Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn quận lê chân thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 83 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và nghĩa vụ theo quy định của Viện đại học mở Hà Nội.
Vậy tôi viết cam đoan này đề nghị Khoa Luật xét để tôi được bảo vệ Luận văn
tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Thanh Thảo


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp như ngày hôm nay, trước tiên tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn tới tập thể lãnh đạo Viện Đại học Mở Hà Nội cùng toàn thể các thầy giáo, cô
giáo trong nhà trường đã tổ chức, đào tạo khóa học này và đã cho tôi những kiến thức luật
kinh tế rộng hơn, sâu hơn để từ đó tôi có thể tiếp thu những kiến thức bổ ích phục vụ cho
công việc và cuộc sống.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Thị Thúy Lâm đã chỉ bảo, hướng
dẫn tận tình để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới Bảo hiểm xã hội quận Lê Chân TP Hải Phòng và
các cơ quan liên quan đã giúp cung cấp tài liệu tham khảo, số liệu thực tế để tôi hoàn thành
luận văn.
Sau cùng, tôi xin kính chúc các thầy, cô giáo và Ban giám hiệu nhà trường sức
khỏe, hạnh phúc, thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC


VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ....................................... 5
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm xã hội bắt buộc .......................... 5

1.1.1.

Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc ......................................................... 5

1.1.2.

Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................................... 7

1.2.

Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................................... 9

1.3.

Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ......................................... 12

1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................................. 12
1.3.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................................................... 14
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC .................................................................. 27
2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm .......................................................................... 27
2.2.

Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc .......................................................... 30


2.2.2.

Chế độ bảo hiểm thai sản ........................................................................ 37

2.2.3.

Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ............................................. 40

2.2.4. Chế độ hưu trí .............................................................................................. 45
2.2.5. Chế độ tử tuất .............................................................................................. 53
2.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc......................................................................... 56
2.4. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................... 59
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 62
CHƯƠNG 3 .......................................................................................................... 63
THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC Ở
QUẬN LÊ CHÂN – TP HẢI PHÒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ....................... 63
3.1.

Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở quận Lê Chân-

TP Hải Phòng ........................................................................................................ 63
3.1.1.

Những kết quả đạt được .......................................................................... 63


3.1.2.

Những hạn chế trong việc thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc


và nguyên nhân ..................................................................................................... 66
3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Quận Lê Chân ........................... 68
3.2.1.

Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................... 68

3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc ở quận Lê Chân –TP Hải Phòng. ................................................................... 70
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 74
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 75


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC

BHXH
BHXHBB

BẢO HIỂM Y TẾ

BHYT

BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP


BHTN

BỆNH NGHỀ NGHIỆP

BNN

NGƯỜI LAO ĐỘNG

NLĐ

NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ

NSDLĐ
ILO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống, không phải người lao động nào cũng may mắn có một cuộc
sống ổn định cũng như có đủ điều kiện về sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ lao
động hoặc đảm bảo cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngược
lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay
già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những
điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác… Khi rơi vào các
trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người không vì thế mà mất đi. Trái lại,
có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, để khắc
phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài
việc tự mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo trợ của cộng đồng và xã
hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác

nhau. Và một trong những hình thức đó chính là bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội xuất hiện đầu tiên ở Đức vào khoảng giữa thế kỷ XIX khi nền
công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ với một số chế độ bảo hiểm xã
hội mang tính bắt buộc. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang
các nước Mỹ Latinh, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc
lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê và dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản
của hệ thống An sinh xã hội và được xem như là một trong những quyền cơ bản của
con người.
Ở Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã hội được ban hành vào năm 2006, trong đó có
quy định cụ thể 5 chế độ bảo hiểm xã hội mang tính bắt buộc, đó là chế độ bảo hiểm
xã hội ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất. Sau
gần 10 năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, mâu
thuẫn và so với thực tế thì còn nhiều điểm chưa đáp ứng. Để khắc phục những hạn
chế, Quốc hội đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, có hiệu lực từ ngày
01/01/2016. Tuy nhiên, người lao động và người sử dụng lao động vẫn chưa nhận

1


thức được vai trò của BHXH nên vẫn còn hiện tượng nợ đọng cũng như trốn đóng
BHXH. Mặt khác, một số quy định về BHXH bắt buộc vẫn còn bất cập, chưa phù
hợp với thực tế.
Với mong muốn làm rõ hơn và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận cũng như
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật BHXH năm 2014
cũng như thực tiễn thực hiện thực tế tại địa phương quận Lê chân – nơi công tác, tác
giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn quận Lê
Chân- TP Hải Phòng” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong muốn góp
phần làm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở phạm vi, mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề
cập đến pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và các chế độ nói riêng, cụ
thể:
- Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS.Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình
luận pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí Luật học.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Sửa đổi Điều
60 Luật BHXH năm 2014 dưới góc nhìn quan hệ lao động tập thể”, Tạp chí dân chủ
và pháp luật.
- Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm hưu trí
đối với người cao tuổi”, Tạp chí chính trị.
- Bùi Sỹ Lợi (2015), “Tính ưu việt của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y
tế - thách thức trong triển khai và giải pháp bảo đảm an ninh xã hội”, Tạp chí Cộng
sản.
- TS. Nguyễn Hiền Phương (chủ biên, 2015), “Bình luận khoa học một số quy
định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,
Trường Đại học Luật Hà Nội.

2


- Lường Thanh Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực
tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
Những bài viết này tuy đã đề cập đến một số chế độ của bảo hiểm xã hội bắt
buộc và Luật BHXH năm 2014 như chế độ bảo hiểm thai sản, chế độ bảo hiểm xã
hội hưu trí song chủ yếu mới dừng lại ở việc đề cập các điểm mới hoặc về cách
hiểu, cách áp dụng các quy định của luật BHXH… chứ chưa có sự đánh giá một
cách toàn diện đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng như thực tiễn thực

hiện. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về việc thực hiện chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc ở quận Lê Chân – TP Hải Phòng. Vì vậy, đây sẽ là công
trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thi
hành trên địa bàn quận Lê Chân – TP Hải Phòng.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
1.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo
hiểm xã hội bắt buộc, thực trạng pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn thực hiện
các quy định của pháp luật tại địa phương từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc trong giai
đoạn hiện nay.
1.2. Phạm vi nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là một lĩnh vực rộng có thể được nghiên cứu dưới
nhiều hình thức và góc độ khác nhau với mức độ tiếp cận khác nhau. Trong luận
văn này, tác giả chủ yếu chỉ nghiên cứu dưới góc độ pháp lý và cụ thể ở một số khía
cạnh như đối tượng tham gia, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc, các chế độ bảo hiểm xã
hội bắt buộc và xử lý các vi phạm pháp luật về BHXH bắt buộc … Những nội dung
như giải quyết tranh chấp, quản lý bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ không thuộc phạm
vi nghiên cứu của luận văn.

3


4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Luật BHXH năm 2014 về bảo hiểm xã
hội bắt buộc và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên
cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội của một số nước là cơ sở cho sự so sánh với pháp
luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các

phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài như:
phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích…Các phương pháp này được
sử dụng để xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn đã làm sâu sắc và hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận về Bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
- Đánh giá một cách toàn diện thực trạng pháp luật về BHXH bắt buộc cũng
như thực tiễn thi hành các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn quận Lê
Chân - TP Hải Phòng.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được trình bày trong ba
chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật
về bảo hiểm xã hội bắt buộc
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam Hiện hành về pháp luật bảo hiểm
xã hội bắt buộc
- Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở quận
Lê Chân TP Hải phòng và một số kiến nghị.

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. Khái niệm và ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Mục đích để người lao động tham gia vào quan hệ lao động là để có thu nhập

đảm bảo cuộc sống cho mình và các thành viên trong gia đình. Khi họ gặp phải
những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống như tai nạn lao động, bệnh tật… hoặc đến
lúc về già dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng lao động thì nguồn thu nhập
thường xuyên đó cũng có nguy cơ bị mất hoặc bị giảm. Chính vì vậy, để ổn định
cuộc sống, NLĐ phải tìm các biện pháp đảm bảo thu nhập cho mình trong những
trường hợp rủi ro nói trên. Một trong các biện pháp đó là tham gia BHXH.
Hệ thống BHXH hình thành đầu tiên trên thế giới ở Đức dưới thời thủ tướng
Bismark với cơ chế ba bên là Nhà nước – giới chủ - giới thợ. Từ năm 1881 đến
1989, các chế độ BHXH bắt buộc lần lượt ra đời từ chế độ BHXH ốm đau, chế độ
bảo hiểm tai nạn lao động cho đến chế độ bảo hiểm tuổi già. Trong Tuyên ngôn
nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi nhận: “ Tất cả mọi người với
tư cách là thành viên của xã hội có quyền hướng BHXH”. Ngày 04/6/1952, Tổ chức
lao động quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ về Bảo hiểm xã hội cho người lao
động đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho NLĐ và gia đình
họ.
BHXH là khái niệm có thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Theo từ điển
Tiếng Việt thì BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân viên
chức khi không làm việc vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động 1. Còn theo
Từ điển Giải thích từ ngữ Luật học thì BHXH là bảo hiểm thu nhập của người lao
động trong một số trường hợp, do Nhà nước tổ chức quản lý. Đặc trưng cơ bản để
phân biệt BHXH với các hình thức bảo hiểm khác là sự kết hợp nghĩa vụ của người
1

Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.39

5


sử dụng lao động, việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội của nhà nước với sự
tương trợ cộng đồng giữa những người lao động để ổn định cho họ và gia đình họ

trong và sau quá trình lao động2.
Dưới góc độ kinh tế: BHXH chính là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho NLĐ khi gặp rủi ro trong quá trình lao động như ốm đau, tai nạn
lao động….thông qua một quỹ được hình thành và tồn tích dần trên cơ sở sự đóng
góp của nguời lao động và người sử dụng lao động.
BHXH được thực hiện dưới hai hình thức: BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện. Trong đó BHXH bắt buộc được bắt buộc áp dụng đối với một số đối tượng
nhất định. Tuy nhiên, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội đều đặc biệt quan tâm đến BHXH bắt buộc. Bởi đối tượng áp dụng
BHXH rất rộng nên có nhiều đối tượng tham gia. Càng ngày, các nước đều có xu
hướng mở rộng phạm vi và đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc. Các chế độ trợ cấp
BHXH bắt buộc cũng được bổ sung nhằm đảm bảo và khắc phục rủi ro có thể xảy
ra với NLĐ.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về BHXH bắt buộc như sau:
“Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức, thực hiện,
được bắt buộc áp dụng đối với một số đối tượng là NLĐ và NSDLĐ theo quy định
của pháp luật”.
Đặc trưng cơ bản của BHXH bắt buộc là tính bắt buộc. Tính bắt buộc được thể
hiện ở những điểm sau:
Về đối tượng tham gia bảo hiểm: Khác với các đối tượng khác trong hệ thống
quan hệ an sinh xã hội, chế độ BHXH bắt buộc đảm bảo ổn định đời sống cho NLĐ
có thu nhập nên đối tượng tham gia BHXHBB sẽ bao gồm người lao động và người
sử dụng lao động. Vì vậy, đối với NLĐ có việc làm và thu nhập, tương đối ổn định,
dù muốn hay không, khi tham gia quan hệ lao động thì họ và người sử dụng sức lao
động của họ phải tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Việc tham gia
BHXH của những đối tượng này là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ của họ. NLĐ
2

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.85


6


và NSDLĐ không thể thỏa thuận về việc có tham gia BHXH hay không cũng như
thay thế BHXH bằng các hình thức khác.
Về mức đóng bảo hiểm: Mức đóng của BHXH bắt buộc cũng mang tính bắt
buộc và thường là do pháp luật ấn định đối với cả NLĐ và NSDLĐ. Thông thường,
mức đóng BHXH hàng tháng được tính theo mức phần trăm tiền lương, tiền công
ghi trong hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc và các quy định của pháp luật.
Về các chế độ BHXH: các chế độ của BHXH bắt buộc cũng do pháp luật quy
định. Khi tham gia BHXH bắt buộc, người lao động sẽ phải tham gia tất cả các chế
độ BHXH chứ không được lựa chọn một hay một vài chế độ. Các chế độ BHXH bắt
buộc bao gồm: chế độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc
BHXH bắt buộc có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ lao động
cũng như trong đời sống xã hội. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh sau:
* Đối với người lao động
Với tư cách là một trong những chính sách an sinh xã hội, BHXH sẽ góp phần
trợ giúp cho cá nhân NLĐ khi gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ
những thu nhập thay thế khi thu nhập của họ bị giảm hoặc bị mất. Điều đó không
chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất cho người lao động mà còn là nguồn động viên tinh
thần to lớn, giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác. Cuộc sống của người lao
động và các thành viên trong gia đình họ vì vậy được đảm bảo trong những trường
hợp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất khả năng lao động.
Vì vậy, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao
động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động cả khi họ đang tham gia quan hệ lao
động cũng như khi họ không còn tham gia quan hệ lao động nữa ( khi đã hết tuổi
lao động). Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi

họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH. Đồng thời, việc NLĐ tham gia BHXH

7


bắt buộc thể hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro cho chính mình, vừa có ý nghĩa
ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ3.
* Đối với người sử dụng lao động
Bảo hiểm xã hội đảm bảo thu nhập cho người lao động trong những trường
hợp rủi ro trong quá trình lao động nên sẽ khiến người lao động yên tâm làm việc
qua đó cũng giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được ổn định. Khi rủi ro phát
sinh, nếu không có BHXH, người sử dụng lao động sẽ phải có trách nhiệm hỗ trợ
cho người lao động một khoản tiền và nếu trong doanh nghiệp có nhiều lao động
cùng gặp rủi ro thì khoản tiền này không phải là nhỏ. Điều đó sẽ ảnh hưởng không
nhỏ đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp, rủi ro, bất hạnh
xảy ra đối với NLĐ thì không chỉ ảnh đời sống của họ mà còn tác động đến chất
lượng lao động. Qua việc phân phối chi phí cho NLĐ hợp lý, BHXH bắt buộc góp
phần làm cho lực lượng lao động trong đơn vị ổn định, sản xuất kinh doanh được
liên tục, hiệu quả. Đồng thời, thông qua BHXH bắt buộc tạo điều kiện cho NSDLĐ
có trách nhiệm với NLĐ.
Như vậy, sự đóng góp một phần BHXH không trực tiếp mang lại lợi ích cho
NSDLĐ nhưng sẽ giúp NSDLĐ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ mà mình thuê mướn. Đồng thời,
góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ.
* Đối với Nhà nước và xã hội
BHXH không chỉ có vai trò ý nghĩa đối với người lao động và người sử dụng
lao động mà còn có vai trò ý nghĩa đối với nhà nước và xã hội. Bản chất và chức
năng vốn có của BHXH là việc chia sẻ những rủi ro, tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa
NSDLĐ và NLĐ, và ngay cả những NLĐ với nhau theo nguyên tắc “lấy số đông bù
số ít”. Khi tham gia BHXH rủi ro của một người sẽ được chia sẻ cho nhiều người

trong cộng đồng, thông qua việc hình thành, phân phối và sử dụng quỹ BHXH. Nó
tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng giữa các thành viên trong xã
hội.
3

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), Giáo trình An sinh xã hội, Nxb. Đại học kinh tế quốc dân, Hà
Nội, tr.99

8


Ở nhiều quốc gia, BHXH nói chung đặc biệt là BHXH bắt buộc nói riêng luôn
là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, là cơ sở để phát triển các bộ phận khác của hệ
thống an sinh xã hội. Các nhà nước thường dựa vào mức độ bao phủ của chính sách
BHXH để xác định những đối tượng nào còn gặp khó khăn, cần cộng đồng chia sẻ
nhưng chưa được tham gia BHXH để thiết kế những mạng lưới khác nhau của an
sinh xã hội như trợ cấp, cứu trợ xã hội… Trên cơ sở đó, BHXH là căn cứ để đánh
giá trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức độ an sinh xã hội đạt được của
mỗi nước.
Bên cạnh đó, BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của
một quốc gia. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ
nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế
cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế.
Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ
thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa
dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong
phú. Ngoài ra, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm khoảng cách
chênh lệch giàu nghèo. Bên cạnh đó, hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy
động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát
triển.

Như vậy, có thể thấy BHXH bắt buộc là một trong những chính sách xã hội
quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm ổn định đời sống kinh tế - xã
hội, là tiền đề thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững và góp phần làm vững chắc thể
chế kinh tế.
1.2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nguyên tắc của BHXH bắt buộc được hiểu là những nguyên lý, tư tưởng chỉ
đạo quán triệt và xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống các quy định của pháp luật cũng
như thực hiện pháp luật. BHXH bắt buộc là một trong các hình thức bảo hiểm nên
cũng tuân theo các nguyên tắc chung của BHXH và có tính đến những yếu tố đặc
thù. Cụ thể, BHXH bắt buộc được thực hiện theo các nguyên tác sau:

9


* Mức hưởng BHXH bắt buộc được xác định trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội
Dưới góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối
tổng sản phẩm quốc dân nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết hợp
hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ. Nghĩa là phải căn cứ vào mức đóng góp của
NLĐ cho xã hội thể hiện qua mức đóng, thời gian đóng góp cho quỹ BHXH… để từ
đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng phù trợ hợp với sự đóng cho xã
hội của NLĐ. Tuy nhiên BHXH bắt buộc bên cạnh nội dung kinh tế còn chứa đựng
trong mình nội dung xã hội thể hiện ở cách thức hỗ trợ dựa trên nguyên tắc “chia sẻ
rủi ro”, “lấy số đông bù số ít”. Tức là, mỗi người lao động chỉ phải đóng góp một
phần nhỏ trong thu nhập của mình để tạo lập quỹ nhưng vì nhiều người cùng đóng
góp tạo nên quỹ có giá trị lớn đảm bảo chi trả lượng vật chất đủ để hỗ trợ NLĐ lâm
vào hoàn cảnh khó khăn. Trường hợp NLĐ may mắn không gặp phải rủi ro như mất
việc làm, tai nạn lao động… thì số tiền họ đóng góp sẽ dùng để hỗ trợ, chia sẻ cho
những người kém may mắn hơn. NLĐ đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc không có
nghĩa chắc chắn sẽ hưởng mọi chế độ BHXH. Nhưng sự đóng góp của họ sẽ có ý

nghĩa rất lớn cho những đối tượng gặp phải những rủi ro nghiêm trọng mà nếu
không có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc
sống. Đây chính là mục đích thể hiện bản chất xã hội của BHXH bắt buộc .
* Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng
của NLĐ
Bản chất của bảo hiểm xã hội là bảo hiểm thu nhập cho người lao động nên
mức thu nhập được bảo hiểm phải là mức tiền lương hoặc mức thu nhập bằng tiền
nào đó do Nhà nước quy định. Trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực
tế của đại đa số NLĐ và mức thu nhập quốc dân bình quan đầu người, Nhà nước
quy định, lựa chọn mức thu nhập được bảo hiểm để bảo đảm mức thu nhập này luôn
tương đối, nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia đóng BHXH và gia đình họ.
Có hai cách để lựa chọn mức thu nhập đóng bảo hiểm bắt buộc. Cách thứ nhất
là lấy tiền lương làm cơ sở để quy định mức thu nhập được bảo hiểm. Cách thứ hai

10


là quy định mức thu nhập nhất định đối với người được bảo hiểm. Riêng đối với
BHXH bắt buộc, người ta thường hay lấy tiền lương làm căn cứ đóng BHXH và đó
cũng chính là cơ sở để quy định mức thu nhập được hưởng bảo hiểm. Mặt khác,
mức thu nhập đóng bảo hiểm còn là công cụ để Nhà nước giám sát, kiểm tra, điều
tiết trên góc độ quản lý vĩ mô với BHXH và quản lý lao động trong nền kinh tế
quốc dân.
* Quỹ BHXH bắt buộc được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh
bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành
phần.
BHXH nói chung, BHXH bắt buộc nói riêng là một chính sách lớn ảnh hưởng
đến nhiều mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Bảo hiểm xã hội bắt buộc được thực
hiện với nhiều chế độ khác nhau, hướng đến đảm bảo thu nhập cho người lao động
nên cần phải có nguồn tài chính ổn định . Bởi vây, việc quản lý, sử dụng quỹ

BHXH bắt buộc phải hướng tới sự đảm bảo an toàn và cân đối quỹ. Để thực hiện
được điều đó chỉ có thể thông qua sự quản lý của nhà nước. Do đó, việc sử dụng và
quản lý quỹ BHXH bắt buộc phải do Nhà nước thống nhất quản lý và hạch toán
theo quy định của pháp luật.
* Việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm
kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH
Đây là một nguyên tắc quan trọng có tác dụng nhằm khuyến khích người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội. Trên thực tế có nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau
nhưng BHXH bắt buộc phải là hình thức bảo hiểm thu hút được người lao động
tham gia. Để thực hiện được việc đó thì BHXH bắt buộc phải được thực hiện đơn
giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia
BHXH. Người tham gia BHXH khi đóng phí BHXH là nhằm dự trữ trước một
khoản tài chính, để đề phòng những trường hợp rủi ro xảy ra hoặc có liên quan đến
hoạt động lao động (tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) hoặc những loại được coi
là “rủi ro xã hội” (ốm đau, thai sản, tuổi già, chết). Khi gặp những rủi ro này, chi
phí trong cuộc sống của NLĐ và gia đình họ không những tăng lên mà thu nhập còn

11


bị giảm đi vì không thực hiện được quá trình lao động. Trong trường hợp này các
khoản tiền BHXH giữ vai trò cần thiết và quan trọng góp phần bù đắp vào sự thiếu
hụt của NLĐ và gia đình họ nhằm ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, hỗ trợ,
và giúp đỡ họ vượt qua những rủi ro tạm thời cũng như lâu dài. Chính vì vậy, việc
thực hiện BHXH bắt buộc phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, đáp ứng đầy
đủ quyền lợi của người hưởng bảo hiểm.
1.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
BHXH nói chung, BHXH bắt buộc nói riêng được xem là trụ cột của hệ thống
an sinh xã hội. Vì vậy để BHXH bắt buộc hoạt động ổn định, bền vững thì cần phải
được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định, được quản lý chặt chẽ và theo

những thủ tục nhất định. Chính vì vậy cần phải có hệ thống pháp luật về BHXH bắt
buộc. Tùy theo điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia thì hệ thống pháp
luật BHXH bắt buộc điều chỉnh những vấn đề khác nhau. Song phạm vi điều chỉnh
chủ yếu bao gồm những nội dung như: Đối tượng tham gia BHXH, các chế độ
BHXH, quỹ BHXH, việc chi trả BHXH, xử lý vi phạm pháp luật BHXH….
Do đó, pháp luật về bảo hiểm bảo hiểm xã hội bắt buộc được hiểu là tổng thể
các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm
điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong quá trình đóng góp và chi trả các
chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy định
khác nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật BHXH bắt
buộc của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung như đối tượng tham
gia, quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc.
1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Quan hệ lao động được hình hành trên cơ sở mối quan hệ giữa NLĐ và
NSDLĐ. BHXH bắt buộc hướng tới việc đảm bảo thu nhập cho người lao động khi
họ gặp rủi ro trong trong quá trình lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc khi không còn khả năng tham gia quan hệ lao động nữa. Bởi vậy, đối
tượng tham gia của BHXH sẽ là NLĐ và NSDLĐ. Họ có trách nhiệm tham gia

12


đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản phần trăm nhất định so với tiền lương
của NLĐ theo quy định của pháp luật BHXH. Tùy theo điều kiện pháp triển kinh tế
- xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những
NLĐ nào đó trong xã hội.
Trong thời kì đầu BHXH hầu hết chỉ áp dụng đối với những người làm công
ăn lương để đảm bảo mức đóng góp ổn định, đảm bảo an toàn quỹ BHXH. Tuy
nhiên không phải NLĐ và NSDLĐ nào cũng tự giác tham gia BHXH. Hơn nữa, để

đạt được mục tiêu cũng như thực hiện BHXH một cách lâu dài thì cần phải xác định
đối tượng tham gia để đảm bảo nguồn thu và chi các chế độ BHXH. Bởi vậy, pháp
luật hầu hết các nước đều quy định các đối tượng có trách nhiệm phải tham gia
BHXH là NLĐ và NSDLĐ. Đây trở thành trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia
quan hệ lao động. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia
mà các nước có sự quy định khác nhau về đối tượng tham gia BHXH nhưng nhìn
chung pháp luật các nước đều hướng tới những đối tượng tham gia quan hệ lao
động có tính ổn định và các đối tượng này càng được mở rộng.
Theo pháp luật Đan Mạch, mọi người dân được hưởng chế độ bảo hiểm từ hệ
thống chăm sóc sức khỏe quốc gia, trợ cấp gia đình và trợ cấp người già mà không
phụ thuộc vào hoạt động nghề nghiệp; trái lại trợ cấp dành cho việc bù đắp do mất
thu nhập chỉ được chi trả cho những người đang hoạt động, những người không
thuộc diện NLĐ làm công ăn lương cũng hưởng trợ cấp bằng tiền của bảo hiểm ốm
đau. Ở Hà Lan, có hai loại hình BHXH là BHXH đối với người làm công ăn lương
và BHXH quốc gia. BHXH của những người làm công ăn lương bảo đảm chi phí
duy nhất cho những người làm công ăn lương và những người giống như vậy. Để
được thụ hưởng BHXH này, phải có một hợp đồng lao động, ít nhất giống như
người làm công ăn lương. Đó là trường hợp người học nghề, những NLĐ tại nhà
hoặc trong các phân xưởng được bảo hiểm. Những NLĐ thật sự độc lập không
giống người làm công ăn lương và công chức có chế độ riêng4. BHXH quốc gia là
loại hình bảo đảm chế độ BHXH cho tất cả những người sống ở Hà Lan, cũng như
4

Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr 408

13


những người không thường trú với điều kiện họ đang làm việc ở Hà Lan và trả thuế

và lương.
Như vậy, có thể thấy BHXH bắt buộc ở các quốc gia đều hướng tới đối tượng
là những người làm công ăn lương tức là những người có tham gia quan hệ lao
động. Song ở một số quốc gia đối tượng tham gia bảo hiểm được mở rộng hơn
không phụ thuộc vào việc họ có tham gia quan hệ lao động hay không. Tuy nhiên,
tựu chung lại việc quy định về đối tượng tham gia BHXH nhằm hướng tới việc đảm
bảo cho những người trong độ tuổi lao động đều có thể tham gia BHXH.
1.3.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Các chế độ BHXH bắt buộc là các chế độ mà người tham gia BHXH sẽ được
hưởng khi có điều kiện BHXH phát sinh. Các chế độ này thường hướng đến việc
đảm bảo thu nhập cho người lao động trong quá trình tham gia quan hệ lao động
như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động ..hoặc khi không còn tham gia quan hệ lao
động nữa như hưu trí và tử tuất. Theo Công ước số 102 ngày 25/6/1852 của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) thì hệ thống BHXH bao gồm 9 chế độ gồm: Chăm sóc y tế,
trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ – BNN, trợ cấp
gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Tổ chức
ILO cũng khuyến nghị tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi quốc gia tham gia
công ước có thể quy định các chế độ BHXH bắt buộc khác nhau, nhưng ít nhất phải
thực hiện được ba chế độ. Trong đó phải có một trong năm chế độ; Trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ, BNN; trợ cấp khi tàn phế và trợ cấp tiền
tuất. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia quy định các chế độ BHXH mang tính chất bắt
buộc thường bao gồm 5 chế độ: chế độ BHXH ốm đau; chế độ BHXH thai sản; chế
độ BHXH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
* Chế độ ốm đau
Ốm đau, tai nạn là điều mà con người không mong muốn nhưng lại hầu như
không thể tránh khỏi trong suốt cuộc đời. Khi đó, nhu cầu của con người không
giảm đi mà thậm chí còn tăng lên bởi kèm theo nhiều chi phí. Đối với NLĐ, sự kiện
này được coi là một loại rủi ro trong lao động mà họ gặp phải và NLĐ bị mất thu

14



nhập ( tạm thời) từ lao động. Con người có thể thực hiện nhiều biện pháp khác nhau
để khắc phục tình trạng trên. Một trong những biện pháp đó là bảo hiểm ốm đau.
Bảo hiểm ốm đau là một trong các chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong lịch sử
hình thành và phát triển của pháp luật BHXH. Ở Đức, ngay từ những năm 50 của
thế kỷ XIX nhiều chính quyền bang đã quan tâm tới việc quy định và bắt buộc thực
hiện chế độ trợ cấp ốm đau đối với NLĐ. Đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm ốm
đau ngày càng được mở rộng. Sau đó, nhiều nước châu Âu cũng đã cho ra đời các
đạo luật của mình có quy định về vấn đề bảo hiểm ốm đau. Đến đầu thế kỷ XX, bảo
hiểm ốm đau đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ La
tinh, Hoa kỳ, Canada và một số nước khác5.
Mức trợ cấp BHXH ốm đau cũng được quy định khác nhau giữa các nước.
Chẳng hạn như ở Đức, trong trường hợp ốm đau, NSDLĐ có trách nhiệm chi trả
lương trong 6 tuần. Tiếp đó, người được bảo hiểm có quyền được hưởng trợ cấp
bằng tiền từ bảo hiểm ốm đau. Số tiền lên tới 80% lương đã đóng bảo hiểm và thuế
thu nhập. Đối với cùng một loại bệnh, thời gian trợ cấp không vượt quá 78 tuần
trong 03 năm. Còn ở Anh, NLĐ làm công ăn lương ốm ngừng làm việc, nếu đáp
ứng các điều kiện, sau thời hạn 03 ngày có quyền được hưởng trợ cấp ốm đau hàng
ngày. Việc chi trả trợ cấp này do NSDLĐ thực hiện và sau đó sẽ được Bảo hiểm
quốc gia hoàn trả. Trợ cấp được chi trả tối đa là 28 tuần với mức 52,50 bảng một
tuần. Chỉ những người làm công ăn lương có thu nhập ít nhất 58 bảng một tuần mới
có thể được hưởng…6.
* Chế độ thai sản
Lao động nữ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động của xã hội. Trong quá
trình tham gia quan hệ lao động, ngoài việc thực hiện các nghĩa vụ lao động với tư
cách là người lao động, họ còn thực hiện thiên chức làm mẹ. Hầu hết lao động nữ
đều trải qua giai đoạn mang thai, sinh đẻ. Trong thời gian đó, họ phải nghỉ việc,
không có lương, đồng thời chi phí tăng thêm do sức khỏe suy giảm và có thêm
5


Trường Đại học LĐTB&Xh (2010), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.331
Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr. 306
6

15


thành viên mới nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống bản thân họ và gia đình.
Bởi vậy việc thực hiện chế độ thai sản đối với lao động nữ là thật sự cần thiết.
Bảo hiểm thai sản cũng là chế độ bảo hiểm đặc thù và xuất hiện từ rất sớm.
Ngay kỳ họp đầu tiên và trong suốt quá trình hoạt động, tổ chức ILO đã ban hành
nhiều công ước và khuyến nghị thể hiện sự quan tâm, bảo vệ sức khỏe, cũng như
quyền lợi cho người lao động. Đó là Công ước số 3 năm 1919, Công ước số 102
năm 1952, Khuyến nghị số 95 (sửa đổi năm 1952), công ước số 103 (xét lại năm
1952), công ước số 183 năm 2000 và Khuyến số 191…Ngoài ra, Tổ chức Liên hợp
quốc (UN) cũng có một số công ước đề cập vấn đề này, đó là: Công ước về quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ năm 19797...Trên cơ sở tinh thần của các công ước, khuyến nghị đó
đến nay pháp luật của hầu hết các nước đều quy định về chế độ bảo hiểm thai sản.
Ở Trung Quốc, chế độ về thai sản đã được thiết lập từ những năm 1950. Trong
Bộ luật lao động ban hành chính sách mới về chế độ thai sản đối với người lao động
trong các doanh nghiệp năm 1994, trong đó quy định nghĩa vụ đóng góp thuộc về
chủ sử dụng lao động và tối thiểu là 1% của tổng tiền quỹ tiền lương. Người lao
động không phải đóng góp và được hưởng trợ cấp sinh đẻ và chi phí y tế trong thời
gian sinh đẻ; thời gian hưởng chế độ không thấp hơn 90 ngày. Trong thời gian sinh
đẻ, chủ sử dụng lao động không được giảm mức tiền công, tiền lương và chấm dứt
hợp đồng lao động8.
Để được hưởng chế độ thai sản, người lao động cũng phải đóng bảo hiểm xã

hội một thời gian nhất định. Pháp luật Thái Lan quy định phải có 7 tháng đóng góp
trong 15 tháng trước khi sinh. Singapore quy định ít nhất phải có 6 tháng làm việc.
Nhật Bản quy định phải có 12 tháng làm việc trước đó. Tại Philipines,, trợ cấp thai
sản được thực hiện trong 4 lần sinh, với điều kiện lao động nữ phải đóng BHXH 3
tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh.9
7

8

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.148

Nhật Linh (2005), Tổng quan về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội ở Trung Quốc, Tạp chí bảo hiểm xã hội
tháng 10
9
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,tr.152

16


Mức trợ cấp cũng được pháp luật các nước quy định khác nhau tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội của từng nước nhưng nhìn chung đều được xác định dựa
trên mức đóng và thời gian hưởng. Chẳng hạn như ở Na Uy, có hai lựa chọn cho
NLĐ: Nếu lựa chọn 54 tuần nghỉ thì được hưởng trợ cấp ở mức 80% tiền lương
tháng, nếu lựa chọn 44 tuần nghỉ thì hưởng mức trợ cấp cao hơn là 100% tiền lương
trước khi nghỉ việc; ở Pháp quy định mức trợ cấp thai sản bằng 90% tiền lương10.
Với mức trợ cấp một lần thì nhiều quốc gia ấn định khoản tiền cụ thể như Thái Lan
trợ cấp một lần là 4000 bạt. Nhật Bản là 300.000 yên11.
Nhìn chung đối tượng hướng đến của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu là lao
động nữ. Thông thường lao động nam chỉ hưởng chế độ thai sản khi nuôi con sơ
sinh hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai. Hiện nay cũng có một số nước quy

định lao động nữ và nam đều được hưởng chế độ thai sản như nhau, có thể kể đến
một số nước như: Thụy Điển, Bungari. Đặc biệt ở Bungari còn quy định ông, bà
cũng được nghỉ hưởng trợ cấp trong thời gian người mẹ nghỉ mang thai, trước và
sau khi sinh nhằm chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con cháu trong gia đình12.
Có thể thấy pháp luật các nước đều hưởng tới bù đắp một phần chi phí tăng lên
trong quá trình thai nghén, sinh con, nuôi con, thực hiện các biện pháp tránh thai,
bảo hiểm thai sản nhằm giữ cân bằng về thu nhập, tạo sự bình ổn về mặt vật chất,
bảo vệ sức khỏe cho NLĐ và trẻ sơ sinh. Qua đó, nhằm ổn định đời sống của người
lao động trong quá trình lao động.
* Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là điều không ai mong muốn xảy ra trong
quá trình lao động. Khi bị tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, một mặt NLĐ sẽ mất
hoặc giảm thu nhập từ lao động, mặt khác, các chi phí cho đời sống hằng ngày tăng
lên đột ngột, thậm chí xuất hiện nhiều loại chi phí mới. Từ đó, nhu cầu được bảo
hiểm của NLĐ và gia đình họ trong các trường hợp này càng trở nên cần thiết.

10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,tr.163
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,tr.164
12
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,tr.149
11

17


Ở Đức, bảo hiểm TNLĐ,BNN chủ yếu dựa trên cơ sở Luật bảo hiểm năm 1911
và Bộ luật sửa đổi năm 1996, bắt buộc tất cả các doanh nghiệp phải tham gia và có
sự bảo trợ của Nhà nước. Bảo hiểm TNLĐ áp dụng cho tất cả người lao động, kể cả

bị tai nạn trên đường đi, giữa nơi ở và nơi làm việc. Người bị mắc bệnh nghề nghiệp
được xử lý như người bị tai nạn lao động. Trách nhiệm đóng góp vào quỹ bảo hiểm
TNLĐ, BNN hoàn toàn do người sử dụng lao động đóng góp. Tỷ lệ đóng góp của
người sử dụng lao động từ 0,2% đến 2% tổng quỹ tiền lương, tiền công, theo sự
phân loại công nghiệp (căn cứ vào nguy cơ, tần suất xảy ra TNLĐ, BNN hàng năm
của doanh nghiệp). Khi xảy ra TNLĐ, BNN, người lao động sẽ được người sử dụng
lao động trả số tiền đền bù bằng 80% số tiền kiếm được và tối đa là bằng số tiền
công thuần túy của người bị TNLĐ, BNN trong thời gian điều trị. Đồng thời được
trả chi phí y tế và trợ cấp khác13
Ở Trung Quốc năm 1994, Bộ Luật Lao động được ban hành và dành chương
riêng quy định về “bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội”. Chính phủ Trung Quốc đã
và đang nỗ lực trong việc thiết lập chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN bao gồm: phòng
chống thương tích xảy ra trong lao động, bồi thường và phục hồi chức năng cho
NLĐ bị các tổn thương liên quan đến công việc. Năm 2003, Hội đồng Nhà nước
ban hành Điều lệ về bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm thất nghiệp. Theo quy
định của Điều lệ tất cả các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đóng phí tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp vĩnh viễn cũng như tạm thời cho toàn bộ NLĐ của họ. Những
đơn vị không tham gia chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì đơn vị đó phải
chịu trách nhiệm chi trả các chế độ như quy định trong điều lệ.
Ở Thái Lan, SSO chịu trách nhiệm thực hiện các chế độ BHXH cho NLĐ
trong đó bao gồm cả chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Ủy ban bồi thường
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thuộc cơ quan an sinh xã hội có trách nhiệm
thực hiện quản lý quỹ và thực hiện chế độ cho NLĐ. Ủy ban trách nhiệm đánh giá
và xác định tỷ lệ đóng góp của NSDLĐ; xây dựng các chính sách bồi thường,
13

file:///C:/Users/admin/Downloads/3_Kinh_nghiem_ve_tai_nan_nghe_nghiep.ok10trag%20.pdf : Chế độ tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, ngày truy cập
15/6/2017


18


chương trình nghiên cứu hướng tới việc ngăn chặn các tai nạn lao động và các biện
pháp về an toàn vệ sinh lao động; giải quyết tranh chấp, khiếu nại…
Như vậy, có thể thấy chế độ BHXH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp luôn
được các quốc gia quan tâm và quy định tương đối chặt ché nhằm đảm bảo quyền
lợi cho người lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
* Chế độ bảo hiểm hưu trí
Trong hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí luôn được coi là trụ cột của
BHXH bởi đây là chế độ có sự tham gia của rất nhiều người và nguồn quỹ chi trả
cũng rất lớn. Đây là chế độ dành cho những người không còn tham gia quan hệ lao
động nữa. Vì vậy, nó rất cần thiết và không thể thiếu được bởi bất cứ NLĐ nào cũng
sẽ đến lúc già yếu, hết tuổi lao động nhưng vẫn có nhu cầu đảm bảo cuộc sống và
lương hưu sẽ là nguồn thu nhập chính của họ trong lúc này. Vào những năm cuối
thế kỷ XIX, khi hệ thống bảo hiểm xã hội mới được hình thành, ở các nước Đức,
Pháp…thì bảo hiểm hưu trí (bảo hiểm tuổi già) là một trong những chế độ bảo hiểm
xã hội bắt buộc đầu tiên được thực hiện. Trong Công ước số 102 về những quy định
tối thiểu của an sinh (an toàn) xã hội, trong đó có các khuyến nghị các nước thành
viên phải thực hiện ít nhất 3 trong 9 chế độ được quy định trong Công ước và một
trong các chế độ trợ cấp bắt buộc là trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật và trợ cấp người nuôi dưỡng. Điều
này chứng tỏ, chế độ hưu trí luôn được ILO, chính phủ các nước cũng như NLĐ
hết sức quan tâm.
Về độ tuổi nghỉ hưu, có nước ghi nhận sự khác biệt giữa tuổi nghỉ hưu của
nam và nữ nhưng cũng có nước chỉ quy định một loại thống nhất. Như ở Anh, lao
động nữ nghỉ hưu sớm hơn lao động nam 5 tuổi (nam 65 tuổi, nữ 60 tuổi), ở Trung
Quốc và Nhật Bản lao động nữ cũng nghỉ hưu sớm hơn nam giới 5 tuổi (nam 60
tuổi, nữ 55 tuổi).
Do tuổi thọ trung bình đang có xu hướng tăng lên nên để đối phó với thực tế

này có nước tăng tuổi nghỉ hưu như ở Thụy Điển cuộc cải cách gần đây đã đưa ra
bảng tính với khoảng cách tuổi về hưu từ 61 đến 70 tuổi. Vào năm 2004, cải cách

19


hưu trí lại được tiến hành ở Đức với phương châm mang lại sự ổn định về tài chính
cho hệ thống BHXH với việc tăng độ tuổi nghỉ hưu chính thức từ 65 tuổi lên 67 tuổi
vào năm 203514 . Trong nhiều nước, tuổi thực sự về hưu không trùng với tuổi về
hưu theo quy định của pháp luật. Với 58,7 tuổi, nước Pháp có tuổi trung bình về
hưu thấp nhất Châu Âu, cách xa nước Pháp là Thụy Điển và Anh (trung bình 63,2
tuổi)15.
Ở Trung Quốc, chế độ hưu trí dựa trên sự kết hợp giữa cộng đồng xã hội
(thông qua việc thiết lập quỹ cộng đồng để chia sẻ rủi ro) và các tài khoản cá nhân.
Mức đóng hiện tại đối với cá nhân là khoảng 8% tiền lương, tiền công và của người
sử dụng lao động là 20% của tổng quỹ tiền lương. Ngoài ra, chính quyền các cấp có
thể cung cấp trợ cấp tài chính trong trường hợp quỹ này thiếu hụt16. Trong khi đó, ở
Thụy Điển, trợ cấp hưu trí của mỗi người lao động sẽ dựa trên khoản tiền tích lũy
được trong hai tài khoản cá nhân riêng biệt: Tài khoản danh nghĩa (national
account) do Chính phủ thay mặt cá nhân đó quản lý/duy trì (16%) và Tài khoản cá
nhân thông thường (completely private individual account) do cá nhân quản lý
(2,5%). Ngoài hệ thống hưu trí nhà nước, hầu hết người lao động Thụy Điển tham
gia vào một chương trình hưu trí tư nhân theo nghề nghiệp. Ngoài ra, để đảm bảo
trợ cấp hưu trí đủ sống cho tất cả người dân, Chính phủ Thụy Điển đã xây dựng và
thực hiện chương trình lưới an toàn xã hội. Với lưới an toàn này, mức độ thay thế
thu nhập đạt mức tương đối cao, 90% thu nhập của các hộ gia đình già ở Thụy Điển
xuất phát từ các quỹ lương.17
* Chế độ tử tuất

14


Bùi Sỹ Lợi (2015), Kinh nghiệm của các nước về xây dựng pháp luật An sinh xã hội, tại địa chỉ

ngày truy cập 15/6/2017
15

Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 314

16

Nhật Linh (2005), Tổng quan về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội ở Trung Quốc, Tạp chí bảo hiểm xã
hội số 10, tại địa chỉ , truy cập ngày 15/6/2017
17
Nguyễn Văn Chiều (2013), Bảo hiểm xã hội ở Thụy Điển và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí
khoa học xã hội Việt Nam (11), tại địa chỉ file:///C:/Users/admin/Downloads/24164-80819-1-PB.pdf , truy
cập ngày 15/6/2017

20


×