó như kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
nổi tiếng, đặc biệt là trùng/tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại. Việc
đánh giá khả năng gây nhầm lẫn giữa các nhãn hiệu, giữa nhãn hiệu với các
đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp được căn cứ vào phạm vi bảo
hộ của các đối tượng đó, đặc biệt là bản thân các dấu hiệu và hàng hoá/dịch
vụ mang các dấu hiệu đó.
Như vậy, bất cứ nhãn hiệu nào rơi vào các trường hợp nêu trên đều
không đáp ứng đủ điều kiện để được bảo hộ như một nhãn hiệu. Việc quy
định như vậy tránh việc trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn cho người

tiêu dùng; đảm bảo khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất,

15


nhà cung cấp dịch vụ này với các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ khác
trên thị trường, hay chỉ dẫn đền nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ.
1.2. Khái niệm, chức năng, điều kiện bảo hộ tên thương mại
1.2.1. Khái niệm:
Mặc dù việc bảo hộ tên thương mại được chú trọng ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới bởi ý nghĩa của tên thương mại là không thể phủ nhận, tuy
nhiên khác với nhãn hiệu, tên thương mại chưa có được một khái niệm pháp
lý chung trong bất kỳ điều ước quốc tế đa phương nào.
Văn bản pháp lý đa phương duy nhất đề cập đến việc bảo hộ tên thương
mại là Công ước Paris, tuy nhiên ngoài quy định tại Điều 8: “Tên thương mại
được bảo hộ ở tất cả các nước thành viên của Liên minh mà không bị bắt
buộc phải nộp đơn hoặc đăng ký, bất kể tên thương mại đó có hay không là
một phần của một nhãn hiệu hàng hoá.”[7], không có bất cứ quy định cụ thể
về thế nào là tên thương mại hay bảo hộ tên thương mại dưới cơ chế như thế
nào, điều kiện bảo hộ ra sao. Do vậy, việc quy định về bảo hộ tên thương mại
rất khác nhau ở các quốc gia thành viên.
Việc bảo hộ nói chung có nghĩa là tên thương mại của một doanh
nghiệp không thể được sử dụng bởi doanh nghiệp khác dù việc sử dụng đó
với tư cách một tên thương mại hay nhãn hiệu dịch vụ; và bảo hộ tên thương
mại cũng có nghĩa là không có một doanh nghiệp nào khác có thể sử dụng tên
tương tự với tên thương mại có khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng.
Khái niệm tên thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam tại
Điều 4 Luật SHTT 2009 lại khá chi tiết:
“Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh

doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Khu vực kinh doanh quy định tại khoản này là khu vực địa lý nơi chủ thể

16


kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.”
Định nghĩa trên có ưu điểm là nêu bật được bản chất của tên thương
mại, đó chính là tên gọi để phân biệt các chủ thể kinh doanh khác nhau trong
cùng lĩnh vực kinh doanh và khu vực kinh doanh đồng thời bao quát được cả
điều kiện bảo hộ của tên thương mại.
Như vậy, tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong
hoạt động kinh doanh dùng nhận biết chính nó đối với các chủ thể kinh doanh
khác, và được bảo hộ khi nó có khả năng phân biệt các chủ thể kinh doanh
khác nhau trong cùng khu vực và lĩnh vực kinh doanh.
1.2.2. Chức năng
(i) Chức năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ
thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Tên thương mại cũng giống như nhãn hiệu ở chức năng phân biệt
nhưng nó phân biệt chính bản thân chủ thể kinh doanh với các chủ thể kinh
doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh chứ không phải sản
phẩm/dịch vụ mà chủ thể kinh doanh đó cung cấp. Mặc dù chức năng này
cũng xuất phát từ đặc tính cung cấp thông tin đã được đề cập trong phần trên,
tuy nhiên đây lại là chức năng chính của tên thương mại. Chức năng này
chính là tiêu chí chính để phân biệt tên thương mại với các chỉ dẫn thương
mại khác như nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
Để đạt được chức năng phân biệt này, tên thương mại xác lập vị thế của
nó thông qua việc sử dụng trên thực tế. Tên thương mại cũng được coi là một
trong những biểu trưng của doanh nghiệp, bởi chính nhờ vào đó mà công
chúng phân biệt được doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác, lĩnh vực hoạt

động của doanh nghiệp, thậm chí tên thương mại còn là biểu hiện cho danh
tiếng và uy tín của cả doanh nghiệp. Ví dụ như trong lĩnh vực hàng không,
chất lượng và uy tín gắn liền với tên gọi Tổng Công ty hàng không Việt Nam
(Vietnam Airlines) hay trong lĩnh vực viễn thông, Tập đoàn viễn thông quân
17


đội Việt Nam (Viettel), luôn là những cái tên hàng đầu được nhắc đến tại thị
trường Việt Nam.
(ii) Chức năng chỉ dẫn thương mại, cụ thể là chỉ dẫn nguồn gốc hàng
hóa/dịch vụ.
Tên thương mại là tên gọi của cá nhân, tổ chức dùng trong hoạt động
kinh doanh. Vì vậy, tên thương mại luôn gắn liền với sự tồn tại của cá nhân và
tổ chức có hoạt động kinh doanh và nó chính là phương tiện giao tiếp đầu tiên
giữa doanh nghiệp và các chủ thể khác. Như đã phân tích trong phần chức năng
của nhãn hiệu, tên thương mại cũng là một trong những chỉ dẫn thương mại,
bởi tên gọi của chủ thể kinh doanh luôn được sử dụng để gắn trên sản phẩm và
biểu trưng của chủ thể cung cấp hàng hóa/dịch vụ nhằm chỉ dẫn cho người tiêu
dùng về nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ. Tuy vậy, chức năng này
của tên thương mại được thực hiện theo một cách hoàn toàn khác với nhãn
hiệu. Nếu như nhãn hiệu chỉ đưa đến một chỉ dẫn khá mơ hồ về nguồn gốc của
hàng hóa/dịch vụ thì tên thương mại lại đem đến thông tin cụ thể hơn rất nhiều
về cơ sở kinh doanh chịu trách nhiệm về sản phẩm. Đôi khi người tiêu dùng chỉ
có nhận thức rằng hai sản phẩm mang nhãn hiệu đó là cùng một nguồn gốc và
với kinh nghiệm tiêu dùng sản phẩm trước, người tiêu dùng đưa ra quyết định
lựa chọn sản phẩm mới này. Còn đối với tên thương mại, người tiêu dùng hoàn
toàn có thể căn cứ vào tên thương mại được gắn trên sản phẩm để xác định một
cách cụ thể là hàng hóa dịch vụ đó của cơ sở sản xuất kinh doanh nào. Chức
năng này xuất phát từ đặc tính của tên thương mại chính là thông tin đến các
chủ thể kinh doanh khác cũng như người tiêu dùng về lĩnh vực kinh doanh của

mình. Ví dụ khi đề cập đến VNPT, một tên thương mại quen thuộc, khi nói đến
cái tên này, ngay lập tức các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng đều
nhận biết được lĩnh vực kinh doanh chính của doanh nghiệp là viễn thông với
uy tín và chất lượng đã được chứng minh. Do vậy, khi lựa chọn nhà cung cấp

18


dịch vụ viễn thông, cái tên VNPT luôn là một trong những lựa chọn hàng đầu.
Chức năng này càng đặc biệt có ý nghĩa trong trường hợp người tiêu dùng chưa
từng biết đến sản phẩm được đưa ra thị trường, tuy nhiên chỉ cần tin tưởng vào
uy tín của doanh nghiệp cung ứng ra thị trường và nhận biết nguồn gốc của sản
phẩm thông qua tên thương mại là đã đủ để đưa ra quyết định tiêu dùng. Chính
vì lẽ đó, việc tạo lập, duy trì và phát triển một tên thương mại có vai trò vô
cùng lớn lao đối với doanh nghiệp.
1.2.3. Điều kiện bảo hộ
Như phân tích ở trên, tên thương mại là tên gọi của chủ thể kinh doanh
thực hiện chức năng chính là phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương
mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh
doanh. Để thực hiện được chức năng này, tên thương mại phải trước hết phải
đáp ứng điều kiện của một tên gọi đồng thời phải có khả năng phân biệt, cụ
thể như sau.
(i) Dấu hiệu có khả năng bảo hộ như một tên thương mại:
Mặc dù không có quy định rõ ràng về việc lựa chọn tên gọi để sử dụng
như một tên thương mại, pháp luật nhiều nước mặc định hầu như bất cứ dấu
hiệu nào cũng có thể được chủ thể kinh doanh lựa chọn làm tên thương mại,
chủ thể kinh doanh có thể lựa chọn dùng tên riêng của mình, nhưng cũng có
thể tự do lựa chọn một cái tên tự đặt nào đó. Nguyên tắc “tự do lựa chọn” này
tồn tại ở Anh, Nhật, Mỹ và các nước mà hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng
của các quốc gia này. Tuy vậy, chế độ pháp lý về bảo hộ tên thương mại của

các nước này cũng ghi nhận một số hạn chế đối với việc lựa chọn tên thương
mại. Ví dụ không cho phép sử dụng một số từ hay cụm từ riêng biệt (ví dụ,
“hoàng gia”, “quốc tế” v. v.) hoặc bắt buộc phải đưa vào thành phần tên
thương mại những chỉ dẫn về tính chất, phạm vi trách nhiệm của chủ thể kinh
doanh (ví dụ: “trách nhiệm hữu hạn”, “cổ phần’, “hợp danh” v.v.) [16]. Tên

19


thương mại ở Việt Nam được hình thành theo nguyên tắc “tự do lựa chọn”.
Các cá nhân, tổ chức hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn chỉ dẫn thương mại
là tên thương mại mà dưới nó họ sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, cũng tương tự như các quốc gia áp dụng nguyên tắc này, Việt
Nam cũng có những giới hạn nhất định về các đối tượng không được bảo hộ
với danh nghĩa như một tên thương mại được quy định tại Điều 77 Luật
SHTT 2009: “Tên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoặc chủ thể khác không liên quan đến hoạt động kinh doanh thì
không được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại”.
Mục đích chính của quy định này là loại trừ khả năng nhầm lẫn từ phía
người tiêu dùng đối với thương nhân mang tên thương mại và các chủ thể
không liên quan tới hoạt động kinh doanh như đã nêu trên.
Quy định này của pháp luật cũng dẫn tới một hệ quả là tên gọi của các
cơ quan, tổ chức này không được bảo hộ dưới hình thức tên thương mại cho
dù cơ quan, tổ chức này có thể vẫn tiến hành một số hoạt động kinh doanh để
tìm kiếm nguồn tài chính cho hoạt động của mình (Hội Luật gia có thể tiến
hành tư vấn pháp luật, VCCI có thể tiến hành dịch vụ xúc tiến thương mại,...).
Trong trường hợp này các cơ quan, tổ chức này có thể thành lập Doanh
nghiệp trực thuộc để tiến hành kinh doanh hoặc đăng ký tên gọi của mình
dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá nếu tên gọi đó đáp ứng được các tiêu chuẩn
bảo hộ nhãn hiệu.
Ngược lại với nguyên tắc “tự do lựa chọn”, luật của hầu hết các nước

trong hệ thống luật châu Âu và những nước chịu ảnh hưởng của hệ thống
pháp luật này thì lại không cho phép chủ thể kinh doanh là cá nhân tự do
lựa chọn tên thương mại. Cụ thể là chủ thể kinh doanh bắt buộc phải tiến
hành hoạt động kinh doanh dưới tên riêng của chính mình phù hợp với

20


nguyên tắc được gọi là nguyên tắc “chân lý”[16]. Yêu cầu này cũng được
áp dụng đối với công ty hợp danh khi mà tên thương mại của công ty hợp
danh được quy định phải bao gồm tên thật của tất cả các thành viên sáng
lập công ty hoặc tên thật của ít nhất một thành viên với bổ sung thêm từ “...
và công ty (company)”. Việc áp dụng nguyên tắc “chân lý” không mang
tính nhất quán bởi khi công ty được chuyển giao cho một chủ sở hữu mới
thì tên thương mại cũ cũng có thể được chuyển giao. Đối với các loại hình
công ty khác như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, nguyên tắc
“chân lý” trên không được áp dụng. Tuy nhiên, thay vào đó tên thương mại
của những công ty này nhất thiết phải nêu được phạm vi hoạt động (lĩnh
vực kinh doanh) và loại hình tổ chức. Điều này đồng nghĩa với việc tên
thương mại phải phản ảnh một cách trung thực bản chất thực hoạt động
kinh doanh của chủ thể mang tên thương mại.
Mặc dù có nhiều nguyên tắc lựa chọn tên thương mại, kéo theo quy
định về điều kiện dấu hiệu có khả năng được bảo hộ như tên thương mại ở các
quốc gia cũng khác nhau. Tuy nhiên, theo quan điểm riêng của tác giả, bởi
trước hết tên thương mại là một tên gọi nên dấu hiệu xem xét bảo hộ như một
tên thương mại phải là tập hợp các chữ phát âm được thành từ, có thể bao
gồm chữ cái và chữ số.
(ii) Điều kiện về tính phân biệt của tên thương mại:
Tương tự như nhãn hiệu, khả năng phân biệt của tên thương mại cũng
được tách ra thành khả năng phân biệt tự thân của tên thương mại và khả năng

phân biệt khách quan so với các đối tượng đã được bảo hộ khác thuộc quyền
sở hữu công nghiệp.
- Khả năng phân biệt tự thân của tên thương mại:
Tên thương mại để được bảo hộ cần thực hiện đúng chức năng tên gọi
của nó, do vậy nó buộc phải chứa thành phần tên riêng. Như vậy, tên thương

21


mại cần tạo ra hoặc gợi lên cho người tiêu dùng ấn tượng chính xác về chủ thể
kinh doanh mang tên thương mại chứ không phải ấn tượng về một lĩnh vực
kinh doanh, một ngành nghề chung chung hay một loại hình hoạt động kinh
doanh nào đó. Cũng với cách hiểu như vậy, một tên thương mại mang tính mô
tả, đặc biệt là mô tả nguồn gốc, xuất xứ (tên địa danh) cũng sẽ không thể được
bảo hộ như một tên thương mại. Theo quy định này thì các tên gọi như "Công
ty TNHH thương mại dịch vụ Việt Nam" hay "Công ty sách Hà Nội" sẽ
không được bảo hộ vì lý do như đã nêu trên.
Nghiên cứu cho thấy, để xác định tính phân biệt của một dấu hiệu chữ
có thể phân chia dấu hiệu hành các dạng:
Từ tự đặt: Thông thường đây là các từ không có nghĩa, có thể đơn giản
là ghép từ các chữ cái đầu của các nhà đồng sáng lập như PEPSI, KODAK
hay EXXON.
Từ tuỳ hứng: Đây là những từ thông thường có nghĩa tuy nhiên không
có bất kỳ sự liên hệ nào với lĩnh vực kinh doanh hay hoạt động kinh doanh
của chủ thể, do vậy không mang tính mô tả, ví dụ như APPLE, cái tên được
dùng để gọi một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh điện thoại.
Từ mô tả: là các từ có nghĩa chỉ đặc điểm, tính chất, loại hình kinh
doanh thậm chí chính hoạt động của doanh nghiệp, ví dụ như: trách nhiệm
hữu hạn, thương mại, kinh doanh v..v.
Thuật ngữ chung: là những từ có thể có nghĩa hoặc không có nghĩa,

mặc dù không mang tính mô tả, nhưng được sử dụng phổ biến rộng rãi đến
mức đã trở thành tên gọi chung của sản phẩm/dịch vụ:

walkman,

aspirin,

paracetamol....
Dấu hiệu gợi ý: là những từ mà khi liên hệ với một hoạt động kinh
doanh nhất định đòi hỏi trí tưởng tượng, suy nghĩ hay nhận thức để đạt được
một kết luận về bản chất của hoạt động kinh doanh đó,ví dụ: SMARTHINK

22


cho một công ty chuyên kinh doanh các thiết bị thông minh dùng trong gia
đình. Đó thông thường là một dấu hiệu được gợi ý từ một thuật ngữ mô tả, ví
dụ trong trường hợp này là hai dấu hiệu “SMART” có nghĩa là thông minh và
“THINK” có nghĩa là “suy nghĩ” - một từ gần như đồng âm khác nghĩa với từ
“THING” có nghĩa là “đồ, vật”, do vậy nó ngay lập tức cho ý niệm nào đó về
hoạt động của công ty.
Có thể nhận thấy các dấu hiệu rơi vào các trường hợp là từ tự đặt, từ
tuỳ hứng hay dấu hiệu gợi ý là hoàn toàn có khả năng phân biệt tự thân.
Tương thích với pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới, quy định
tại Khoản 1, Điều 78 của Luật SHTT 2009 cũng nêu rõ: tên thương mại được
coi là có khả năng phân biệt nếu đáp ứng các điều kiện trong đó có điều kiện
tên thương mại phải chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết
đến rộng rãi do sử dụng;
Do hầu như các chủ thể kinh doanh là doanh nghiệp nên phần lớn tên
thương mại đều là tên doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 2014 cũng có những

quy định riêng về tên doanh nghiệp khá tương thích với các quy định trong
Luật sở hữu trí tuệ về tên thương mại, trong đó, tên doanh nghiệp phải viết
được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phát âm được và
phải có hai thành tố: a) Thành tố thứ nhất; Loại hình doanh nghiệp, bao gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn …, công ty cổ phần, ….; công ty hợp danh…;
doanh nghiệp tư nhân…; b) Thành tố thứ hai: Tên riêng của doanh nghiệp,
ngoài ra tên doanh nghiệp cũng không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên
doanh nghiệp khác đã được đăng ký. Hai doanh nghiệp có thể có thành phần
thứ nhất – gọi là thành phần mô tả trùng nhau, nhưng sự khác biệt trong thành
phần tên riêng của doanh nghiệp đã có thể tạo thành khả năng phân biệt của
tên doanh nghiệp đó. Ví dụ, hai công ty “Công ty TNHH tư vấn đầu tư Thành
Phát” và “Công ty TNHH tư vấn đầu tư Vạn Xuân”, mặc dù thành phần mô tả
loại hình doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là trùng
23


nhau nhưng lại có thành phần tên riêng phân biệt được với nhau “Thành Phát”
và “Vạn Xuân”, chính thành phần này khiến cho người khác có thể phân biệt
giữa hai doanh nghiệp này với nhau. Nếu một tên thương mại hay tên doanh
nghiệp được coi là có khả năng phân biệt, nó được bảo hộ thông qua sử dụng,
cho dù đã đăng ký hay chưa. Nếu không có khả năng phân biệt, có có thể
được bảo hộ sau khi có được khả năng phân biệt thông qua sử dụng, ví dụ như
“Tổng công ty thuốc lá Việt Nam”. Khả năng phân biệt của tên thương mại
trong trường hợp này được xác định bằng việc công chúng công nhận tên
thương mại đó như một dẫn chiếu đến một nguồn gốc kinh doanh đặc biệt.
- Khả năng phân biệt khách quan của tên thương mại so với các đối
tượng đã được bảo hộ khác thuộc quyền sở hữu trí tuệ.
Thông thường việc xác định tính phân biệt khách quan của tên thương
mại chỉ được thực hiện trên cơ sở các quyền sở hữu công nghiệp đã bảo hộ
trước đó đối với các đối tượng đồng thời thực hiện chức năng chỉ dẫn thương

mại, đó là tên thương mại của chủ thể khác, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Việc
quy định khả năng phân biệt này là loại trừ khả năng nhầm lẫn giữa chính các
chủ thể kinh doanh với nhau cũng như khả năng nhầm lẫn cho người tiêu
dùng về nguồn gốc hàng hoá/dịch vụ mang các dấu hiệu này. Nếu như khả
năng phân biệt khách quan của nhãn hiệu nói chung được xem xét trên cơ sở
hàng hoá hay dịch vụ cùng loại thì khả năng phân biệt tên thương mại lại
được xem xét trên cơ sở lĩnh vực kinh doanh. Và nếu như khả năng phân biệt
khách quan của nhãn hiệu được xem xét trên phạm vi quốc gia hay khu vực
(trường hợp nhãn hiệu cộng đồng Châu Âu) thì tính phân biệt của tên thương
mại chỉ giới hạn trong một khu vực địa lý tuỳ vào thực tế phạm vi hoạt động
của chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó.
Pháp luật Việt Nam cũng đã cụ thể hoá căn cứ xác định khả năng phân
biệt khách quan của tên thương mại tại Khoản 2,3 Điều 78 Luật SHTT 2009:
Tên thương mại được coi là có khả năng phân biệt nếu đáp ứng các
điều kiện sau đây:
24


- Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại
mà người khác đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh;
- Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của
người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại
đó được sử dụng.
Như vậy, nếu một dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với một
số đối tượng đã được bảo hộ quyền SHCN như tên thương mại của chủ thể
khác, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước cho chủ thể khác sẽ bị
coi là không có tính phân biệt và không đáp ứng điều kiện để được bảo hộ
như một tên thương mại.
1.3. Nguyên nhân và nội dung xung đột giữa nhãn hiệu và tên
thương mại

1.3.1. Nguyên nhân xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại
Nguyên nhân trực tiếp để xảy ra xung đột rất đa dạng, nhưng như đã đề
cập ở trên xung đột cũng chỉ là biểu hiện bên ngoài của mẫu thuẫn không thể
giải quyết mà khởi thủy chính là từ sự khác biệt. Khi các đối tượng cùng thực
hiện một chức năng và cần tiếp cận đến cùng một mục tiêu đó chính là chỉ
dẫn thương mại cho người tiêu dùng, sự khác biệt về lợi ích và mục tiêu đã
góp phần làm nảy sinh các xung đột. Khi một bên cản trở việc thực hiện mục
đích của bên kia, tình trạng xung đột xuất hiện.
Đặt nhãn hiệu và tên thương mại trong mối quan hệ xung đột theo
cách hiểu trên thì nguyên nhân xung đột giữa hai đối tượng này chính là
nguồn gốc của sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa chủ thể nắm giữ tên thương
mại và chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong khi đó, mâu thuẫn chính là sự thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất xét trong mối quan
hệ giữa nhãn hiệu và tên thương mại chính là sự tương đồng giữa hai đối
tượng này và sự đấu tranh đặt trong bối cảnh này chính là sự khác biệt
trong cơ chế bảo hộ hai đối tượng này.
25


×