Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn thực hiện tại các tòa án nhân dân tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

HÀ XUÂN TRƯỜNG

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
HÀ XUÂN TRƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 51010109

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

HÀ NỘI – 2017




LỜI CAM ĐOAN
Những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung
thực, của tôi và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào, các thông tin trích dẫn
trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố. Nếu sai, tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Xuân Trường


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này tôi xin chân
thành cảm ơn sự giảng dạy nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo - Viện Đại học
mở Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa đào tạo sau đại học.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy
giáo hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn TAND tình Hải Dương đã tạo điều kiện
cho tôi trong việc thu thập tài liệu, số liệu thống kê để có thể hoàn thành luận
văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Học viên

Hà Xuân Trường


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài .................................. 4
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài .......................................... 4
6. Những điểm mới của luận văn ........................................................................ 5
7. Cơ cấu của luận văn ........................................................................................ 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA TOÀ ÁN .............................................. 7
1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Toà án và ý nghĩa của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của Toà án ............................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai…………………………………………….....7
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án ............ 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai của Toà án .................................................................................................... 13
1.2. Cơ sở khoa học của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai của Toà án .................................................................................... 15
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai của Toà án ..................................................................................... 15


1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai ........................................................................................................ 18
1.3. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Việt
Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án ....................... 20
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980 ...................................................... 20
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1987 ...................................................... 22
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1993 ...................................................... 24

1.3.4. Giai đoạn năm 1993 đến năm 2003 .......................................................... 26
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay ................................................................ 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA TOÀ ÁN .................... 37
2.1. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà
án theo loại việc ................................................................................................. 37
2.1.1. Quy định về điều kiện hoà giải tiền tố tụng đối với thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của Toà án............................................................................ 37
2.1.2. Các loại tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền dân sự của Toà án. ......... 40
2.1.3. Quy định về thẩm quyền của Toà án đối với việc hủy quyết định cá biệt . 46
2.2. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà
án theo cấp và theo lãnh thổ.............................................................................. 47
2.2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân các cấp47
2.2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án theo lãnh thổ ...... 51


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 53
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA CÁC TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI
DƯƠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................... 54
3.1.Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
tại các Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương. ........................................................ 54
3.1.1. Những kết quả đạt được trong áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai. .............................................................................................. 54
3.1.2. Những tồn tại, khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai. .................................................................. 64
3.1.3. Nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai .......................................................... 73
3.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh

chấp đất đai của Toà án nhân dân .................................................................... 74
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai ....................................................................................................................... 74
3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
............................................................................................................................ 77
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 81
KẾT LUẬN CHUNG .......................................................................................... 82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

- BLTTDS:

Bộ luật Tố tụng dân sự

- BLDS:

Bộ luật Dân sự

- CP:

Chính phủ

- HĐBT:

Hội đồng bộ trưởng

- HTND:

Hội thẩm nhân dân


- HĐTP:

Hội đồng Thẩm phán

- LĐĐ:

Luật Đất đai

- MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

- NQ:

Nghị quyết

- TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

- TCĐC:

Tổng cục Địa chính

- TTLT:

Thông tư liên tịch

- UBND:


Ủy ban nhân dân

- QĐ:

Quyết định

- VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

- KHXX

Khoa học xét xử

- GĐ

Giải đáp

- TLST-DS

Thụ lý sơ thẩm – Dân sự


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, nguồn lực có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ an ninh và quốc phòng. Ở nước ta từ khi Nhà
nước quy định cho người sử dụng đất có các giấy tờ về sử dụng đất hợp pháp được
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất (QSDĐ) thì

các giao dịch về QSDĐ phát triển nahnh chóng góp phần tích cực vào sự phát triển
kinh tế xã hội. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các tranh chấp đất đai từ đó
cũng xảy ra nhiều, kéo dai và ngày càng phức tạp nên đã có những ảnh hưởng tiêu cực
đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, một trong những vấn đề đang được cả
Nhà nước và xã hội quan tâm là phải nâng cao được hiệu quả giải quyết các tranh
chấp đất đai.
Luật đất đai (LĐĐ) năm 2013 và Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm
2015 có nhiều tiến bộ so với LĐĐ năm 2003 và BLTTDS năm 2004 quy định mở
rộng thẩm quyền dân sự giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án, tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả, giải quyết dứt điểm các tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, thực tiễn áp
dụng các quy định này trong của các Tòa án trong những năm qua cho thấy vẫn còn
nhiều vướng mắc, bất cập dẫn đến hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai chưa cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu thẩm quyền dân sự giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án để tìm ra
những giải pháp giải quyết những vướng mắc, bất cập nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án trong lúc này là rất cần thiết. Với lý do đó, Học viên
đã lựa chọn đề tài:“Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn thực hiện
tại các Tòa án nhân tỉnh Hải Dương” nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học pháp lý nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án.

1


Trong số các công trình khoa học pháp lý nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án đã được công bố phải kể tới
các công trình sau đây:
- Về đề tài nghiên cứu khoa học có: Đề tài “Một số vấn đề về cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS,” Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ,

TANDTC năm 1996; Đề tài“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tư pháp
dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ do Viện Nhà
nước và pháp luật thực hiện năm 2010; đề tài “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân
sự rút gọn theo yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế, quốc tế hiện nay –
Thực trạng và giải pháp, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 2014; đề tài “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ
tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp,” công trình nghiên cứu
khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010 v.v...
- Về luận văn, luận án, có: Luận án tiến sỹ luật học “Phân cấp thẩm quyền
giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” của Lê Thị Hà, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005; Luận
văn thạc sỹ luật học “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân
dân” của Nguyễn Thị Mai, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010; luận
văn thạc sỹ luật học “Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của tác giả Nguyễn Hoài Nam, bảo vệ tại Khoa luật trực thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2012; Luận văn thạc sỹ luật học “Chuyển nhượng QSDĐ ở
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Thanh Vân, bảo vệ tại Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2012; Luận văn thạc sỹ luật học “Thẩm quyền dân sự của
Tòa án theo lãnh thổ và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội” của Bế Hoài Anh,
bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014; Luận văn thạc sỹ luật học “Hòa
giải trong giải quyết tranh chấp đất đai” của Nguyễn Thị Hảo bảo vệ tại Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2016 v.v…

2


- Về giáo trình, sách chuyên khảo có: Giáo trình LĐĐ của Trường Đại học
Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2005; Giáo trình
Luật tố tụng hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an
nhân dân xuất bản năm 2011; Giáo trình Luật TTDS Việt Nam của Trường Đại học

Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2017; Giáo trình
Luật TTDS Việt Nam của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia, năm 2014; Sách chuyên khảo “Pháp luật Việt Nam trong tiến trình
hội nhâp Quốc tế và phát triển bền vững” của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà
xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2009; Sách chuyên khảo “Giao dịch về
QSDĐ vô hiệu pháp luật và thực tiễn xét xử” của tác giả Nguyễn Văn Cường và Nguyễn
Minh Hằng, do Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông xuất bản năm 2011 v.v…
- Về các bài hội thảo, bài viết trên các tạp chí có: Bài “Về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của Toà án” của Nguyễn Quang Tuyến, đăng trên Tạp chí
TAND, số 14/2004; bài “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án”
của tác giả Trần Quang Huy, đăng trên Tạp chí TAND, số 17/2004; bài “Thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất” của Trần
Anh Tuấn, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2009; bài “Hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ trong kinh doanh bất động sản Việt Nam”của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Nhung, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật 285/2012;. bài
“Pháp LĐĐ và thực tế áp dụng” của tác giả Bùi Thị Mai Liên, đăng trên Tạp chí
TAND, số 15, 16/2016; bài “Hợp đồng về QSDĐ trong Bộ luật dân sự năm 2015”
của tác giả Nguyễn Thùy Trang, đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2016; bài “QSDĐ
- Một số quan điểm tiếp cận và đề xuất hướng giải quyết trong khoa học pháp lý
của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thùy Trang, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 4/2016; bài “Hoàn thiện các quy định về định giá đất ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Châu Hoàng Thân và Phan Trung Hiền, đăng trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 3 (347)/2017 v.v...
Các công trình khoa học pháp lý nêu trên đã nghiên cứu làm rõ được một số
vấn đề liên quan đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án. Tuy

3


nhiên, phạm vi và mục đích của các công trình nghiên cứu nên cho đến nay vẫn

chưa có công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện
những vấn đề về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án, các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của Tòa án và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án.
Nội dung nghiên cứu đề tài khá rộng, bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của đề tài luận văn thạc sỹ luật học phạm vi nghiên cứu chỉ tập
trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự như khái niệm tranh chấp đất đai, khái niệm thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án, cơ sở khoa học của việc pháp luật quy
định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án, các quy định của pháp
luật đất đai và pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai của Tòa án và thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại các Tòa án nhân
dân (TAND) ở tỉnh Hải Dương trong những năm gần đây.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài cũng sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp lịch sử, phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê v.v… để làm rõ những vấn đề
thuộc phạm vi nghiên cứu đề tài.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

4



Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án, nội dung các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân
dân và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại các Tòa án ở tỉnh Hải Dương, từ đó đề xuất
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án.
Để thực hiện được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài luận văn có
các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai của Tòa án như khái niệm tranh chấp đất đai, khái niệm, ý nghĩa thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án, cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy
định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án;
- Phân tích, đánh giá các quy định của LĐĐ năm 2013 và BLTTDS năm
2015 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án;
- Khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định của LĐĐ năm 2013 và BLTTDS
năm 2015 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của các Tòa án trên địa bàn
tỉnh Hải Dương;
- Nhận diện những hạn chế, bất cập trong các quy định của LĐĐ năm 2013
và BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án và
thực tiễn thực hiện tại Tòa án, từ đó tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầy đủ và có tính hệ thống những vấn đề
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án và có những điểm mới về
khoa học sau đây:
- Hoàn thiện khái niệm, làm rõ được ý nghĩa và cơ sở khoa học của việc pháp
luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án;

5



- Phân tích, đánh giá đúng các quy định của LĐĐ năm 2013 và BLTTDS
năm 2015 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án;
- Khảo sát, đánh giá đúng thực tiễn thực hiện các quy định của LĐĐ năm
2013 và BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của các
Tòa án trên địa bàn tỉnh Hải Dương;
- Nhận diện được những hạn chế, bất cập trong các quy định của LĐĐ năm
2013 và BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án
và thực tiễn thực hiện tại Tòa án và đề xuất được các giải pháp phù hợp để nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, danh mục các chữ viết tắt, lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
đất đai của Tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của Toà án.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại các Tòa án ở tỉnh Hải Dương và kiến nghị.

6


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
CỦA TOÀ ÁN
1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Toà án và ý nghĩa của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của Toà án

1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Trong xã hội, do nhận thức về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khác nhau
nên các tranh chấp xảy ra là điều không tránh khỏi. Có nhiều loại tranh chấp, trong
đó tranh chấp đất đai là một loại tranh chấp khá phổ biến.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, tranh chấp đất đai được định nghĩa như
sau: "Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất
giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai" (Khoản 24 Điều 3 LĐĐ năm 2013).
Theo đó, đối tượng tranh chấp đất đai được hiểu là quyền, nghĩa vụ của người sử
dụng đất; chủ thể tranh chấp là hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai. Tuy nhiên,
định nghĩa này còn khá chung, chưa cụ thể, chưa giúp nói rõ được bản chất của
tranh chấp đất đai là gì. Trong quan hệ đất đai, tranh chấp chính là những mâu
thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể về các vấn đề lợi ích, quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên chủ thể trong quan hệ đất đai. Đối tượng của tranh chấp đất đai được hiểu là
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất thì đó là tranh chấp tổng thể các quyền,
nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất do
pháp luật đất đai quy định hay gồm cả những tranh chấp mà quyền, nghĩa vụ của
người sử dụng đất phát sinh khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác? Chủ thể
của tranh chấp được xác định là hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai?

7


Trong khoa học pháp lý, tranh chấp đất đai được định nghĩa là “sự bất đồng
về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đất đai.”
[19, tr.455 - 459]. Như vậy, tranh chấp đất đai chính là tranh chấp về lợi ích, về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đất đai, bao gồm cả
tranh chấp về QSDĐ và các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, chủ thể
trong tranh chấp đất đai là những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa người sử
dụng đất với cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Từ đó, có thể kết luận: “Tranh
chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền và

nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai trong quá trình quản lý và
sử dụng đất đai.”
Đất đai là một loại tài sản có giá trị đặc biệt và thuộc sở hữu toàn dân, các tổ
chức cá nhân chỉ có quyền quản lý, sử dụng. Vì vậy, so với các loại tranh chấp dân
sự khác, tranh chấp đất đai có một số đặc điểm sau đây:
- Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và một
số lợi ích vật chất khác phát sinh từ quyền quản lý, sử dụng một loại tài sản đặc biệt
không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu toàn dân.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước làm người đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Các chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử
dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai. Quyền sử dụng đất (QSDĐ) của
các chủ thể phát sinh trên cơ sở quyết định giao đất, cho thuê đất của Nhà nước
cũng như phát sinh thông qua việc nhận chuyển QSDĐ từ các chủ thể khác hay
công nhận QSDĐ với đất đang sử dụng ổn định, lâu dài. Như vậy, giống như các
tranh chấp khác, chủ thể của các tranh chấp đất đai có thể là các cá nhân; tổ chức;
hộ gia đình; cộng đồng dân cư hay các đơn vị hành chính. Tuy nhiên, khác với các
tranh chấp khác chủ thể của quan hệ tranh chấp đất đai không phải là chủ sở hữu của
đối tượng bị tranh chấp.
- Tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể,
tính chất của tranh chấp đất đai rất phức tạp và thường là gay gắt, quyết liệt hơn các

8


loại tranh chấp khác nên không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tham
gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến
nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội... [23, tr15].
Đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của con người và mọi
sự sống trên trái đất. Trong sự phát triển kinh tế xã hội loài người nói chung cũng
như sự hình thành, phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc nói riêng, đất đai vừa là

tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội vừa là cơ sở để mỗi quốc
gia thể hiện lãnh thổ, chủ quyền của mình. Từ bao đời nay, qua nhiều thay đổi,
thăng trầm lịch sử, tranh chấp đất đai diễn ra như là một tất yếu của xã hội. Ở nước
ta, tranh chấp đất đai xảy ra nhiều đã gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng xấu
đến trật tự, an toàn xã hội. Các tranh chấp này xuất phát từ một số nguyên nhân chủ
yếu sau:
Thứ nhất, về nguyên nhân khách quan
Chiến tranh kéo dài đã để lại hậu quả khác nhau trên cả 02 miền. Ở miền
Bắc, sau cách mạng tháng Tám và sau năm 1953, Đảng và Chính phủ đã tiến hành
cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong kiến,
xác lập quyền sở hữu ruộng đất cho người dân. Năm 1960 thông qua con đường hợp
tác hóa nông nghiệp, ruộng đất của người dân được đưa vào làm tư liệu sản xuất
chung, thuộc sở hữu tập thể, do đó tính hình sử dụng đất đai khá ổn định.
Ở miền Nam, sau hai cuộc kháng chiến tình hình sử dụng đất đai có nhiều
diễn biến phức tạp hơn. Trong 9 năm kháng chiến 1945-1954, Chính phủ đã chia
cấp ruộng cho người nông dân hai lần vào các năm 1949-1950 và 1954. Nhưng đến
cuối năm 1957, chính quyền Sài gòn đã tiến hành việc cải cách điền địa, tiến hành
việc “truất hữu” nhằm xóa bỏ thành quả cách mạng, gây ra những xáo trộn lớn về
quyền sở hữu ruộng đất của người nông dân. Cộng thêm vào đó là tình hình chiến
tranh khiến cho cư dân phân tán, rời bỏ ruộng đất đi lánh nạn nên quan hệ đất đai
biến động thường xuyên.

9


Sau năm 1975, Nhà nước đã tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời
xây dựng hàng loạt các nông trường, lâm trường, trạm trại. Nhìn chung, những tổ
chức này bao chiếm nhiều diện tích nhưng sử dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua
hai lần điều chỉnh ruộng đất vào các giai đoạn từ năm 1978 đến năm 1979 và từ
năm 1982 đến năm 1983, cùng với chính sách chia cấp theo kiểu bình quân đã dẫn

đến những xáo trộn lớn về ruộng đất, ranh giới và mục đích sử dụng.
Hiện nay, trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước việc thu hồi
đất để mở rộng đô thị, xây dựng hạ tầng, thực hiện các dự án đầu tư làm cho quỹ đất
canh tác ngày càng giảm. Trong khi đó, sự gia tăng dân số vẫn ở tỷ lệ cao, cơ cấu
kinh tế chưa đáp ứng được vấn đề giải quyết việc làm và cuộc sống cho người lao
động. Đặc biệt do tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường làm cho giá đất tăng đã
và đang là những áp lực lớn gây nên tình trạng tranh chấp gắn với QSDĐ trở lên
gay gắt trong xã hội. [19, tr.460].
Thứ hai, về nguyên nhân chủ quan
Trong thời gian qua, công tác quản lý đất đai còn nhiều yếu kém. Nhà nước
phân công, phân cấp cho quá nhiều ngành dẫn đến việc quản lý đất đai thiếu chặt
chẽ. Có thời kỳ mỗi loại đất do một ngành quản lý. Đất lâm nghiệp do ngành lâm
nghiệp quản lý, đất chuyên dùng thuộc ngành nào thì ngành đó quản lý. Cũng có
tình trạng, có loại đất không được cơ quan nào quản lý. Bên cạnh đó, tổ chức cơ
quan quản lý đất đai từ trung ương đến cơ sở không ổn định, hoàn toàn không đủ
sức giúp cho nhà nước trong lĩnh vực này.
Công tác phân vùng quy hoạch đất đai làm chậm, thiếu đồng bộ, việc phân
chia địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhưng xác định mốc giới không kịp thời
hoặc không rõ ràng làm cho tình trạng tranh chấp đất đai phức tạp thêm. Phương
tiện và hồ sơ phục vụ cho công tác quản lý đất đai còn thiếu. Hồ sơ địa chính chưa
hoàn bị lại không đồng bộ, thiếu căn cứ pháp lý và thực tế, việc lưu trữ lại không
đầy đủ, khi có tranh chấp xảy ra việc xác định người có QSDĐ rất khó khăn. Vấn đề
cấp giấy chứng nhận QSDĐ còn chậm do nhiều nguyên nhân, trong đó có phần là

10


do chưa có đầy đủ cơ sở khoa học và phương pháp quản lý cần thiết để xác định
QSDĐ cho các chủ thể. Chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập,
đời sống của người sử dụng đất bị thu hồi chưa được quan tâm thỏa đáng. Những

điều đó đã và đang làm giảm hiệu lực của Nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp
đất đai.
Chính sách, pháp luật đất đai chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, có mặt
không rõ ràng và đang còn nhiều biến động. Thực tế áp dụng các chính sách,
pháp luật đất đai còn nhiều tùy tiện, người có khả năng sản xuất nông nghiệp thì
thiếu ruộng, người không có khả năng thì lại được chia ruộng, đất được sử dụng
kém hiệu quả. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thi hành luật chậm được ban
hành làm cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc
gặp nhiều khó khăn, khiến cho việc áp dụng pháp luật thiếu hiệu quả. Mặt khác,
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai chưa thực sự được coi trọng, vì
thế trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật đất đai trong nhân
dân còn hạn chế. Nhiều văn bản pháp luật đất đai chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Một bộ phận cán bộ, công chức còn thiếu gương mẫu, còn có tư tưởng đặc
quyền đặc lợi, chỉ lo cho lợi ích của mình, tùy tiện trong khi thực hiện nhiệm vụ, vi
phạm chế độ quản lý và sử dụng đất đai. Một số cán bộ, công chức năng lực thực hiện
công vụ quản lý đất đai còn có phần hạn chế. [19, tr.461].
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án
Trong từ điển tiếng Việt, “thẩm quyền” là thuật ngữ dùng để chỉ “quyền xem
xét, kết luận và định đoạt vấn đề theo pháp luật hoặc chỉ một tư cách về chuyên
môn được thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định vấn đề” [5, tr.1128]. Theo
Từ điển Luật học, thì “thẩm quyền” được hiểu là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
hành động, quyết định của các cơ quan nhà, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà
nước do pháp luật quy định” . Trong Từ điển pháp luật, thuật ngữ thẩm quyền xét
xử được hiểu là “Khả năng của Toà án xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật
cho phép.” [17, tr. 459]. Theo Giáo trình Luật tố tụng hành chính của Trường Đại

11


học Luật Hà Nội, thì “Thẩm quyền là quyền hạn theo pháp luật quy định cả cơ quan

công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định” [18,tr. 29]. Qua các định
nghĩa đó cho thấy một trong những yếu tố không thể thiếu được của thẩm quyền là
quyền hạn được trao cho một cơ quan, tổ chức được quyền hành động và đưa ra quyết
định trong giới hạn do pháp luật quy định để giải quyết một vấn đề cụ thể. Từ đó, có
thể định nghĩa về thẩm quyền như sau: “Thẩm quyền là quyền hạn của một cơ quan
được xem xét và ra quyết định về một vấn đề nhất định trong phạm vi của mình theo
quy định của pháp luật.”
Tòa án là một cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Bởi vậy, Tòa án cũng được
pháp luật quy định có thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ việc phát sinh trong
đời sống xã hội. Ở các nước trên thế giới, thẩm quyền của Toà án được tiếp cận dưới
hai góc độ là thẩm quyền theo loại việc và thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ. Theo
cách tiếp cận này, thì khái niệm thẩm quyền của Toà án được hiểu là khả năng của
Toà án trong việc xem xét giải quyết một vụ việc căn cứ vào bản chất của vụ việc
(thẩm quyền theo loại việc) cũng như căn cứ vào phạm vi lãnh thổ (thẩm quyền
theo lãnh thổ). Ở Việt Nam, khái niệm thẩm quyền của Toà án được tiếp cận dưới
ba góc độ là thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của Toà án các cấp và thẩm
quyền của Toà án theo lãnh thổ. Vì vậy, khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự cũng được tiếp cận dưới ba góc
độ là thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của Toà án các cấp và thẩm quyền của
Toà án theo lãnh thổ. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án theo loại
việc xác định những tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự của Tòa án. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án các
cấp phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm giữa
Tòa án cấp trên và cấp dưới, cụ thể là giữa Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án theo theo lãnh thổ phân định
thẩm quyền giữa các Tòa án cùng cấp trong việc giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Tòa án. Từ những vấn đề nêu trên có thể rút ra kết luận: “Thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự là quyền

12



của Toà án trong việc thụ lý, xem xét và quyết định giải quyết tranh chấp đất đai,
được tiếp cận dưới ba góc độ là thẩm quyền theo loại việc, theo cấp và theo lãnh
thổ; trong đó, thẩm quyền theo loại việc xác định những tranh chấp đất đai Toà án
có thẩm quyền thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, thẩm quyền theo cấp
phân định tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Toà án cấp huyện và
Toà án cấp tỉnh; thẩm quyền theo lãnh thổ phân định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai giữa các Toà án cùng cấp.” [24, tr.57].
1.1.3. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Toà án
Trong bộ máy Nhà nước có nhiều cơ quan, đơn vị cùng hoạt động, thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc phân định rõ ràng
thẩm quyền giữa các cơ quan Nhà nước là rất cần thiết bảo đảm cho bộ máy Nhà nước
hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả. Các tranh chấp đất đai ở nước ta xảy ra khá phổ
biến. Vì vậy, việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa
án có ý nghĩa rất quan trọng và thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Tòa án sẽ phân định rõ thẩm quyền của Tòa án và các cơ quan nhà nước khác, tránh
được sự việc đùn đẩy trách nhiệm trong việc giải quyết tranh chấp đất đai hoặc gây khó
khăn cho người dân khi họ tiếp cận công lý. Mặt khác, cũng tránh được sự chồng chéo
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa Toà án với các cơ quan nhà nước và
giữa các Toà án với nhau trong việc giải quyết tranh chấp đất đai, góp phần tạo điều
kiện cần thiết cho Toà án giải quyết các tranh chấp đất đai nhanh chóng và đúng đắn,
nâng cao được hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Các tranh chấp đất đai có nhiều loại, bao gồm tranh chấp về QSDĐ và các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp giữa người sử dụng đất với
nhau hoặc giữa người sử dụng đất với cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, tranh
chấp phát sinh từ những quan hệ khác nhau như quan hệ chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp đất đai, quản lý đất đai v.v...Từ đó, yêu cầu mỗi loại tranh chấp đất đai cần phải có


13


cơ quan chuyên môn phù hợp giải quyết và giải quyết theo thủ tục phù hợp mới có hiệu
quả. Vì vậy, việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa
án vừa giúp cho Tòa án và các cơ quan chức năng chủ động thực hiện việc giải quyết
tranh chấp đất đai, tránh được sự chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm trong việc giải
quyết tranh chấp đất đai hoặc gây khó khăn cho người dân khi họ tiếp cận công lý.
Thứ hai, việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án một
cách khoa học còn tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án giải quyết kịp thời, đúng đắn các
tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự trong quan hệ đất đai, từ đó bảo đảm an toàn các giao dịch về quyền sử dụng đất,
góp phần ổn định tình hình an ninh xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Toà án là cơ sở pháp lý để Tòa án xem xét, quyết định thụ lý, giải quyết tranh chấp
đất đai cụ thể. Căn cứ vào các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của Toà án mà Tòa án quyết định việc thụ lý, giải quyết tranh
chấp đất đai tranh chấp đất đai hay không khi nhận được yêu cầu của đương sự. Vì
vậy, việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án một cách
khoa học còn tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án giải quyết kịp thời, đúng đắn các
tranh chấp đất đai. Ngược lại, việc pháp luật quy định không khoa học thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án sẽ dẫn đến việc Toà án thụ lý, giải quyết
không đúng hoặc dẫn đến phải ra các quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án,
chuyển vụ án sau khi thụ lý, gây mất thời gian đi lại, tốn kém cho các đương sự.
Thứ ba, việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Tòa án một cách khoa học còn tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố
tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước Toà án.
Trong các tranh chấp đất đai, thì các đương sự là người có quyền, lợi ích hợp
pháp cần phải bảo vệ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các tranh chấp đất đai xảy ra một

phần không nhỏ là do đương sự có hạn chế về hiểu biết pháp luật. Mặt khác, các đương
sự thường tham gia tố tụng lần đầu tại Tòa án, không có kinh nghiệm tham gia tố tụng

14


nên việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước Toà án của đương sự sẽ không tránh khỏi
những hạn chế. Việc pháp luật quy định khoa học, cụ thể những vấn đề liên quan đến
việc tham gia tố tụng của đương sự trong giải quyết tranh chấp đất đai sẽ giúp cho
đương sự dễ dàng thực hiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước Toà án, trong đó
có vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án. [22, tr.45].
1.2. Cơ sở khoa học của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai của Toà án
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp
đất đai của Toà án
1.2.1.1. Việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án là căn
cứ vào tổ chức bộ máy nhà nước và chức năng, nhiệm vụ của Tòa án
Theo khoản 1 và khoản 3 Điều 102 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 có quy định :
“ 1. TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp” và “3. TAND có trách nhiệm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích của Nhà nước,
quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. [6, tr44. ].
Chính vì vậy, việc Tòa án giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng và các tranh
chấp dân sự khác nói chung chính là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được
pháp luật quy định cho Tòa án. Đối với các tranh chấp về đất đai nhưng không phải
là tranh chấp về quyền dân sự mà có yếu tố quản lý về đất đai thì cần được xác định
là những tranh chấp thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân
(UBND) các cấp.
Khoản 9 Điều 26 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án có thẩm quyền giải

quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai. Cần phải hiểu tranh
chấp đất đai theo quy định này là tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất. Đối
với tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất, bản

15


chất là tranh chấp về quan hệ hợp đồng, quan hệ thừa kế, có đối tượng là quyền sử
dụng đất. Đặc trưng cơ bản khi xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai là
phải có sự phân biệt giữa thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án và
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan hành chính; đồng thời có sự
phân biệt rõ tranh chấp về QSDĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ
tục tố tụng dân sự với các quan hệ khiếu kiện liên quan đến QSDĐ thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính. LĐĐ năm 2003 và
LĐĐ năm 2013 đều có quy định rõ về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Tòa án.
Kể từ ngày LĐĐ năm 2013 có hiệu lực, nếu như người khởi kiện lựa chọn
Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai mà không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy
tờ quy định tại Điều 100 của LĐĐ năm 2013. Trường hợp này, khi nhận đơn khởi
kiện của người khởi kiện, Thẩm phán phải xác nhận xem người khởi kiện có đồng
thời nộp đơn đến UBND đề nghị giải quyết hay không. Nếu, người khởi kiện vừa
nộp đơn khởi kiện đến Tòa án, vừa nộp đơn khiếu nại đến UBND, thì Tòa án phải
hướng dẫn họ lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trường
hợp, vụ việc đang được UBND giải quyết thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người
khởi kiện. Nếu, vụ việc đã được giải quyết tại UBND có thẩm quyền, nhưng đương
sự không đồng ý với quyết định giải quyết và khởi kiện ra tòa thì Tòa án thụ lý vụ
án theo thủ tục hành chính.
1.2.1.2. Việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án là dựa
vào tính chất của quan hệ tranh chấp

Các quy định về thẩm quyền tại BLTTDS năm 2015 và LĐĐ năm 2013 đều
được xây dựng dựa vào đối tượng của tranh chấp. Việc xác định thẩm quyền của Toà
án theo loại thủ tục tố tụng nào phải căn cứ vào tính chất của loại quan hệ pháp luật
nội dung mà Toà án cần giải quyết. Thông thường, các nhóm quan hệ pháp luật nội
dung có cùng tính chất sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của từng

16


ngành luật nội dung riêng biệt. Để xác định những tranh chấp về QSDĐ do Toà án giải
quyết theo thủ tục tố tụng dân sự sẽ tuân theo các quy định tại LĐĐ năm 2013. Việc
xác định đối tượng tranh chấp dựa vào các loại giấy tờ được quy định tại Điều 100
LĐĐ năm 2013 cũng như căn cứ vào Điều 203 để xác định thẩm quyền của Toà án giải
quyết tranh chấp.
Trong một số trường hợp để giảm bớt áp lực về công việc của ngành Toà án,
đồng thời xuất phát từ ý nghĩa của việc hoà giải tranh chấp trong nội bộ nhân dân
pháp luật quy định Toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết sau khi tranh chấp đất đai
đã được các cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước hoặc đương sự đã yêu cầu
nhưng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không giải quyết trong thời hạn do pháp luật
quy định. Đối với một số tranh chấp đất đai, Toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết
khi đã được hoà giải tại UBND cấp xã, phường,thị trấn kết hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác là
điều kiện bắt buộc phải có trước khi Tòa án nhận đơn của đương sự. Nếu không có
việc hòa giải của UBND cấp xã, phường thì các đương sự sẽ bị coi là chưa đủ điều
kiện khởi kiện
1.2.1.3. Việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án là
căn cứ vào yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội.
LĐĐ năm 2013 đã thể chế hóa đầy đủ quan điểm, định hướng nêu trong
Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
đồng thời luật hóa tối đa các quy định hiện hành đang phát huy hiệu quả để khắc

phục, giải quyết những tồn tại, hạn chế phát sinh trong quá trình thi hành LĐĐ năm
2003, trong đó những vấn đề về quyền, trách nhiệm của Nhà nước và quản lý nhà
nước đối với đất đai, các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất...đã được LĐĐ
năm 2013 quy định cụ thể. Riêng trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai, thẩm
quyền của Toà án được LĐĐ năm 2013 quy định mở rộng hơn nhiều so với LĐĐ
năm 2003. Đây là xu hướng chung rất phù hợp với thực tiễn của đất nước trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay đời sống kinh tế, xã hội phát triển nhanh

17


×