Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 73 trang )

PHẠM QUANG KHÁNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

PHẠM QUANG KHÁNH

2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

PHẠM QUANG KHÁNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Quang Khánh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Viện Đại học Mở Hà
Nội đã tận tình truyền dạy, chỉ bảo cho tôi trong quá trình học tập chương trình
đào tạo sau đại học.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Tuyến đã hướng dẫn tận
tình để tôi hoàn thành luận văn đề tài ““Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp ở Việt Nam”.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp số liệu, chia sẻ
kinh nghiệm và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện luận văn.

Tác giả luận văn


Phạm Quang Khánh


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI THUẾ
THU NHẬP DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI
THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP

6

1.1.

Những vấn đề lý luận về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

6

1.1.1.

Khái niệm và đặc trưng của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

6


1.1.2.

Ý nghĩa, vai trò của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

12

1.1.3.

Các hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

14

1.2.

Những vấn đề lý luận về pháp luật ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp

1.2.1

16

Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp

16

1.2.2

Quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp


17

1.2.3.

Cấu trúc và các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp

21

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI THUẾ
THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ

28

2.1.

Thực trạng pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

28

2.1.1.

Thực trạng quy định về chủ thể và quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia quan hệ ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

2.1.2.

Thực trạng quy định về điều kiện áp dụng ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp và các hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp


2.1.3.

36

Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục đề nghị, xét và quyết định
cho hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

2.1.4.

28

46

Thực trạng quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp phát
sinh từ quan hệ ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

49


2.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp ở Việt Nam

2.2.1.
2.2.2.

58


Các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp

58

Một số đề xuất cụ thể

60
65

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thuế luôn đóng một vai trò quan
trọng trong việc tạo nguồn thu thường xuyên và ổn định cho ngân sách nhà nước,
đồng thời là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng tiêu dùng
trong xã hội theo các mục tiêu chiến lược về kinh tế - xã hội do mình đặt ra.
Trong hệ thống thuế vốn rất tinh vi và phức tạp ở mỗi quốc gia, vấn đề ưu
đãi thuế luôn được nhà làm luật đặt ra như là một chế định quan trọng nhằm giúp
nhà nước thực hiện được các mục tiêu về phát triển kinh tế và ổn định xã hội
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Mặt khác, về thực tiễn, ưu đãi thuế
cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm của toàn xã hội nói chung, trong đó có đối
tượng là doanh nghiệp. Vì thế, việc nghiên cứu về chế độ ưu đãi thuế hiện hành,
trong đó có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp – được xem là vấn đề
có tính cần thiết và cấp bách.

Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc nghiên cứu chế độ ưu đãi thuế hiện
hành, trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu về chủ đề này và
đã thu được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, trước những đổi thay rất
nhanh chóng của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và đặc biệt là trong bối cảnh
Việt Nam đang phải thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về thuế theo lộ trình
hội nhập kinh tế quôc tế, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói
riêng đã và đang có những thay đổi theo cho phù hợp với tình hình mới của đất
nước. Tuy nhiên, các thay đổi này trong chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp đã hợp lý hay chưa, hợp lý đến đâu và có những hạn chế, bất cập gì cần
tiếp tục được nghiên cứu, tìm hiểu để sửa đổi, hoàn thiện trong thời gian tới. Đây
chính là cơ sở thực tiễn rất quan trọng để gợi ý cho các ý tưởng nghiên cứu về
pháp luật thuế hiện hành, trong đó có nhu cầu nghiên cứu về chế độ ưu đãi thuế

1


thu nhập doanh nghiệp.
Xuất phát từ các vấn đề liên quan đến thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện chế độ ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam, tác giả quyết
định lựa chọn vấn đề: “Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở
Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sĩ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan
đến đề tài luận văn, tác giả nhận thấy đã có một số công trình được công bố có
liên quan đến vấn đề ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ở mức độ khái quát, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu
sau đây có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài luận văn:
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả của tác giả Nguyễn Hải Linh về đề
tài: “Hoàn thiện pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp”, bảo vệ tại Trường

Đại học Luật Hà Nội năm 2011. Luận văn này chủ yếu phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp năm 2008, trong đó có đề cập đến quy định về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp, nhưng không phải là nội dung trọng tâm của đề tài nghiên cứu;
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lưu Thị Tuyết về đề tài: “Pháp luật
về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam”, bảo vệ năm 2012 tại Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội. Đề tài này tuy cũng nghiên cứu về pháp luật ưu
đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của đề tài luận văn này đều liên quan đến các quy định về ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 – là văn
bản đã bị sửa đổi lần 1 năm 2013 bởi Luật số 32/2013/QH13 ngày 19 tháng 6
năm 2013 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014; sửa đổi
lần 2 năm 2014 bởi Luật số 71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 của

2


Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về: “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế” do TS. Nguyễn Thị Ánh Vân làm chủ nhiệm đề
tài, nghiệm thu năm 2007.
Ngoài ra, có một số khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học hoặc cử nhân
kinh tế có đề cập trực tiếp đến vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy nhiên, các
công trình này chưa phải là luận văn thạc sĩ luật học. Như vậy, có thể nhận thấy
rằng mặc dù đã có một số công trình ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học trực tiếp
nghiên cứu về vấn đề pháp luật ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
nhưng các luận văn này chủ yếu nghiên cứu về chế độ ưu đãi thuế theo Luật thuế
thu nhập doanh nghiệp năm 2008 chứ không phải là Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp sửa đổi, bổ sung năm 2014. Vì thế, có thể cho rằng đề tài luận văn mà tác

giả lựa chọn đáp ứng được các yêu cầu về tính thời sự, tính mới và có ý nghĩa cả
về lý luận cũng như thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp lý về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành
ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định rõ các
nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp và pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số ý kiến nhằm
hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai

3


đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, học thuyết có liên quan
đến vấn đề ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp; các quy định pháp luật về ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Trong khuôn khổ hạn chế của một luận văn thạc sĩ, tác giả xác định phạm
vi nghiên cứu của đề tài luận văn này chủ yếu tập trung vào việc phân tích, đánh
giá thực trạng pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay trong giai đoạn từ khi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được bổ sung, sửa
đổi năm 2013 và 2014 được ban hành.
5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Về phương pháp tiếp cận, luận văn được triển khai thực hiện dựa trên
quan điểm, cách tiếp cận từ khía cạnh chính sách thu hút đầu tư và phát triển

doanh nghiệp của Nhà nước thông qua việc thiết lập các chế độ ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với các chủ thể kinh doanh nói chung và doanh nghiệp
nói riêng ở Việt Nam.
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học xã hội và nhân văn như:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp: Được sử dụng
trong toàn bộ nội dung luận văn, từ nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng, rút
ra những vấn đề thuộc về bản chất, các quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên
cứu, từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Được sử dụng nhằm làm rõ sự tương
đồng và khác biệt giữa pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp giữa Việt
Nam với một số nước trên thế giới để từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho

4


Việt Nam trong quá trình hình thiện khung pháp lý về môi trường kinh doanh nói
chung và thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng.
- Phương pháp thống kê, khảo sát: Được sử dụng nhằm chứng minh cho
các nhận định, kết luận khoa học của tác giả trong luận văn khi giải quyết các
yêu cầu đặt ra của đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
và pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở
Việt Nam và một số kiến nghị.


5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI THUẾ THU
NHẬP DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề lý luận về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Về mặt lý luận, để có cơ sở cho việc làm rõ khái niệm và đặc trưng của ưu
đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, trước hết, cần làm rõ khái niệm và những đặc
trưng cơ bản của thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong hệ thống thuế ở các quốc gia, cùng với thuế thu nhập cá nhân, thuế
thu nhập doanh nghiệp có một vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng, nhất là trong việc
điều tiết sản xuất kinh doanh, định hướng tiêu dùng trong dân cư và tạo lập
nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ở một số nước phát triển, chẳng hạn như
Cộng hòa Pháp, thuế thu nhập doanh nghiệp đóng góp khoảng 15% nguồn thu
thuế của Nhà nước. [14, tr.762]
Về phương diện lý thuyết, thuế thu nhập doanh nghiệp thường được định
nghĩa là khoản đóng góp bằng tiền mà các tổ chức kinh tế có thu nhập hợp pháp
từ hoạt động của mình phải nộp vào ngân sách nhà nước theo nguyên tắc không
hoàn trả, dựa trên cơ sở pháp luật.
Giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có
những thuộc tính cơ bản như: tính bắt buộc, tính chất không hoàn trả và tính chất
pháp lý.
Tính chất bắt buộc của thuế nói chung và thuế thu nhập doanh nghiệp nói
riêng thể hiện ở chỗ, người nộp thuế bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối

6



với nhà nước nếu thu nhập phát sinh từ hoạt động của họ là đối tượng chịu thuế
thu nhập doanh nghiệp và việc không thực hiện nghĩa vụ thuế sẽ phải chịu chế
tài theo quy định của pháp luật. Về tính chất bắt buộc của thuế nói chung và thuế
thu nhập doanh nghiệp nói riêng, hiện có những quan điểm khác nhau xung
quanh tính chất này của thuế.
Quan điểm thứ nhất cho rằng tính chất bắt buộc của thuế nói chung và
thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng bắt nguồn từ quan hệ hành chính giữa Nhà
nước với người nộp thuế, theo đó Nhà nước là chủ thể có quyền thu thuế, còn
người nộp thuế có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế cho Nhà nước theo quy định của
pháp luật. Đây là quan niệm có tính cách truyền thống lâu nay về thuế, xuất phát
từ lập luận cho rằng thuế là một sự cưỡng bức của Nhà nước đối với người nộp
thuế. [13, tr.29]
Quan điểm thứ hai cho rằng tính chất bắt buộc của thuế xuất phát từ quan
hệ có tính chất “thỏa thuận” hoặc “trao đổi” bình đẳng giữa Nhà nước với người
nộp thuế - giống như nghĩa vụ hợp đồng, bởi lẽ những học giả theo trường phái
này cho rằng bản chất của thuế là một “khế ước” hay “hợp đồng” được giao kết
giữa Nhà nước với người đóng thuế, thường được gọi là “khế ước thuế” hay
“hợp đồng thuế”. [13, tr.328]
Theo ý kiến của tác giả luận văn, quan điểm thứ hai thể hiện tư tưởng tiến
bộ hơn so với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ nếu coi thuế như là một “khế ước thuế”
hay “hợp đồng thuế” thì việc nộp thuế sẽ có tính chất như là một nghĩa vụ hợp
đồng và tính chất bắt buộc đối với các bên giao kết hợp đồng. Mặt khác, theo
quan điểm này thì Nhà nước cũng phải có trách nhiệm trở lại đối với người nộp
thuế thông qua việc cung cấp các hàng hóa công cộng và dịch vụ công cộng cho
xã hội, trong đó có những người đóng thuế và Nhà nước cũng không thể tùy tiện
trong việc ban hành các sắc thuế gây bất lợi cho xã hội nói chung và người nộp
thuế nói riêng.


7


Tính chất không hoàn trả của thuế nói chung và thuế thu nhập doanh
nghiệp nói riêng được thể hiện ở chỗ: Nhà nước không có bổn phận phải hoàn
trả trực tiếp cho người nộp thuế số tiền thuế mà họ đã nộp theo quy định của
pháp luật mà việc hoàn trả này của Nhà nước được thể hiện một cách gián tiếp
thông qua việc Nhà nước cung cấp các hàng hóa công cộng (quốc phòng, an
ninh, cơ sở hạ tầng giao thông, thông tin, viễn thông, phúc lợi xã hội...) và dịch
vụ công cộng (ví dụ: nền hành chính công...) cho xã hội và cộng đồng nói chung,
trong đó có những người nộp thuế.
Tính chất pháp lý của thuế nói chung và thuế thu nhập doanh nghiệp nói
riêng thể hiện ở chỗ, về nguyên tắc mọi sắc thuế đều phải được thể chế hóa bằng
pháp luật và phải được ban hành dưới hình thức một đạo luật. Việc thế chế hóa
các sắc thuế bằng các đạo luật sẽ đảm bảo cho thuế được tuân thủ một cách
nghiêm túc bởi các chủ thể có liên quan, bao gồm tổ chức, cá nhân nộp thuế và
các cơ quan nhà nước, công chức ngành thuế, do các đạo luật về thuế nói chung
và thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng đều được bảo đảm thi hành bằng sức
mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước.
Ngoài những thuộc tính chung của thuế như đã phân tích ở trên, thuế thu
nhập doanh nghiệp còn có một số đặc điểm riêng để phân biệt với các loại thuế
khác trong hệ thống thuế quốc gia, chẳng hạn như:
(i) Chủ thể nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức được thành lập theo
Luật doanh nghiệp và các luật khác có liên quan như Luật đầu tư, Luật về hợp
tác xã, Luật về hội, nghiệp đoàn... Các chủ thể này tuy có thể khác nhau về chức
năng, mục tiêu hoạt động hoặc hình thức tổ chức kinh doanh nhưng khi đã phát
sinh thu nhập từ các hoạt động của mình thì đều phải kê khai, nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp.
(ii) Đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là các khoản thu nhập hợp
pháp của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế phát sinh từ hoạt động của các chủ thể


8


này. Tất nhiên, thực tiễn cho thấy rằng không phải mọi khoản thu nhập hợp pháp
của doạnh nghiệp và tổ chức kinh tế đều là đối tượng chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp nhưng phần lớn các khoản thu nhập của chủ thể này đều là đối tượng chịu
thuế (ngoại trừ một số khoản thu nhập không phải chịu thuế như: thu nhập là lãi
góp vốn của bên liên doanh đã chịu thuế một lần bởi doanh nghiệp liên doanh; thu
nhập từ các hoạt động được nhà nước khuyến khích và hỗ trợ để phát triển...).
(iii) Bản chất của thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, đánh
trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế. Với tư cách là thuế trực thu, thuế thu
nhập doanh nghiệp luôn thể hiện được tính chất công bằng hơn so với các loại
thuế gián thu nhưng cũng khó thu hơn do trực tiếp điều tiết thu nhập của người
nộp thuế và bản thân người nộp thuế cũng biết rằng họ chính là người chịu thuế
nên thường có động thái trốn, tránh việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp khi
phát sinh thu nhập chịu thuế. Do bản chất của thuế thu nhập doanh nghiệp là
thuế trực thu nên chủ thể nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đồng thời là chủ
thể chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thuế
trực thu so với thuế gián thu như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế giá trị gia
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường...
1.1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Theo Từ điển Việt Nam của tác giả Thanh Nghị, “ưu đãi” là thuật ngữ
dùng để chỉ sự ưu tiên đãi ngộ hơn cả. [15, tr.1420].
Theo Từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh, “ưu đãi” là thuật ngữ
dùng để chỉ sự đãi ngộ hơn của một người này đối với người khác nhằm một
mục đích nhất định. [1, tr.530).
Nói cách khác, ưu đãi là thuật ngữ dùng để chỉ sự ưu ái, ưu tiên đãi ngộ
hay đối xử tốt của chủ thể này đối với chủ thể khác về phương diện vật chất hoặc
tinh thần.

Từ định nghĩa trên đây về danh từ “ưu đãi” và khái niệm “thuế thu nhập

9


doanh nghiệp”, có thể đưa ra khái niệm về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp từ
khía cạnh kinh tế và khía cạnh pháp lý như sau:
Về khía cạnh kinh tế, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là sự ưu tiên, đãi
ngộ của Nhà nước về nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với người nộp
thuế nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước. Bản
chất kinh tế của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp chính là làm giảm chi phí
thực tế về thuế thu nhập doanh nghiệp cho người nộp thuế để từ đó khuyến khích
họ tham gia vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh trong những ngành nghề, lĩnh
vực mà Nhà nước muốn khuyến khích phát triển vì các mục tiêu kinh tế - xã hội
mình đang theo đuổi. Việc tiếp cận khái niệm ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
từ góc độ kinh tế cho phép nhà nước xác định, tiên liệu được mức độ tác động
của chính sách ưu đãi thuế đối với các ngành, nghề, lĩnh vực cần quan tâm phát
triển để từ đó thiết kế chính sách phù hợp hơn và hiệu quả hơn.
Về khía cạnh pháp lý, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có thể được xem
như là một chế định pháp lý đặc thù do Nhà nước thiết lập để điều chỉnh quan hệ
ưu đãi thuế (thông qua hình thức chủ yếu là miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp) giữa Nhà nước với người nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật
thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc tiếp cận khái niệm ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp từ góc độ pháp lý cho phép Nhà nước thiết kế, ban hành các quy phạm
pháp luật phù hợp với yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời
kỳ của đất nước, đồng thời đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa chế định ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp với hệ thống pháp luật nói chung, trong đó có pháp
luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Xét về phương diện lý thuyết, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có
những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, chủ thể được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp chính là
người chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (cũng chính là người nộp thuế thu nhập

10


doanh nghiệp), bao gồm các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thỏa
mãn các điều kiện được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Để được
hưởng quyền ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, chủ thể chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp (đồng thời là chủ thể nộp thuế) phải thỏa mãn một số điều kiện
nhất định do pháp luật quy định (gọi là điều kiện được hưởng ưu đãi thuế), chẳng
hạn như: Muốn được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nói chung (bao
gồm ưu đãi về thuế suất, ưu đãi về miễn, giảm thuế, ưu đãi về chuyển lỗ...), [9]
chủ thể nộp thuế thu nhập doanh nghiệp phải thực hiện đúng và đầy đủ chế độ kế
toán, hóa đơn, chứng từ và nộp thuế theo kê khai; hoặc, trong cùng một thời gian
ưu đãi thuế, nếu doanh nghiệp được hưởng nhiều mức ưu đãi thuế khác nhau đối
với cùng một khoản thu nhập thì doanh nghiệp được lựa chọn áp dụng mức ưu
đãi thuế có lợi nhất. Đặc điểm này cho phép phân biệt ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp với ưu đãi thuế thu nhập cá nhân (vốn dĩ dành cho chủ thể được
hưởng ưu đãi là cá nhân có thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân). Mặt khác, đặc
điểm này cũng giúp phân biệt giữa ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp với ưu đãi
thuế gián thu như thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (vốn dành sự ưu
đãi cho chủ thể nộp thuế - người sản xuất, kinh doanh, bán hàng chứ không phải
cho chủ thể chịu thuế - người mua hàng).
Thứ hai, việc ưu đãi không chỉ gắn với loại thu nhập, mà còn có thể gắn
với chủ thể (ví dụ như Hợp tác xã, Doanh nghiệp nhỏ và vừa), lĩnh vực và địa
bàn ưu đãi. Tùy thuộc vào mỗi loại thu nhập chịu thuế của người nộp thuế cần
ưu đãi mà Nhà nước quy định mức thuế suất ưu đãi khác nhau nhằm tạo ra động
lực thúc đẩy phát triển các ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế vì mục tiêu
tái cấu trúc nền kinh tế. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng mỗi loại thu nhập có thể

được ưu đãi thuế trong giai đoạn này nhưng lại không được ưu đãi thuế trong
giai đoạn khác, tùy thuộc vào chính sách tài chính của Nhà nước trong từng giai
đoạn/thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp luôn phụ thuộc vào ý chí

11


của Nhà nước và phản ánh ý chí của Nhà nước trong việc sử dụng chính sách
thuế làm công cụ để điều tiết các hoạt động kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng trong
dân cư và tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn nhất định. Đây là một phần trong hệ thống chính sách công ở mỗi quốc
gia – gọi là chính sách tài chính, thường do Chính phủ đề xuất và Quốc hội là cơ
quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Điều này có nghĩa là, mỗi khi Chính
phủ muốn thay đổi chính sách ưu đãi thuế nói chung và ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp nói riêng – tức là Chính phủ muốn thay đổi định hướng phát triển
của nền kinh tế, thay đổi hướng đầu tư của các doanh nghiệp và đặc biệt là muốn
thay đổi mục tiêu, mô hình tái cấu trúc nền kinh tế thông qua công cụ thuế nói
chung, trong đó có thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Không thể phủ nhận rằng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
có vai trò quan trọng ở tầm vĩ mô trong việc thúc đẩy các hoạt động kinh doanh
và tái cấu trúc nền kinh tế theo định hướng thị trường. Về phương diện lý thuyết,
vai trò của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp được thể hiện ở một số khía cạnh
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, ưu đãi thuế không phải tạo ra quyền lợi mà là giảm bớt nghĩa
vụ thuế.
Việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tạo ra những quyền lợi rõ ràng về
vật chất cho người nộp thuế, thể hiện ở việc họ được giảm một phần hoặc được
miễn số thuế phải nộp tùy theo mức độ ưu đãi thuế của Nhà nước. Vì thế, nó có

ý nghĩa khuyến khích người nộp thuế là doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh vào
những lĩnh vực, ngành nghề được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trên nguyên tắc, mức ưu đãi thuế càng cao thì càng có tác dụng khuyến khích
mạnh mẽ người nộp thuế tăng cường đầu tư, kinh doanh vào những ngành nghề,
lĩnh vực cỉa mức độ ưu đãi cao, từ đó giúp nhà nước tái cấu trúc các ngành nghề,

12


lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế theo định hướng chủ trương, chính sách của
mình về phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, vai trò của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chủ thể là
Nhà nước.
Việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tuy có làm giảm phần nào nguồn
thu của ngân sách nhà nước nhưng về khía cạnh quản lý vĩ mô, Nhà nước có thể
thu được nhiều lợi ích khác lớn hơn, đó là đạt được mục tiêu điều tiết sản xuất,
tái cấu trúc nền kinh tế, ổn định xã hội theo các chủ trương, chính sách lớn mang
tầm chiến lược của mình. Điều quan trọng hơn, việc ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp còn thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với cộng đồng doanh nghiệp,
từ đó tạo lòng tin của cộng đồng nghiệp đối với Nhà nước và góp phần cải thiện
mối quan hệ vốn khá căng thẳng trong nhiều năm nay giữa Nhà nước (người thu
thuế) với doanh nghiệp (người nộp thuế) trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, vai trò của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với nền kinh tế
- xã hội.
Việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp mặc dù hướng đến đối tượng
được hưởng ưu đãi là doanh nghiệp nhưng thực chất chính sách này lại có tác
dụng rất lớn đến quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ, nhờ
có việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các ngành nghề, lĩnh vực khác
nhau mà Nhà nước có thể điều tiết một cách hiệu quả hơn đối với nền kinh tế
theo các mục tiêu chiến lược của mình. Thực tế cho thấy, Chính phủ nước nào

càng coi trọng vai trò của công cụ thuế trong quản lý, điều hành nền kinh tế thì
càng có khả năng sử dụng công cụ thuế một cách hiệu quả, trong đó có chính
sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặt khác, việc ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp còn có tác dụng cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp và hạn chế việc đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh
vực Nhà nước không muốn các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vì các lý do khác

13


nhau. Ngoài ra, đối với xã hội thì vai trò của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
còn được thể hiện ở chỗ, nhờ có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
mà các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi sẽ có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào
các ngành, nghề sản xuất, kinh doanh các hàng tiêu dùng thiết yếu, từ đó góp
phần thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của đông đảo người dân và cộng đồng xã hội.
1.1.3. Các hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Về phương diện lý thuyết, việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có thể
được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó phải kể đến
một số phương thức ưu đãi cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp bằng cách xem xét miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh
nghiệp kinh doanh những ngành nghề, lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích
đầu tư hoặc khuyến khích phát triển. Việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thực
chất là làm tăng thu nhập ròng của doanh nghiệp và từ đó giúp doanh nghiệp
củng cố năng lực tài chính để tiếp tục tái đầu tư vào hoạt động kinh doanh, mặt
khác cũng góp phần gia tăng phần lợi nhuận được chia cho các nhà đầu tư (chủ
sở hữu doanh nghiệp) và thông qua đó khuyến khích nhà đầu tư tiếp tục tăng
thêm vốn đầu tư vào doanh nghiệp bằng cách này hoặc cách khác để kỳ vọng sẽ
được hưởng lợi nhuận đầu tư nhiều hơn.
Thứ hai, Nhà nước xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh

nghiệp bằng cách xem xét giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh
nghiệp kinh doanh những ngành nghề, lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích
đầu tư hoặc khuyến khích phát triển. Việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
dưới hình thức giảm thuế thu nhập doanh nghiệp thực chất là Nhà nước giảm
gánh nặng về thuế cho doanh nghiệp, từ đó tăng phần lợi nhuận sau thuế (lợi
nhuận ròng) của doanh nghiệp để tiếp tục tái đầu tư trở lại các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, thông qua đó khuyến khích doanh nghiệp phát triển

14


kinh doanh trong các ngành, nghề được hưởng ưu đãi thuế. So với hình thức ưu
đãi thuế bằng miễn thuế thì hình thức ưu đãi thuế bằng giảm thuế tuy có tác dụng
ít hơn trong việc tác động đến thái độ của nhà đầu tư – doanh nghiệp chịu thuế
thu nhập doanh nghiệp nhưng rõ ràng nó cũng có những tác động rất tích cực
đến quá trình điều tiết kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng trong dân cư và tạo nguồn
thu ngân sách của Nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước có thể xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp bằng cách quy định mức thuế suất thấp hơn so với mức thuế suất thông
thường (thuế suất tiêu chuẩn) đối với những doanh nghiệp kinh doanh các ngành
nghề, lĩnh vực Nhà nước thấy cần ưu đãi để thúc đẩy sự phát triển của các
ngành, nghề, lĩnh vực đó. Việc quy định mức thuế suất thấp hơn (gọi là thuế suất
ưu đãi) so với mức thuế thuế thông thường (gọi là thuế suất tiêu chuẩn) sẽ góp
phần kích thích các doanh nghiệp trong việc đầu tư, kinh doanh trong những
ngành nghề, lĩnh vực được hưởng thuế suất thấp – thuế suất ưu đãi, thậm chí, vì
mục tiêu gia tăng lợi nhuận ròng, doanh nghiệp có thể sẵn sàng từ bỏ lĩnh vực
kinh doanh đang phải chịu thuế suất cao để chuyển sang kinh doanh ngành nghề,
lĩnh vực đang được hưởng mức thuế suất thấp – thuế suất ưu đãi.
Thứ tư, Nhà nước có thể xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp bằng cách tạo những thuận lợi hơn cho người nộp thuế là doanh nghiệp

trong việc được khấu trừ các chi phí hợp lý, hợp lệ trong hoạt động kinh doanh
hoặc chuyển lỗ... để từ đó giảm thu nhập chịu thuế và giảm số thuế thu nhập phải
nộp trong năm cho ngân sách nhà nước. Có thể nhận thấy, đây là một trong
những hình thức ưu đãi thuế khá phổ biến đã và đang được áp dụng ở nhiều nước
trên thế giới, trong đó có Việt Nam, theo đó Nhà nước sẽ mở rộng hoặc thu hẹp
danh mục các loại chi phí được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, hoặc
cho phép doanh nghiệp được chuyển lỗ và bù lỗ cho các năm trước khi tính thuế
thu nhập doanh nghiệp.

15


1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Về phương diện lý thuyết, pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
thực chất là một chế định thuộc lĩnh vực pháp luật thuế nói chung và pháp luật
thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng. Vì thế, khi giải thích khái niệm “pháp luật
về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp”, cần phải tiếp cận từ góc độ coi đây là
một chế định pháp luật. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật ưu
đãi thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là một chế định pháp lý
đặc thù của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp, bao gồm tổng hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp giữa Nhà nước với chủ thể nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Từ khái niệm trên, ta nhận thấy chế định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp phản ánh một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, chế định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp thể
hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp thông qua việc dành
các ưu tiên, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho người nộp thuế là doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Sự hỗ trợ này của Nhà nước không chỉ

nhằm tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp về phương diện thuế mà còn nhằm
mục đích cao cả hơn là giúp Nhà nước điều tiết các hoạt động kinh tế, định
hướng tiêu dùng trong dân cư và thiết lập công bằng xã hội.
Thứ hai, chế định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có nội
dung cơ bản là ghi nhận các hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và điều
kiện được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chủ thể nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, chế định này cũng có nhiệm vụ quy định rõ các
quy trình, thủ tục xét và cho hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, việc xử
lý vi phạm về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và giải quyết tranh chấp về ưu

16


đãi thuế thu nhập doanh nghiệp giữa Nhà nước với người nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Thứ ba, chế định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp thể hiện
sự cam kết đơn phương của Nhà nước đối với người nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp về các hình thức ưu đãi thuế, mức ưu đãi thuế và điều kiện hưởng ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp. Do là cam kết đơn phương của Nhà nước nên về
nguyên tắc, chủ thể cam kết bị ràng buộc về mặt pháp lý với lời cam kết đó,
không thể đơn phương hủy bỏ hoặc thay đổi nội dung cam kết dẫn đến hậu quả
xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của người được hưởng ưu đãi thuế.
Thứ tư, chế định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có nhiệm
vụ thể chế hóa ưu đãi thuế như là một quyền năng của Nhà nước đối với người
nộp thuế (Nhà nước có quyền cho người nộp thuế được hưởng ưu đãi thuế hay
không và cho hưởng ưu đãi đến đâu, ưu đãi như thế nào, trong thời gian nào... vì
mục tiêu quản lý kinh tế - xã hội), đồng thời khi đã cam kết cho người nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế thì Nhà nước có nghĩa vụ phải
thực hiện cam kết đó theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ năm, chế định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp được

ban hành và áp dụng dựa trên nguyên lý cơ bản là: Trong quá trình thiết kế chính
sách và thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, Nhà nước cần
đặt trọng tâm vào việc ưu tiên bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trên cơ sở đó bảo đảm lợi ích chung của Nhà
nước và nền kinh tế - xã hội. Trên thực tế, nguyên lý này đã được thực hiện ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới khi quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp.
1.2.2. Quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Xét về phương diện lý luận, quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp là quan hệ xã hội phát sinh giữa một bên là Nhà nước (đóng vai trò

17


là người thu thuế) với bên kia là người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, được
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Giống như bất kỳ quan hệ pháp luật nào, quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp cũng được cấu thành bởi ba yếu tố, gồm: chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật, khách thể của quan hệ pháp luật, nội dung của quan hệ
pháp luật (quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật).
Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
bao gồm hai bên, đó là: (i) Nhà nước (chủ thể có thẩm quyền quyết định cho
hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp) thông qua các cơ quan do Nhà nước
thành lập để thực hiện chức năng thu thuế và quản lý thuế; (ii) Chủ thể nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp (chủ thể được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp).
Trong quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế, Nhà nước đóng vai trò là chủ thể có
quyền quyết định việc ưu đãi thuế và ưu đãi như thế nào, điều kiện được hưởng
ưu đãi thuế ra sao đối với người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thẩm quyền
này của Nhà nước được phân chia cho các cơ quan nhà nước cụ thể có liên quan
như Chính phủ, Bộ Tài chính, cơ quan thuế các cấp. Còn chủ thể nộp thuế đóng

vai trò là bên được hưởng ưu đãi thuế trong quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế,
trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện được hưởng ưu đãi thuế theo quy định của
pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Khách thể của quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là
các lợi ích mà các bên chủ thể nhằm hướng tới khi tham gia quan hệ pháp luật về
ưu đãi thuế. Về lý thuyết cũng như thực tiễn, khi tham gia quan hệ pháp luật về
ưu đãi thuế, các bên có thể hướng tới những lợi ích giống nhau, nhưng cũng có
thể hướng tới những lợi ích khác nhau. Chẳng hạn, đối với chủ thể là Nhà nước,
khi tham gia quan hệ ưu đãi thuế, lợi ích mà Nhà nước hướng tới chính là những
thành tựu, kết quả tích cực có được từ việc điều tiết nền kinh tế, định hướng tiêu
dùng trong dân cư và thiết lập công bằng xã hội thông qua việc sử dụng chính

18


sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Còn đối với chủ thể nộp thuế, khi tham
gia quan hệ pháp luật ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, họ nhằm hướng đến lợi
ích cơ bản là được giảm hoặc miễn thuế sự thuận lợi thu nhập doanh nghiệp,
hoặc được hưởng các điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình thực hiện nghĩa vụ
thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nội dung của quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
chính là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Về lý thuyết, mỗi chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có những
quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về các quyền và nghĩa vụ của chủ thể là Nhà nước.
Khi tham gia quan hệ pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp,
Nhà nước có một số quyền, nghĩa vụ cơ bản như:
- Quyền xem xét các điều kiện ưu đãi thuế và quyết định cho người nộp
thuế được hưởng ưu đãi thuế theo hình thức nào, ưu đãi trong thời gian bao lâu

theo quy định của pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Quyền từ chối cho hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nếu người
nộp thuế không thỏa mãn các điều kiện được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Quyền xử phạt đối với người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong
trường hợp chủ thể này có hành vi vi phạm pháp luật thuế để được hưởng ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Nghĩa vụ thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho
người nộp thuế nếu chủ thể này có đủ điều kiện được hưởng ưu đãi thuế theo
quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Nghĩa vụ tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại về ưu đãi thuế thu nhập

19


×