Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE
CƠ GIỚI Ở VIỆT NAM
TRỊNH THỊ MINH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ
giới ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ
Văn Cương. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của trường Viện Đại học Mở Hà Nội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Viện Đại học Mở Hà Nội xem xét để tôi
có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Trịnh Thị Minh



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ
của nhiều cá nhân tổ chức.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô đã tham gia giảng dạy chương trình đào
tạo thạc sĩ ngành Luật Kinh tế tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Văn Cương đã tận tình giảng dạy,
hỗ trợ và định hướng nghiên cứu trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài luận văn
thạc sĩ này.
Hà Nội, ngày 08 tháng 12 năm 2017
Học viên

Trịnh Thị Minh


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

DN

Doanh nghiệp

2

DNBH


Doanh nghiệp bảo hiểm

3

KDBH

Kinh doanh bảo hiểm

4

TLBH

Trục lợi bảo hiểm


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 2
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 3
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .......................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 3
3. Phạm vi, nội dung nghiên cứu đề tài ................................................................. 3
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .............................................................. 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 4
6. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 5
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ
GIỚI VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI ................. 6
1.1. Khái quát về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ...................................................... 6
1.1.1. Khái niệm xe cơ giới và bảo hiểm vật chất xe cơ giới ............................ 6

1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm vật chất xe cơ giới ............................................ 7
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới ................................................ 9
1.2. Khái quát về pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới ..................................... 11
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới ................................ 11
1.2.2. Cấu trúc pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới .................................. 12
1.2.3. Các nguyên tắc pháp lý trong điều chỉnh quan hệ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới ........................................................................................................... 14
1.3. Nội dung bảo hiểm vật chất xe cơ giới ......................................................... 19
1.3.1. Đối tượng bảo hiểm ............................................................................. 19
1.3.2. Phạm vi bảo hiểm ................................................................................ 19
1.3.3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm ............................. 21
1.3.4. Giám định và bồi thường tổn thất ........................................................ 22
1.4. Lịch sử hình thành pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở Việt Nam ........ 25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 30
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT VỚI XE CƠ GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY...................................................................................................................... 31


2.1. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm vật chất với xe cơ giới ở Việt Nam ......... 31
2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật bảo hiểm vật chất với xe cơ giới ở Việt
Nam hiện nay ................................................................................................ 31
2.1.2. Những nhược điểm của pháp luật kinh doanh bảo hiểm nói chung và
pháp luật bảo hiểm vật chất với xe cơ giới nói riêng ở Việt Nam hiện nay ..... 33
2.2. Thực tiễn thi pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay .......... 45
2.2.1. Về ban hành quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới... 45
2.2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm vật
chất xe cơ giới ở Việt Nam ............................................................................ 63
2.2.3. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm
vật chất xe cơ giới và nguyên nhân ................................................................ 69

Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI Ở VIỆT NAM ....... 80
3.1. Phương hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm vật chất xe
cơ giới ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 80
3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới 80
3.1.2. Những nguyên tắc và các yêu cầu đặt ra trong hoàn thiện pháp luật về
bảo hiểm vật chất xe cơ giới .......................................................................... 81
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ............. 83
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật kinh doanh bảo hiểm và các
văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành ........................................... 83
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên
quan .............................................................................................................. 87
3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ........... 88
3.3.1. Về phía các cơ quan nhà nước ............................................................. 88
3.3.2. Về phía Hiệp hội bảo hiểm ................................................................... 89
3.3.3. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm..................................................... 90
3.3.4. Về phía khách hàng ............................................................................. 93
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 96
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 98


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong mỗi nền kinh tế, giao thông vận tải đóng vai trò then chốt trong vận
chuyển, lưu thông hàng hoá, con người. Kinh tế càng phát triển thì đi liền với đó là
nhu cầu về giao thông vận tải ngày càng tăng cao. Ngày nay, các hình thức vận
chuyển rất đa dạng và phong phú, có thể bằng đường sắt, đường thuỷ, đường hàng
không và đường bộ. Trong đó, nhu cầu sử dụng đường bộ và đi kèm theo là xe cơ
giới đã trở nên phổ biến. Việc sử dụng xe cơ giới để làm phương tiện đi lại của các

cá nhân, các tổ chức và các DN cũng ngày càng tăng lên. Xe cơ giới là một trong
những loại phương tiện có tính cơ động cao, tính việt giã tốt và tham gia triệt để vào
quá trình đi lại và vận chuyển. Việc phát triển, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông
đường bộ là một trong những ưu tiên của Chính phủ các nước.
Xe cơ giới là một phương tiện không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại ngày
nay của con người. Nó vừa là phương tiện đi lại vừa là công cụ để kinh doanh. Cuộc
sống ngày càng phát triển, đời sống của người dân càng nâng cao thì nhu cầu về
phương tiện này lại càng lớn. Hiện nay, số lượng xe máy và số lượng ô tô ở việt
Nam tăng lên nhanh chóng. Với khí hậu mưa nhiều, bão lũ, úng ngập xảy ra liên tục
như ở Việt Nam, giao thông phức tạp, chuyện hỏng xe, chết máy, xước sơn vỏ xe,
tai nạn giao thông xảy ra là điều không hiếm. Điều này gây thiệt hại không nhỏ về
kinh tế cho chủ nhân của chiếc xe máy hay xe ô tô.
Nguyên lý vận hành của xe cơ giới dựa trên sức mạnh của động cơ với tốc độ
nhanh, dẫn đến xác suất rủi ro cao, kéo theo số vụ tai nạn giao thông ngày càng
nhiều với mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê của Cục
cảnh sát giao thông, trong số các loại phương tiện giao thông đường bộ thì mức độ
gây tai nạn giao thông ở xe cơ giới cao hơn các loại phương tiện khác. Xe cơ giới
vẫn là loại phương tiện có giá trị tài sản lớn đối với các cá nhân, tổ chức và các DN,
do vậy khi gặp tai nạn thiệt hại mà chủ xe phải gánh chịu sẽ rất lớn, ảnh hưởng đến
quá trình đi lại và kinh doanh, gây khó khăn về mặt tài chính cho họ, nên việc bù
đắp bằng tài chính kịp thời là một nhu cầu hết sức cần thiết.
1


Trong khi đó, xe cơ giới tham gia giao thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu. Ở nước ta hiện nay các tuyến
đường bộ chất lượng vẫn chưa được cao, hơn nữa điều kiện thời tiết diễn biến phức
tạp do vậy nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông vẫn còn cao.
Mặt khác xe cơ giới chịu ảnh hưởng rất nhiều vào trình độ cũng như là ý thức
chấp hành luật lệ giao thông của lái xe. Xem xét nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn

giao thông đường bộ trong các năm cho thấy, nguyên nhân do lỗi của chủ phương
tiện chiếm tới 70%, 30% còn lại là do các nguyên nhân khác. Hầu hết các lái xe
chạy quá tốc độ, phóng nhanh, vượt ẩu…
Những điều trên thực sự là mối đe doạ lớn về tính mạng và tài sản của các chủ
phương tiện tham gia giao thông nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Trước tình hình tai nạn giao thông gia tăng cả về số vụ và số người chết, gây
tổn thất không nhỏ về người và tài sản cho các chủ phương tiện tham gia giao
thông. Tính chung cả nước, hàng năm thiệt hại về tài sản do tai nạn giao thông lên
hàng trăm tỷ đồng, nếu tính bình quân thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường
lên tới hàng chục triệu đồng. Đây là con số không nhỏ đối với cá nhân các chủ
phương tiện. Khi tai nạn giao thông xảy ra, các chủ xe không chỉ thiệt hại về vật
chất, con người có thể phải đền bù thiệt hại cho các nạn nhân trong vụ tai nạn. Điều
đó đã tạo ra sức ép tài chính lẫn tinh thần đối với các chủ xe và những người điều
khiển phương tiện. Vì vậy, để khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, đảm bảo ổn định
tài chính cho các chủ phương tiện tham gia giao thông, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất
xe cơ giới đã ra đời và được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
hoạt động tại Việt Nam. Đây là biện pháp tốt nhất để bù đắp thiệt hại sau khi rủi ro
xảy ra. Biện pháp này được thực hiện dựa trên cơ sở người tham gia đóng góp một
khoản tiền nhỏ gọi là phí bảo hiểm để hình thành quỹ tài chính bảo hiểm từ đó sẽ
bồi thường cho những thiệt hại về vật chất của bản thân chiếc xe đó khi chúng
không may gặp phải rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm.
Như vậy, có thể khẳng định rằng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một tất yếu
khách quan, là sự cần thiết và quan trọng đối với các chủ xe trong quá trình sử dụng
và điều khiển xe của mình, góp phần khắc phục tình trạng khó khăn về mặt tài chính
2


khi không may gặp tai nạn, đồng thời nhanh chóng khôi phục xe về trạng thái ban
đầu để tiếp tục hoạt động kinh doanh.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở

Việt Nam” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài đã được nghiên cứu ở một số luận văn luận án như sau:
- Lại Thái Hùng (2010), Hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn (GMIC), thực trạng và giải pháp,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Lao động xã hội. Đề tài này chủ yếu nghiên
cứu về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong một phạm vi công ty (công ty
cổ phần bảo hiểm Thái Sơn (GMIC)).
- Nguyễn Văn Thuấn (2011), Tình hình trục lợi nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex - Thực trạng và giải pháp, Khóa
luận tốt nghiệp. Đề tài này chủ yếu nghiên cứu về tình hình bảo hiểm vật chất xe cơ
giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex.
- Nguyễn Thị Thủy (2009), “Xây dựng và phát triển pháp luật bảo hiểm tài
sản tại Việt Nam”. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Lý Minh Triết (2006), “Pháp luật bảo hiểm tài sản - Thực trạng áp dụng và
hướng hoàn thiện”. Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
3. Phạm vi, nội dung nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, lý luận về bảo hiểm xe vật chất
xe cơ giới và các quy định của pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở Việt Nam;
Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
- Nghiên cứu khái quát về bảo hiểm vật chất xe cơ giới gồm: khái niệm, đặc
điểm, vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới,
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới và
việc áp dụng các quy định của pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở Việt Nam.
3



- Về không gian: Nghiên cứu pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
- Về thời gian: Số liệu khảo sát thực tiễn từ năm 2012 đến tháng 6/2017.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về bảo hiểm xe
vật chất xe cơ giới và pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới cùng quá trình thực
hiện các quy định của pháp luật trên thực tiễn, Luận văn hướng đến mục đích làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn cho các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tài sản
nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng ở Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, đề tài nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận về bảo hiểm vật chât xe cơ giới và pháp luật về
bảo hiểm vật chât xe cơ giới.
- Phân tích đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật từ
đó chỉ ra những ưu điểm, những bất cập, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện pháp luật bảo hiểm vật chât xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm vật chât xe cơ
giới, Luận văn đưa ra những định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về bảo hiểm tài sản nói chung và bảo hiểm vật
chât xe cơ giới nói riêng ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là
các phương pháp phân tích và tổng hợp, các phương pháp định tính, định lượng và
các công cụ thống kê, khảo sát thực tế. Cụ thể phương pháp nghiên cứu của từng
chương như sau: Chương 1: Tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử cụ thể,
liệt kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống để đưa ra những vấn đề lý luận
cơ bản về người đại diện theo pháp luật; Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp luật học so sánh và phương pháp thống kê để làm

4


rõ các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện về người đại diện
theo pháp luật; Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp liên hệ, tổng hợp, hệ thống
và đối chiếu để đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật người đại diện theo pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm vật chất xe cơ giới và pháp luật
về bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm
vật chất xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo
hiểm vật chất xe cơ giới ở Việt Nam

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
1.1. Khái quát về bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Khái niệm xe cơ giới và bảo hiểm vật chất xe cơ giới
* Khái niệm xe cơ giới
Xe cơ giới là xe chạy trên đường bộ, bằng động cơ của chính nó và có ít nhất
một chỗ ngồi. Xe cơ giới bao gồm rất nhiều loại xe khác nhau: xe mô tô hai bánh,
ba bánh, xe ô tô chở người, chở hàng hóa, vừa chở người vừa chở hành hóa và các
loại xe chuyên dụng khác. Xe cơ giới được cấu tạo từ nhiều chi tiết, bộ phận máy
móc thiết bị khác nhau như động cơ, hệ thống nhiên liệu, hệ thống điện, hệ thống

truyền lực, hệ thống lái, hệ thống phanh và hộp số, bộ phận thân vỏ…
Theo Luật giao thông đường bộ và tại khoản 3 điều 3 Nghị định:
103/2008/NĐ-CP ngày 16/09/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự của Chủ xe cơ giới có giải thích:
“Xe cơ giới” bao gồm xe ô tô, máy kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp,
lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích an ninh, quốc
phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo), xe mô
tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe
cơ giới dùng cho người tàn tật) có tham gia giao thông.”
Như vậy, có thể hiểu xe cơ giới là tất cả các loại xe hoạt động trên đường bộ
bằng chính những động cơ của mình và được phép lưu hành trên lãnh thổ của mỗi
quốc gia. Xe cơ giới chiếm một số lượng lớn và có một vị trí quan trọng trong
ngành giao thông vận tải, ngành kinh tế có ảnh hưởng tới tất cả các ngành, nó là sợi
dây kết nối các mối quan hệ lưu thông hàng hóa giữa các vùng, giữa trong và ngoài
nước, tạo điều kiện phát triển kinh tế và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân.
Qua thực tế ở Việt Nam hiện nay cho thấy: Xe cơ giới có ưu điểm là tính cơ
động cao và linh hoạt, có thể di chuyển trên địa bàn phức tạp, tốc độ cao và chi phí
tương đối thấp. Tuy nhiên vấn đề an toàn đang là vấn đề lớn được đặt ra đối với loại
6


hình giao thông này. Qua số liệu thống kê cho thấy số vụ tai nạn giao thông ngày
càng tăng nhanh kể cả về quy mô lẫn mức độ nghiêm trọng. Số vụ tai nạn giao
thông ở nước ta vẫn còn ở mức cao, bình quân 01 năm có tới khoảng 12000 người
chết và khoảng 9500 người bị thương. Nguyên nhân là do có sự chủ quan, thực hiện
kém quyết liệt các biện pháp hạn chế tai nạn giao thông của Chính phủ, một phần
do lượng xe cơ giới tăng nhanh trong năm gần đây trong khi hệ thống đường xá bị
quá tải, xuống cấp, một phần cũng do ý thức của người tham gia giao thông…
* Khái niệm bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một sản phẩm bảo hiểm trong loại hình bảo

hiểm xe cơ giới. bảo hiểm vật chất xe cơ giới là quan hệ bảo hiểm được thiết lập
trên cơ sở hợp đồng có đối tượng bảo hiểm chính thiệt hại về vật chất xe cơ giới
nguyên nhân từ rủi ro khách quan (Bảo hiểm tài sản) và nó thuộc hình thức bảo
hiểm tự nguyện.
Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe nhằm mục đích được bồi thường cho
những thiệt hại vật chất đối với xe của mình do rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm gây
nên. Vì vậy, để có thể trở thành đối tượng được bảo hiểm, xe cơ giới phải đảm bảo
các điều kiện về mặt kĩ thuật và pháp lý cho sự lưu hành, đó là: Được cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy đăng ký, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn
kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Thứ nhất, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới do các DNBH thực hiện nhằm mục đích kinh
doanh. Bởi vậy quan hệ bảo hiểm này được điều chỉnh bằng Luật kinh doanh bảo
hiểm và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Tài chính. Đây là đặc điểm để phân biệt
với các loại hình bảo hiểm do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh. Tại
điều 1 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định về phạm vi điều chỉnh như sau:
“1. Luật này điều chỉnh tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, xác định
quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
2. Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền
gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh”.
7


Thứ hai, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm phi nhân thọ:
Tại khoản 18, điều 3 Luật KDBH có giải thích: Bảo hiểm phi nhân thọ là loại
nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác
không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Chủ thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm là DNBH phi
nhân thọ.
Thứ ba, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một trong những sản phẩm bảo hiểm

thuộc nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới.
Bảo hiểm xe cơ giới có 4 sản phẩm bảo hiểm cơ bản là: Bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối
với hàng hóa vận chuyển trên xe; Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới; Bảo hiểm
người ngồi trên xe và tai nạn lái phụ xe…Trong đó bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới là loại hình bắt buộc. Bất kỳ người nào sở hữu ô tô hoặc
xe máy đều phải mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của nhà nước, để
đảm bảo quyền lợi cho bên thứ 3 nếu chẳng may chủ xe lái xe gây thiệt hại cho họ.
Còn 3 loại bảo hiểm còn lại là do khách hàng tự nguyện tham gia mua hoặc không
mua bảo hiểm. Người sở hữu xe tự lựa chọn công ty bảo hiểm và hình thức bảo
hiểm để mua bảo hiểm. Ngoài ra, chủ xe còn có thể tham gia gói dịch vụ bảo hiểm
nâng cao, cung cấp phạm vi bảo vệ toàn diện nhất thông qua các điều khoản mở
rộng (ví dụ: lựa chọn Ga ra sửa chữa, bảo hiểm mất cắp bộ phận, bảo hiểm xe
bị ngập nước…) để có thể an tâm trọn vẹn nhất khi tham gia giao thông.
Theo pháp luật hiện hành:“Đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ
bảo hiểm xe cơ giới, DNBH phi nhân thọ, chi nhánh nước ngoài phải đăng ký quy
tắc, điều khoản, biểu phí với Bộ Tài chính trước khi triển khai. Bộ Tài chính có
trách nhiệm công bố mức phí bảo hiểm thuần tương ứng với điều kiện và trách
nhiệm bảo hiểm cơ bản làm căn cứ để xác định phí bảo hiểm1”
Thứ tư, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại bảo hiểm tài sản
Đối tượng bảo hiểm là những thiệt hại về vật chất đối xe cơ giới khi gặp rủi ro
gây ra tổn thất về giá trị cho chính chủ sở hữu chiếc xe đó.

1

Điểm a khoản 4 điều 39 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP

8



Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hợp đồng bảo hiểm tài sản (hợp
đồng bồi thường). Do đó, nguyên tắc chung và các quy định của pháp luật về hợp đồng
bảo hiểm tài sản sẽ được áp dụng cho các hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới trên
nguyên tắc bồi thường theo tổn thất thực tế và theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị
tài sản bảo hiểm, số tiền mà DNBH bồi thường cho người được bảo hiểm không vượt
quá giá trị tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Thứ năm, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại bảo hiểm mang tự nguyện
Theo chế độ bảo hiểm này việc giao kết hay không giao kết hợp đồng các bên
có quyền tự do lựa chọn, các bên có quyền thoả thuận về điều kiện bảo hiểm, mức
phí bảo hiểm. Đặc điểm này giúp phân biệt với các hợp đồng bảo hiểm bắt buộc nói
chung và hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trong bảo hiểm xe cơ giới nói riêng. Hợp
đồng bảo hiểm bắt buộc: là hợp đồng được thiết lập trên cơ sở pháp luật quy định.
Việc tham gia bảo hiểm và ký kết hợp đồng bảo hiểm là nghĩa vụ mà pháp luật quy
định đối với các pháp nhân, thể nhân có đối tượng bảo hiểm thuộc diện bảo hiểm
bắt buộc. Nghĩa vụ giao kết hợp đồng bảo hiểm bắt buộc còn được áp dụng đối với
một số DNBH. Trong bảo hiểm bắt buộc pháp luật quy định điều kiện bảo hiểm,
mức phí bảo hiểm và các bên có nghĩa vụ phải chấp hành.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Thứ nhất, bảo hiểm vật chất xe cơ giới góp phần ổn định kinh doanh, ổn định
cuộc sống cho các chủ phương tiện.
Chủ phương tiện giao thông vận tải khi tham gia bảo hiểm sẽ nộp cho nhà bảo
hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, các khoản phí này sẽ hình thành quỹ tiền
tệ tập trung. Như vậy, khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty
bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình, sử dụng nguồn quỹ bảo hiểm
tiến hành bồi thường cho chủ xe một cách nhanh chóng để giúp chủ xe có điều kiện
nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn, giảm bớt gánh nặng tài chính do không
phải chi ra những khoản chi phí bất thường như chi phí cẩu kéo, chi phí sửa chữa,
thay thế…
Điều đó sẽ giúp cho các chủ phương tiện giao thông vận tải khắc phục được
những khó khăn về mặt tài chính, giúp họ ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh

của mình. Đây cũng là tác dụng đặc trưng của bảo hiểm.
9


Thứ hai, bảo hiểm vật chất xe cơ giới góp phần ngăn ngừa và đề phòng hạn
chế tổn thất
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình mà khách hàng chỉ có thể nhận được
khi gặp rủi ro dẫn đến tổn thất. Nếu rủi ro xảy ra dẫn đến tổn thất thuộc phạm vi bảo
hiểm thì nhà bảo hiểm sẽ bồi thường cho khách hàng. Mục tiêu lớn nhất của hoạt
động KDBH là tạo ra lợi nhuận. Theo đó, các DNBH muốn có lợi nhuận cao thì chi
phí phải giảm, mà khoản chi cho bồi thường là khoản chi lớn nhất của các DN. Trên
cơ sở đó các DN đã đề ra các biện pháp nhằm giúp cho khách hàng của mình đề
phòng và hạn chế tổn thất có thể xảy ra. Các DNBH phối hợp với các cơ quan chức
năng tăng cường giáo dục cho nhân dân ý thức chấp hành luật lệ giao thông, tham
gia vào các hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về an toàn giao
thông đến từng người dân. Ngoài ra, các DNBH còn dùng quỹ nhàn rỗi của mình
vào việc xây dựng, cải tạo hệ thống đường xá, lắp đặt các hệ thống đèn tín hiệu, dải
phân cách nhằm hạn chế các tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra.
Thứ ba, bảo hiểm vật chất xe cơ giới góp phần tăng thu cho ngân sách nhà
nước và tạo thêm việc làm cho người lao động
Như chúng ta đã biết, người tham gia bảo hiểm đóng một khoản phí bảo hiểm
tạo thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn, ngoài việc chi trả, bồi thường nguồn quỹ này
còn là một nguồn vốn lớn đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Ở một số nước phát
triển như Mỹ, nguồn vốn mà các DNBH đầu tư vào nền kinh tế thường cao, đứng
thứ hai chỉ sau các ngân hàng thương mại và cung cấp khoảng 10% tổng quỹ đầu tư
của thị trường tiền tệ và vốn. Từ đó bảo hiểm đã góp phần tăng thu cho ngân sách
nhà nước và tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt tình
trạng thất nghiệp cho xã hội.
Thứ tư, bảo hiểm vật chất xe cơ giới góp phần huy động vốn để đầu tư phát
triển kinh tế xã hội

Khi mà khách hàng đóng một khoản phí cho các DNBH lập thành một quỹ
chung. Trong khi đó, số tiền này tạm thời nhàn rỗi vì tạm thời chưa phải chi trả cho
các tổn thất xảy ra. Cùng với đó, thị trường tiền tệ thì luôn biến động, lạm phát xảy
ra cao. Vì vậy, số tiền này sẽ được đem đi đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật quy
10


định cho các DNBH. Nhờ vậy, xã hội có nguồn vốn để đầu tư vào phát triển kinh tế,
tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
1.2. Khái quát về pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Do vai trò quan trọng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với đời sống xã
hội mà các Nhà nước đều sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong đó có loại hình bảo hiểm xe cơ giới
nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng. Tuy vậy, tuỳ thuộc vào góc độ
tiếp cận mà khái niệm pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới được diễn đạt, được
hiểu khác nhau.
Dưới góc độ chung nhất (nghĩa rộng): Pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ
giới là tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm vật chất
xe cơ giới. Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới điều
chỉnh các nhóm quan hệ:
- Quan hệ về tổ chức hoạt động của chủ thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm vật
chất xe cơ giới;
- Quan hệ hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới;
- Quan hệ quản lý nhà nước về bảo hiểm vật chất xe cơ giới;
Hiểu theo nghĩa hẹp: Pháp luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới bao gồm các
qui phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thu, nộp phí bảo hiểm và bồi thường bảo
hiểm giữa DNBH và người tham gia bảo hiểm. Hiểu theo nghĩa hẹp này, pháp luât
về bảo hiểm vật chất xe cơ giới chính là pháp luật về hợp đồng về bảo hiểm vật chất

xe cơ giới.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn sẽ chủ yếu tập trung nghiên cứu pháp luật
về bảo hiểm vật chất xe cơ giới theo nghĩa hẹp.
Pháp luật bảo hiểm vật chất cơ giới theo nghĩa hẹp được điều chỉnh bởi các
văn bản sau đây:
- Luật Kinh doanh bảo hiểm 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000
- Nghị định 45/2007/NĐ-CP 27/03/2007 Quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Kinh doanh bảo hiểm
11


- Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 của Chính phủ quy định chế độ
tài chính với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
- Luật sửa đổi bổ sung Luật kinh doanh bảo hiểm 61/2010/QH12 ngày
24/11/2010
- Nghị định 123/2011/NĐ-CP ngày 28/12/2011 quy định chi tiết một số điều
của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và sửa đổi bổ
sung nghị định 45/2007/NĐ-CP
- Thông tư 124/2012/TT-BTC ngày 30/07/2012 của Bộ Tài chính Hướng dẫn
thi hành nghị định 45/2007/NĐ-CP và Luật Sửa đổi bổ sung luật Kinh doanh bảo
hiểm
- Thông tư 125/2012/TT-BTC ngày 30/07/2012 Quy định về các khoản mục
chi phí trong kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
- Thông tư 232/2012/TT-BTC 28/12/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn kế toán
áp dụng với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, doanh nghiệp tái bảo hiểm và chi
nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài
- Thông tư 194/2014/TT-BTC ngày 17/12/2014 của Bộ Tài chính sửa đổi bổ
sung một số điều của Thông tư 124/2012/TT-BTC và Thông tư 125/2012/TT-BTC
Các văn bản pháp luật nói trên đã quy định được một số nội dung của pháp
luật về bảo hiểm vật chất xe cơ giới.

1.2.2. Cấu trúc pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới
*Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của quy phạm pháp luật thì pháp luật bảo
hiểm vật chất xe cơ giới chia thành các bộ phận gồm:
- Nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh chung cho mọi quan hệ bảo hiểm
thương mại;
Chẳng hạn, các quy chung về hợp đồng bảo hiểm (tại Mục 1, chương 2 từ điều
12 đến điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm), những quy định này được áp dụng
chung cho các loại hợp đồng bảo hiểm trong đó có hợp đồng bảo hiểm tài sản như:
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm; Hình thức hợp đồng bảo hiểm; Thời điểm phát
sinh trách nhiệm bảo hiểm; Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; Quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm; Trách nhiệm cung cấp
thông tin; Giải thích hợp đồng bảo hiểm; Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu; Chấm dứt

12


hợp đồng bảo hiểm và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm; Thời
hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; Thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi
thường và các vấn đề khác có liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm
như: Cách thức xử lý khi có thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm; Sửa đổi, bổ
sung hợp đồng bảo hiểm; Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm; Trách nhiệm trong
trường hợp tái bảo hiểm; Thời hiệu khởi kiện…
- Nhóm các quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh cho các quan hệ bảo hiểm tài
sản. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành đã có quy định có tính đặc thù dành
riêng cho hợp đồng bảo hiểm tài sản tại Mục 3, chương 2 (từ điều 40 đến điều 51)
Luật Kinh doanh bảo hiểm bao gồm: Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản; Số
tiền bảo hiểm; Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị; Hợp đồng bảo hiểm tài sản
dưới giá trị; Hợp đồng bảo hiểm trùng; Tổn thất do hao mòn tự nhiên hoặc do bản
chất vốn có của tài sản; Căn cứ bồi thường; Hình thức bồi thường; Giám định tổn
thất; Trách nhiệm chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn; Các quy định về an toàn; Không

được từ bỏ tài sản được bảo hiểm…
- Nhóm các quy phạm pháp luật đặc thù điều chỉnh cho quan hệ bảo hiểm vật
chất xe cơ giới. Chẳng hạn vấn đề phải đăng ký Quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo
hiểm đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới; các yêu
cầu đặt ra trong xây dựng Quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm; Thủ tục đăng ký
sản phẩm bảo hiểm với Bộ Tài chính trước khi triển khai thực hiện.
*Căn cứ vào nội dung các quan hệ mà pháp luật bảo hiểm vật chất xe cơ giới
điều chỉnh thì có các bộ phận pháp luật sau:
- Bộ phận pháp luật quy định về chủ thể trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm vật
chất xe cơ giới;
- Bộ phận pháp luật quy định về nội dung và hình thức của hợp đồng bảo hiểm
vật chất xe cơ giới;
- Bộ phận pháp luật quy định quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm vật
chất xe cơ giới;
- Bộ phận pháp luật quy định về trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện hợp đồng
bảo hiểm vật chất xe cơ giới;
13


- Bộ phận pháp luật quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh trong bảo hiểm
vật chất xe cơ giới;
- Bộ phận pháp luật quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong bảo hiểm vật
chất xe cơ giới;
- Bộ phận pháp luật quy định về các vấn đề khác có liên quan đến bảo hiểm
vật chất xe cơ giới ở Việt Nam như: trách nhiệm của Bộ tài chính, Bộ Công An, Bộ
Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và truyền thông và các Bộ cơ quan ngang
Bộ khác có liên quan…
* Căn cứ vào nguồn pháp luật điều chính thì Pháp luật bảo hiểm vật chất xe
cơ giới gồm:
- Nhóm các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật chuyên ngành

như: Luật KDBH và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành;
- Nhóm các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật khác có liên quan.
1.2.3. Các nguyên tắc pháp lý trong điều chỉnh quan hệ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một dạng quan hệ bảo hiểm tài sản trong lĩnh
vực bảo hiểm thương mại do vậy nó phải tuân thủ các nguyên tắc pháp lý trong bảo
hiểm thương mại nói chung, ngoài ra còn tuân thủ các nguyên tắc pháp lý cơ bản
trong bảo hiểm hiểm tài sản nói riêng, cụ thể:
Một là, nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
Trong thực tế, các luật về hợp đồng của tất cả các quốc gia trên thế giới đều
đặt ra nguyên tắc trung thực. Nguyên tắc trung thực, hợp tác được quán triệt rất rõ
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam (Điều 3 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015). Tuy nhiên,
tùy thuộc vào đặc trưng của các quan hệ hợp đồng mà pháp luật có những quy định
phù hợp với đặc thù của loại hợp đồng đó. Hợp đồng bảo hiểm tài sản nói chung và
hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng được ký kết và thực hiện thông qua
việc các DNBH thu phí bảo hiểm của bên mua bảo hiểm và cam kết bồi thường cho
bên mua bảo hiểm nếu đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tổn thất. Mục đích mà
bên mua bảo hiểm muốn đạt được trong quan hệ này là sẽ được DNBH đứng ra cam
kết thực hiện việc chi trả tài chính trong tương lai, cụ thể, nếu đối tượng bảo hiểm
14


gặp rủi ro dẫn đến tổn thất thì cam kết này sẽ được thực hiện. Để tuân thủ nguyên
tắc này, Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam quy định: Nếu bên mua bảo hiểm
không cung cấp các thông tin theo yêu cầu của DNBH hoặc cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật để được bảo hiểm thì DNBH có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng
bảo hiểm2. Về phía DNBH, pháp luật quy định: “Nghiêm cấm các hành vi thông tin,
quảng cáo sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động, điều kiện bảo hiểm, làm tổn
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm”3; Sự trung thực tuyệt đối
của DNBH còn được thể hiện ở việc giải thích rõ ràng, đầy đủ về quyền lợi và nghĩa

vụ của bên mua bảo hiểm trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt là các điều
khoản loại trừ bảo hiểm. Đồng thời, DNBH cũng phải trung thực tuyệt đối trong
việc giải quyết bồi thường, không vì lợi ích của DNBH mà bồi thường thấp hơn
phần trách nhiệm mà lẽ ra, DNBH phải gánh chịu. Theo quy định của Luật Kinh
doanh bảo hiểm4:
Hai là, nguyên tắc bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi đối với tài sản bảo hiểm.
Nguyên tắc này xuất phát từ nhu cầu bảo vệ tài sản của người mua bảo hiểm.
Bởi vì, mục đích của bên mua bảo hiểm khi tiến hành bảo hiểm cho tài sản của
mình là nhằm chuyển giao sang cho DNBH một phần hoặc toàn bộ tổn thất xảy ra
đối với tài sản khi gặp rủi ro; nói một cách khác, bên mua bảo hiểm thực hiện việc
bảo vệ quyền lợi vật chất của mình thông qua hợp đồng bảo hiểm. Gắn liền với sự
tồn tại của tài sản là quyền sở hữu của chủ tài sản - quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với tài sản5.
Đối với bảo hiểm tài sản nói chung và hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới
nói riêng, quyền lợi bảo hiểm phải tính toán được về mặt giá trị, tức chúng ta có thể
định giá được tài sản. Trong một số trường hợp, mặc dù các bên không định giá
được chính xác giá trị của tài sản thì cũng phải dựa vào những tiêu chí nhất định để
xác định giá trị tài sản, những tiêu chí này phải được Nhà nước hoặc các tổ chức
định giá hoạt động hợp pháp thừa nhận. Đối với những tài sản mà các bên không
2

Xem khoản 2, Điều 19, Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Điểm d, khoản 4, điều 10 Luật kinh doanh bảo hiểm
4
Xem khoản 1 Điều 19, Luật Kinh doanh bảo hiểm.
5
Giáo trình bảo hiểm, Trường Đại học Tài chính kế toán Hà Nội, Nxb Tài chính, năm 2000, tr. 35
3

15



thể định giá hoặc không có cơ sở để định giá như một số cổ vật, các tài sản là vật
đặc định quý hiếm... thông thường DNBH sẽ từ chối bảo hiểm vì không có căn cứ
để xác định trách nhiệm bồi thường hoặc nếu DNBH chấp nhận bảo hiểm thì cũng
dựa vào những yếu tố có căn cứ thực tế để định giá tài sản.
Ba là, nguyên tắc trách nhiệm bảo hiểm được giới hạn theo giá trị tài sản bảo hiểm.
Về nguyên tắc, tài sản chỉ có thể được bảo hiểm khi xác định được giá trị. Yếu
tố mà bên mua bảo hiểm tiến hành bảo hiểm cho tài sản là quyền lợi vật chất của
bên mua bảo hiểm đối với tài sản. Do vậy, giá trị của tài sản là yếu tố quyết định
đến việc thỏa thuận về số tiền bảo hiểm, tức giới hạn trách nhiệm của DNBH trong
quan hệ hợp đồng bảo hiểm tài sản nói chung và hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ
giới nói riêng.
Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm của DNBH trong bảo hiểm tài sản nói chung và
hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng khác với trách nhiệm bảo hiểm
trong bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Do vậy, trong bảo hiểm
con người và bảo hiểm trách nhiệm dân sự không có khái niệm bảo hiểm trên giá trị
hay bảo hiểm dưới giá trị.
Bốn là, nguyên tắc bảo hiểm tài sản nói chung và hợp đồng bảo hiểm vật chất
xe cơ giới nói riêng là quan hệ bồi thường
Trong kinh doanh bảo hiểm, khái niệm bồi thường được hiểu là một sự hoàn
trả tương xứng. Nguyên tắc bồi thường là nguyên tắc cơ bản chi phối việc chi trả
bảo hiểm trong mọi hợp đồng bảo hiểm tài sản nói chung và hợp đồng bảo hiểm vật
chất xe cơ giới nói riêng. Theo nguyên tắc này, khi tổn thất xảy ra, người được bảo
hiểm phải được đưa về trạng thái tài chính ban đầu như khi tổn thất chưa xảy ra.
Người được bảo hiểm không thể được trả tiển bảo hiểm nhiều hơn quyền lợi bảo
hiểm mà họ có. Điều đó cho thấy, người được bảo hiểm không được kiếm lời qua
con đường bảo hiểm, nhiều nhất người được bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường
đầy đủ, chứ không thể nhiều hơn mức độ bị tổn thất thực tế.
Nguyên tắc bồi thường được quán triệt đặc biệt trong một số trường hợp phức

tạp như: Bảo hiểm trên giá trị, bảo hiểm trùng, trường hợp người thứ ba phải chịu
trách nhiệm đối với tài sản bị thiệt hại. Cụ thể, pháp luật không cho phép DNBH và
16


bên mua bảo hiểm được giao kết hợp đồng bảo hiểm trên giá trị6. Hay trong trường hợp
bảo hiểm trùng, trách nhiệm bồi thường của các DN tham gia bảo hiểm căn cứ vào tỷ lệ
giữa số tiền đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng bảo hiểm
mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Trong mọi trường hợp thì tổng số tiền bồi thường từ
phía các DNBH không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản7 .
Để bảo vệ quyền lợi của DNBH trong quan hệ bảo hiểm tài sản nói chung và
hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng, cũng như phù hợp với nguyên tắc
bồi thường, pháp luật quy định trong trường hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại
cho người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu
người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình nhận bồi thường từ DNBH8. Liên quan
đến vấn đề này, pháp luật dân sự nói chung và pháp luật kinh doanh bảo hiểm nói
riêng đã có quy định về “thế quyền”. Thế quyền được coi là hệ quả của nguyên tắc
bồi thường.
Ngoài ra, để quán triệt nguyên tắc bồi thường trong bảo hiểm tài sản, pháp luật
quy định khi thiệt hại xảy ra, bên được bảo hiểm chỉ được phép đòi bồi thường một
trong hai quan hệ mà thôi. Cụ thể, nếu bên được bảo hiểm đã yêu cầu DNBH bồi
thường thiệt hại theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm thì không được phép yêu
cầu người gây ra thiệt hại phải bồi thường theo quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng mà phải chuyển quyền đòi bồi thường này sang DNBH.
Ngoài ra, pháp luật kinh doanh bảo hiểm còn quy định về nghĩa vụ áp dụng
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất đối với bên mua bảo hiểm.
Từ những phân tích trên cho thấy, khi chủ sở hữu tài sản đã mua bảo hiểm cho
tài sản thì có nghĩa họ đã chuyển giao những rủi ro của mình sang cho DNBH nếu
tài sản bảo hiểm gặp rủi ro trong phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất. Tuy nhiên, khi
mua bảo hiểm, rõ ràng bên mua bảo hiểm cũng không mong muốn tổn thất sẽ xảy ra

đối với tài sản, bởi vì, đó là những tài sản thuộc quyền sở hữu của họ. Như vậy, để
6

Xem khoản 1 Điều 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Xem Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
8
Xem khoản 1 Điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
7

17


thể hiện sự không mong muốn này, trong thời gian mua bảo hiểm, họ phải thực hiện
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có thể xảy ra đối với tài sản bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tài sản, pháp luật cho phép các bên tham gia giao kết hợp
đồng được ấn định một số tiền bảo hiểm cho tài sản, số tiền này về nguyên tắc phải
tương đương với giá trị của tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tương xứng này
không thể mang tính tuyệt đối, bởi vì, số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào
giá trị của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng, mà đặc trưng của tài sản thì
thường hao mòn (giảm giá trị) thông qua quá trình sử dụng. Do vậy, khi tổn thất xảy
ra, nếu không còn tài sản để xác định giá trị tại thời điểm xảy ra tổn thất, thông
thường DNBH sẽ căn cứ vào số tiền bảo hiểm để ấn định số tiền bồi thường và ở
một chừng mực nào đó, số tiền bồi thường dựa vào căn cứ này sẽ có lợi cho bên
được bảo hiểm. Trước thực tế này, rất nhiều trường hợp, người được bảo hiểm đã
nảy sinh ý đồ trục lợi thông qua việc để mặc cho tổn thất xảy ra nhằm hưởng tiền
bồi thường từ DNBH.
Để ngăn chặn ý đồ trục lợi của bên mua bảo hiểm, Điều 50 Luật Kinh doanh
bảo hiểm quy định:
- Người được bảo hiểm phải thực hiện các quy định về phòng cháy, chữa cháy,
an toàn lao động, vệ sinh lao động và những quy định khác của pháp luật có liên

quan nhằm bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm.
- DNBH có quyền kiểm tra các điều kiện đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo
hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề
phòng, hạn chế rủi ro.
- Trong trường hợp người được bảo hiểm không thực hiện các biện pháp đảm
bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm thì DNBH có quyền ấn định một thời hạn để
người được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn này mà các biện
pháp bảo đảm an toàn vẫn không được thực hiện thì DNBH có quyền tăng phí bảo
hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Như vậy, việc pháp luật cho phép DNBH được quyền đơn phương đình chỉ
thực hiện hợp đồng bảo hiểm là biện pháp ngăn chặn người được bảo hiểm thực
hiện ý đồ trục lợi của mình. Ngoài ra, liên quan đến nghĩa vụ đề phòng, hạn chế tổn
18


thất đối với tài sản bảo hiểm của người được bảo hiểm, pháp luật còn ngăn chặn
mục đích trục lợi trong quan hệ bảo hiểm tài sản thông qua quy định người được
bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm, trừ trường hợp, người được bảo
hiểm từ bỏ tài sản là nhằm để tránh tổn thất chung, vì cứu người hoặc trong trường
hợp khẩn cấp… Quy định không được phép từ bỏ tài sản là xuất phát từ yêu cầu bảo
vệ tài sản để tránh tổn thất xảy ra, dẫn đến việc DNBH phải chịu trách nhiệm bồi
thường từ hành vi vô trách nhiệm đối với tài sản bảo hiểm của người được bảo
hiểm. Đồng thời, quy định này cũng nhằm tránh tình trạng lợi dụng rủi ro để hủy
hoại tài sản nhằm mục đích trục lợi của bên được bảo hiểm.
1.3. Nội dung bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.3.1. Đối tượng bảo hiểm
Xe cơ giới được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ
bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ôtô, môtô và xe máy. Để đối phó với
những rủi ro tai nạn bất ngờ có thể xảy ra tổn thất cho mình, các chủ xe cơ giới
thường tham gia một số loại hình bảo hiểm, trong đó có bảo hiểm vật chất xe cơ

giới. Khác với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách
trên xe và đối với người thứ ba khác được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với
các chủ xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản và nó được
thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện.
Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại
vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Vì vậy, đối
tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được
phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Đối với xe môtô, xe máy thường các chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ vật
chất thân xe. Đối với xe ôtô, các chủ xe có thể tham gia toan gia toàn bộ hoặc cũng
có thể tham gia từng bộ phận của xe. Xe ôtô thường có các tổng thành: thân vỏ,
động cơ, hộp số…
1.3.2. Phạm vi bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông thường
gồm: Tai nạn do đâm va, lật đổ; Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá; Mất
19


×