Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.14 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN
QUẢN LÝ CẠNH TRANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

TRẦN MINH TIẾN

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TRẦN MINH TIẾN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ PHƯƠNG ĐÔNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong
luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG

NGƯỜI CAM ĐOAN

DẪN KHOA HỌC

TS. Vũ Phương Đông

Trần Minh Tiến


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự lỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè
trong suốt khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
Ban Giám hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ Khoa Sau đại học, Viện Đại học Mở Hà
Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn thạc sỹ.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS Vũ Phương Đông đã tận tình
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn ở cạnh động
viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.


Hà Nội, ngày 05 tháng 11 năm 2017
Tác giả

Trần Minh Tiến


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ
CẠNH TRANH

6

1.1. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan quản lý cạnh tranh

6

1.1.1. Khái niệm cơ quan quản lý cạnh tranh

6

1.1.2. Đặc điểm của cơ quan quản lý cạnh tranh


10

1.1.3. Vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh

12

1.2. Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh

17

1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh

17

1.2.2. Nội dung của địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh

18

1.3. Cơ quan quản lý cạnh tranh của một số nước trên thế giới

21

1.3.1. Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ và Cục Chống độc quyền
thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ

21

1.3.2. Ủy ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản

27


1.3.3. Ủy ban Cạnh tranh Singapore

32

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH
TRANH Ở VIỆT NAM

36

2.1. Những quy định pháp luật về cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam

36

2.1.1. Các cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam

36

2.1.2. Vị trí pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam

39

2.2. Địa vị pháp lý của Cục Quản lý cạnh tranh và một số đánh giá

41

2.2.1. Cơ cấu tổ chức của cục quản lý cạnh tranh

41


2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Quản lý cạnh tranh

42

2.2.3. Một số đánh giá về địa vị pháp lý của Cục Quản lý cạnh tranh

46


2.3. Địa vị pháp lý của Hội đồng cạnh tranh và một số đánh giá

51

2.3.1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh tranh

51

2.3.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Cạnh tranh

52

2.3.3. Một số đánh giá về địa vị pháp lý của Hội đồng Cạnh tranh

55

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH
Ở VIỆT NAM

63


3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh

63

3.2. Giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh

66

KẾT LUẬN

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Có thể khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật cạnh tranh đối với nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Pháp luật cạnh tranh đóng vai trò điều tiết nền kinh tế,
duy trì và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, cho phép các thực thể
kinh tế có cơ hội bình đẳng cạnh tranh cũng như tiếp cận thị trường... Sự ra đời của
pháp luật cạnh tranh dẫn đến yêu cầu cẩn phải có một hệ thống cơ quan nhà nước,
với vị trí vững chắc, độc lập và đầy đủ thẩm quyền để thực thi Pháp luật cạnh tranh.
Ở Việt Nam, pháp luật cạnh tranh ghi dấu ấn đầu tiên khi Luật Cạnh tranh
được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2005.
Trước đó vào năm 2003, Ban quản lý cạnh tranh đã thành lập theo quyết định
của Bộ trưởng Bộ Thương mại, tuy nhiên nhiệm vụ chính của Ban Quản lý cạnh

tranh vào lúc này chủ yếu là: Tham gia soạn thảo Luật Cạnh tranh và các văn bản
hướng dẫn; hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đối phó với các vụ kiện chống bán
phá giá của nước ngoài kiện các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Và để thi
hành Luật Cạnh tranh 2004 ngày 26/2/2004 Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ban hành
Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở
Ban Quản lý cạnh tranh. Cục Quản lý cạnh tranh ra đời với nhiệm vụ chính là thực
thi Luật Cạnh tranh; Thực thi 03 Pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự
vệ thương mại và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ngày 05/02/2013, Bộ trưởng
Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 848/QĐ-BCT quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Bên cạnh Cục
Quản lý cạnh tranh, ngày 09/01/2006 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số
05/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh tranh. Đây thực sự là những cột mốc quan trọng,
bởi sự ra đời của hai cơ quan này là một bước tiến quan trọng nhằm hoàn thiện hệ
thống cơ quan quản lý cạnh tranh.

1


Kể từ khi được thành lập đến nay, Cục quản lý cạnh tranh cũng như Hội
đồng Cạnh tranh đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận, từ những nỗ lực trong
việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự; tích cực tổ chức tuyên truyền, phổ biến
pháp luật cạnh tranh,... đến các doanh nghiệp; tham gia các chương trình hợp tác
quốc tế,… cho đến những thành quả trong các vụ việc cạnh tranh được xử lý, những
vụ kiện về bán phá giá, trợ cấp và tự vệ thương mại của các nước mà doanh nghiệp
Việt Nam xuất khẩu;… đây thực sự là những thành quả đáng ghi nhận đối với các
cơ quan quản lý cạnh tranh trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển.
Bên cạnh những thành quả đạt được, cũng có nhiều ý kiến cho rằng mô hình,
vị trí pháp lý, chức năng nhiệm vụ của hai cơ quan quản lý cạnh tranh hiện nay còn
nhiều vấn đề bất cập. Với cơ chế hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh được đánh giá là

chưa thực sự phát huy được tính độc lập, tự chủ của một cơ quan quản lý cạnh tranh
khi cục này bị phụ thuộc quá nhiều vào Bộ Công thương cả về tổ chức cũng như
hoạt động. Hệ thống các chức năng nhiệm vụ mà Cục được giao phó cũng còn nhiều
vấn đề tranh cãi, khi mà Cục Quản lý cạnh tranh còn ôm đồm quá nhiều chức năng,
với nguồn nhân lực và điều kiện hiện nay của Cục thì đây thực sự là một khó khăn,
vì vậy muốn chức năng quản lý cạnh tranh được phát huy, chú trọng hơn nữa thì
việc điều chỉnh cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh là điều
cần thiết. Còn với Hội đồng Cạnh tranh, trên cơ sở kết quả điều tra của Cục Quản lý
cạnh tranh, cơ quan này có chức năng xét xử, đưa ra các phán quyết, giải quyết
khiếu nại có liên quan đến vụ việc hạn chế cạnh tranh. Song những quy định về địa
vị pháp lý của cơ quan này như vị trí, cơ chế làm việc chưa rõ ràng, còn nhiều bất
cập dẫn đến những khó khăn trong hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của cơ quan
quản lý cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2


Cho đến nay có khá nhiều đề tài nghiên cứu ở trong nước cũng như các công
trình hợp tác với nước ngoài về pháp luật cạnh tranh nói chung và về cơ quan quản
lý cạnh tranh nói riêng:
Các tác phẩm dịch được biên dịch trong khuôn khổ hợp tác giữa Bộ Thương
mại với các tổ chức như Dự án Hỗ trợ và thực thi chính sách của Canada (PIAP),
Ngân hàng thế giới WB và Tổ chức Hợp tác phát triển OECD, Chương trình Phát
triển liên hiệp quốc UNDP, Tổ chức Thương mại và phát triển liên hợp quốc
UNCTAD, gồm: “Luật Cạnh tranh Canada và bình luận”; “Khuôn khổ cho việc xây
dựng và thực thi luật và chính sách cạnh tranh”; “Khuôn khổ pháp lý đa phương
điều chỉnh hoạt động cạnh tranh và luật cạnh tranh một số nước, vùng lãnh thổ”.

Một số tác phẩm nghiên cứu trong nước rất có giá trị trong quá trình xây
dựng và hoạch định chính sách cạnh tranh ở Việt Nam, như: Đề tài của Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương năm 2001 về “Các vấn đề pháp lý và thể chế chính
sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh”; Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ của trường Đại học Ngoại thương năm 2006 về “Những vấn đề đặt ra và giải
pháp thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh trong thực tiễn”; Đề tài nghiên cứu cấp
Bộ của Cục Quản lý cạnh tranh năm 2006 về “xây dựng mô hình cơ quan quản lý
nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ thương mại quốc tế.
Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam”.
Ngoài ra có nhiều ấn phẩm của các nhà khoa học viết về cạnh tranh và pháp
luật cạnh tranh, như: Sách “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam” TS.Lê Danh Vĩnh,
Hoàng Xuân Bắc, Ths.Nguyễn Ngọc Sơn. NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2006; Sách
“Phân tích và lý giải các quan điểm của Luật Cạnh tranh” PGS TS Nguyễn Như
Phát, Ths.Nguyễn Ngọc Sơn. NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2006.
Nhìn chung các vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và pháp luật cạnh
tranh đã được nghiên cứu khá toàn diện. Tuy nhiên, một vấn đề mang tính chất
chuyên sâu như địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý cạnh tranh thì chưa được giải
quyết một cách sâu sắc và thỏa đáng cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm giải quyết một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh, trên cơ sở đó tìm ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
quản lý cạnh tranh
Để đạt được mục đích của việc nghiên cứu đề tài, các nhiệm vụ được đặt ra là:
Làm sáng tỏ địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh;
- Chỉ ra kinh nghiệm của một số nước về việc xây dựng địa vị pháp lý của cơ
quan quản lý cạnh tranh, thông qua việc giới thiệu các quy định cơ bản về địa vị

pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh của nước này;
- Nêu và đánh giá thực trạng pháp luật quy định về địa vị pháp lý của hai cơ
quan quản lý cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam;
- Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của
cơ quản quản lý cạnh tranh ở Việt Nam, sao cho phù hợp với điều kiện và sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Khi đề cập đến pháp luật cạnh tranh nói chung và với cơ quan quản lý cạnh
tranh nói riêng, sẽ đề cập đến nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên,
trong luận văn này tác giả không tham vọng trình bày hết các vấn đề đó. Luận văn
sẽ chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá về địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh
tranh ở Việt Nam bao gồm: Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. Tập
trung nghiên cứu chủ yếu về vị trí pháp lý, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan này. Và trước đó thì có những đánh giá tương tự với cơ quan cạnh tranh
của một số nước trên thế giới nhằm rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất hoàn
thiện đối với Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

4


Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước và pháp luật và sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như là
phương pháp chủ đạo để giải quyết các vấn đề lý luận trong chương 1.
Ngoài ra, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, so sánh, đối
chiếu, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn để giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài đặt ra trong chương 2 và chương 3.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu riêng biệt, độc lập về vấn đề địa vị pháp
lý của cơ quan quản lý cạnh tranh hiện nay, luận văn đưa ra những đánh giá về tính

hiệu quả, những mặt hạn chế về những chức năng nhiệm vụ mà các cơ quan quản lý
cạnh tranh này được giao. Trên cơ sở học hỏi mô hình một số nước về việc xây
dựng cơ quan quản lý cạnh tranh, và với thực trạng hiện nay của cơ quan quản lý
cạnh tranh ở Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị
pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các
chữ cái viết tắt, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.

5


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan quản lý cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cơ quan quản lý cạnh tranh
Cho đến nay, trong các công trình nghiên cứu về cơ quan quản lý cạnh tranh,
hầu như chưa có một khái niệm cụ thể nào về cơ quan quản lý cạnh tranh, tuy nhiên
để hiểu được thế nào là cơ quan quản lý cạnh tranh, chúng ta cần làm rõ được các
khía cạnh sau: Bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh và vị trí của nó
trong bộ máy nhà nước.
Trên thế giới, mỗi quốc gia đều có một tên gọi riêng cho cơ quan quản lý
cạnh tranh của mình, tùy vào tính chất, địa vị của cơ quan quản lý cạnh tranh mà
quốc gia đó ghi nhận cho nó. Ví dụ như ở Đức là Cục Cartel liên bang; ở Hà Lan là
Tổng cục Cạnh tranh; ở Nhật Bản là Ủy ban Thương mại lành mạnh; ở Ba Lan là

Văn phòng Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng… Tuy nhiên, trong các văn bản
pháp luật cạnh tranh của các nước khi quy định về cơ quan quản lý cạnh tranh
thường không sử dụng các thuật ngữ là một cơ quan “Lập pháp”, “Hành pháp” hay
“Tư pháp” để chỉ bản chất pháp lý của các cơ quan này.
Qua nghiên cứu các cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới thì cho thấy:
Trước tiên các cơ quan này có chức năng chính là quản lý nhà nước về lĩnh vực
cạnh tranh, là công cụ của các Chính phủ trong việc thực thi các chính sách, pháp
luật về cạnh tranh của mỗi quốc gia, nhằm điều tiết quá trình cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp, hướng quá trình này phục vụ cho những mục tiêu đã được định
sẵn, do đó hệ thống cơ quan này có dáng dấp của một cơ quan “hành pháp”.
Ngoài ra, hoạt động của cơ quan này lại mang tính tài phán “tư pháp”, vì ngoài
việc quản lý, đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp khi tham gia thị trường,
thì nó còn là cơ quan xét xử các tranh chấp có liên quan đến pháp luật cạnh
6


tranh, được pháp luật cạnh tranh quy định, do đó nó có quyền đưa ra các quyết
định để phân xử đúng sai và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các bên có hành
vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Sự kết hợp hai đức tính “hành chính” và “tư pháp” là yếu tố quan trọng nhằm
đảm bảo cho cơ quan này thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Vì vậy, có
thể khẳng định cơ quan quản lý cạnh tranh không phải là một cơ quan lập pháp,
hành pháp hay tư pháp mà nó là một cơ quan có tính “lưỡng tính” khi vừa mang
tính chất là một cơ quan “hành pháp” vừa là một cơ quan “tư pháp”.
Ví dụ, về tính lưỡng tính của cơ quan quản lý cạnh tranh được thể hiện ở
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban Thương mại lành mạnh của Nhật
Bản (32). Căn cứ luật của Nhật Bản, có thể chia thẩm quyền của Ủy ban này làm
hai loại: thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp. Thẩm quyền hành chính
có: tiếp nhận các thông báo từ phía các doanh nghiệp theo luật chống độc quyền;
điều tra khảo sát về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tình trạng độc quyền

trong nền kinh tế; ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chống độc
quyền,… Về thẩm quyền tư pháp, trong một số trường hợp nhất định, khi xử lý vụ
việc vi phạm Luật Chống độc quyền, Ủy ban có thể tổ chức phiên họp tương tự như
việc xét xử của Tòa án và ra phán quyết. Quyết định của Ủy ban có thể bị kháng cáo
lên Tòa Phúc thẩm Tokyo.
Qua nghiên cứu cho thấy cơ quan quản lý cạnh tranh ở mỗi quốc gia đều
được thành lập và tổ chức theo một mô hình riêng, và có tính đặc thù. Địa vị của các
cơ quan này trong hệ thống cơ quan nhà nước có thể trực thuộc Quốc hội, hoặc
thuộc cơ quan trực thuộc Thủ tướng Chính phủ/Tổng thống hay là một cơ quan
ngang Bộ, và có thể là một cơ quan thuộc Bộ (có thể là Bộ Kinh tế hay Bộ Tư
pháp,…). Việc lựa chọn thành lập cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc cơ quan
nào là phụ thuộc vào mỗi một quốc gia, tuy nhiên tất cả đều phải đảm bảo được tính
độc lập trong việc quản lý và ra các phán quyết trong các vụ việc cạnh tranh. Bởi
cạnh tranh là một lĩnh vực đặc biệt, nó liên quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội
7


của mỗi quốc gia. Nếu sự công bằng, nghiêm minh trong mọi hoạt động của cơ
quan quản lý cạnh tranh từ việc giám sát thi hành pháp luật cạnh tranh, đến việc ban
hành phán xét,… đối với các chủ thể vi phạm không được đảm bảo thì chắc chắn sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
Đối với mô hình cạnh tranh trực thuộc Quốc hội hiện nay được một số quốc
gia lựa chọn như Hoa Kỳ (Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ), Italia (Cơ quan
Cạnh tranh Italia),… thì rõ ràng tính độc lập trong hoạt động của cơ quan này được
đảm bảo cao hơn, bởi các hoạt động cũng như ra các quyết định được độc lập với
Chính phủ. Ngoài ra thủ tục bổ nhiệm người đứng đầu và các thành viên, cơ chế tài
chính của những cơ quan này được Quốc hội lựa chọn và đảm bảo. Còn với mô
hình cơ quan quản lý cạnh tranh là một cơ quan ngang Bộ hay trực thuộc Thủ
tướng/Tổng thống thường được thành lập dưới hình thức các Ủy ban, Văn phòng…
Được một số nước lựa chọn như: Hàn Quốc (Ủy ban Thương mại lành mạnh - thuộc

Tổng thống); Cộng hòa Séc (Văn phòng Bảo vệ cạnh tranh - thuộc Chính phủ); Đài
Loan (Ủy ban Thương mại lành mạnh - cơ quan cấp Bộ),… đối với những cơ quan
này thì việc bổ nhiệm và cơ chế hoạt động thường có sự tham gia và quyết định bởi
người đứng đầu Chính phủ hoặc Tổng thống hoặc có cả sự tham gia của cơ quan lập
pháp. Một ví dụ điển hình tại Úc (34): Ủy ban Cạnh tranh và tiêu dùng Úc, là một
cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ nhưng hoạt động độc lập và được thành lập theo
Luật Liên bang Úc. Ban lãnh đạo của Ủy ban có 7 thành viên, trong đó có một chủ
tịch và hai phó chủ tịch, các thành viên này được người đứng đầu nhà nước bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 05 năm và quyết định bổ nhiệm này chỉ được tiến hành khi có
đa số phiếu bầu ủng hộ của các cơ quan lập pháp lãnh thổ và bang ở nước này. Pháp
luật Úc cũng ghi nhận ban cạnh tranh và tiêu dùng Úc mặc dù trực thuộc Chính phủ
song hoạt động độc lập với Chính phủ, được phép áp dụng Luật Thương mại một
cách tự chủ nhằm đảm bảo sự nhất quán trong quá trình thực thi hoạt động của
mình. Những cơ chế này đã phần nào tránh được tình trạng can thiệp của chính phủ
vào hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh. Với mô hình cơ quan quản lý cạnh
tranh trực thuộc Bộ (thường là Bộ Kinh tế, Thương mại,…) được phần lớn các nước
8


trên thế giới lựa chọn, điển hình là: Canada (Cục Cạnh tranh - thuộc Bộ Công
nghiệp), Áo (Cục Cạnh tranh liên bang - thuộc Bộ Kinh tế), Bồ Đào Nha (Tổng cục
Thương mại và cạnh tranh - thuộc Bộ Kinh tế),… Thực tế dù quy định cơ quan
quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ, song cơ chế bổ nhiệm người đứng đầu cũng như
mọi hoạt động của các cơ quan này cũng luôn được đảm bảo để các cơ quan này
không bị lệ thuộc và các Bộ chủ quản cũng như Chính phủ. Một ví dụ điển hình là
Ủy ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản (32) (sau đây gọi là Ủy ban): Hiện nay Ủy
ban trực thuộc Chính phủ Nhật Bản, nhưng trước đây Ủy ban này có vị trí như là
một cơ quan cấp Bộ thuộc sự chỉ đạo của Bộ trưởng các Bộ: Bộ Quản lý công cộng,
Bộ Nội vụ, Bộ Bưu chính viễn thông. Tuy nhiên Ủy ban có đặc điểm của một tổ
chức quản lý theo hệ thống hội đồng hoạt động độc lập, bao gồm một chủ tịch và

bốn ủy viên. Trong việc thực thi Luật Chống độc quyền, Ủy ban thực hiện nhiệm vụ
của nó một cách độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay giám sát của bất cứ một ai. Các
vấn đề về chỉ định người đứng đầu Ủy ban cũng như các thành viên thuộc trách
nhiệm của người đứng đầu Chính phủ và có sự phê chuẩn của Thượng viện, Hạ
viện. Đối với các Bộ được xem là chủ quản của Ủy ban vào thời điểm này thì chỉ có
nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện tốt nhất nhằm duy trì hoạt động của Ủy ban được
hiệu quả, như các việc đệ trình các dự thảo liên quan lên nghị viện và soạn thảo dự
thảo ngân sách thuộc về Bộ trưởng Bộ Quản lý công cộng, Bộ Nội vụ, Bộ Bưu
chính viễn thông. Chính những yếu tố này đã làm tăng tính độc lập trong hoạt động
cũng như phán quyết của Ủy ban với các Bộ được xem là chủ quản.
Như vậy chúng ta có thể thấy, vị trí pháp lý của các cơ quản quản lý cạnh
tranh có thể khác nhau, song có một điểm chung là về cơ bản pháp luật các nước
luôn muốn hướng đến xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh độc lập,
tự chủ trong hoạt động cũng như các phán quyết của nó. Điều này được thể hiện qua
các quy định của pháp luật về cơ chế bổ nhiệm, các quy trình hoạt động của các cơ
quan như: cơ chế tài chính, kiểm tra, giám sát hay đưa ra các phán quyết,…
Qua những đánh giá, phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra kết luận: Cơ
quan quản lý cạnh tranh là một cơ quan hoặc một hệ thống các cơ quan nằm trong
9


hệ thống bộ máy quản lý nhà nước của mỗi quốc gia. Tùy vào cơ chế, chính sách
của mỗi quốc gia, theo đó Cơ quan quản lý cạnh tranh có thể là cơ quan trực thuộc
Quốc hội, thuộc Thủ Tướng Chính phủ/Tổng thống, cơ quan ngang Bộ hoặc là một
cơ quan trực thuộc Bộ. Có trách nhiệm thực thi và đảm bảo thực thi pháp luật cạnh
tranh của quốc gia đó, thông qua cơ chế quản lý, giám sát và đưa ra các phán quyết
đối với các chủ thể tham gia hoạt động thương mại trên thị trường.
1.1.2. Đặc điểm của cơ qan quản lý cạnh tranh
Các cơ quan quản lý cạnh tranh dù được thành lập, tổ chức theo mô hình nào
đi chăng nữa thì cũng mang trong đó những điểm riêng biệt so với các cơ quan nhà

nước khác trong hệ thống. Mang trong nó một số những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, độc lập là nguyên tắc quan trọng hàng đầu đối với một cơ quan
quản lý cạnh tranh. Rõ ràng “độc lập” là yếu tố quyết định đến sự công bằng trong
việc xử lý các vụ việc, điều mà các bên đương sự luôn chờ đợi ở cơ quan này. Tính
độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và hoạt động luôn luôn là mục tiêu
hàng đầu mà các nước này hướng tới xây dựng. Đây là một nội dung rất quan trọng
đảm bảo cho những cơ quan này có thể thực hiện chức năng xử lý một cách thông
minh, vì mục tiêu bảo vệ trật tự công cộng - cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Để đạt được mục tiêu này, Luật Cạnh tranh của các nước đều quy định
nguyên tắc tối cao là các cơ quan cạnh tranh hoàn toàn độc lập trong các hoạt động
của mình mà không bị chi phối hay can thiệp của bất kỳ cơ quan thứ ba nào. Các cơ
quan cạnh tranh được thành lập theo luật và thực hiện các quyền năng được Luật
này trao cho. Họ cũng có thể sử dụng những quyền hạn này để yêu cầu sự phối hợp,
hỗ trợ của các cơ quan khác.
Để tạo lập sự độc lập về mặt tổ chức và tài chính, một số nước như Italia
đã thành lập cơ quan cạnh tranh của mình trực thuộc Quốc hội, độc lập với tư
pháp và chính phủ. Một số cơ quan cạnh tranh khác lại được tổ chức như một Bộ
hay ngang Bộ, độc lập với các bộ ngành khác. Một số trường hợp khác mặc dù
đặt trong một bộ ngành nào đó nhưng lại duy trì một chế độ độc lập rất cao trong
10


hoạt động. Các cơ quan này chỉ bị phụ thuộc về mặt hành chính. Việc độc lập
này còn đạt được thông qua bổ nhiệm những nhân sự của các cơ quan cạnh tranh
này. Ngoài ra, Luật Cạnh tranh các nước còn quy định rõ ngân sách hoạt động
cũng như chế độ đãi ngộ cho các cơ quan cạnh tranh và thành viên cơ quan này,
qua đó đảm bảo vấn đề ngân sách không làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ
thống cơ quan quản lý cạnh tranh [2, tr.77-78].
Thứ hai, tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước nói
chung là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đối với các cơ quan quản lý

cạnh tranh thì đây lại là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều này xuất phát
từ vai trò trong việc duy trì trật tự cạnh tranh rõ ràng, lành mạnh. Thông tin trong thị
trường phải được thông suốt. Tính minh bạch sẽ nâng cao thêm uy tín của chính
sách các cơ quan này.
Pháp luật cạnh tranh của các quốc gia nói trên đều quy định rất chặt chẽ về
những yêu cầu phải công bố công khai các hoạt động của cơ quan cạnh tranh. Ngoài
ra, các bên liên quan có quyền yêu cầu các cơ quan cạnh tranh cho phép tiếp cận
thông tin liên quan tới vụ việc. Trên thực tế các cơ quan cạnh tranh cũng luôn đề
cao tiêu chí minh bạch (Transparency) trong các hoạt động cụ thể của mình, từ việc
công khai các chính sách, pháp luật, các quy trình xử lý công việc… cho đến nội
dung các quyết định, phán xét các vụ việc cạnh tranh cụ thể trên các phương tiện
truyền thông của mình như: website của cơ quan, các ấn phẩm được phát hành định
kỳ… Tuy nhiên bên cạnh đó, cơ quản quản lý cạnh tranh phải có trách nhiệm bảo
mật các thông tin thu thập được trong quá trình điều tra liên quan đến bí mật kinh
doanh của các doanh nghiệp là đối tượng bị điều tra [2, tr.78].
Thứ ba, về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh: Chức năng
chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là quản lý và điều tiết hoạt động cạnh tranh
của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong quốc gia đó. Đảm bảo cho hoạt
động cạnh tranh được diễn ra một cách bình đẳng, công bằng qua đó gián tiếp thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Để thực hiện chức năng này thì nhiệm vụ chính của cơ
quan quản lý cạnh tranh là đảm bảo thực thi hệ thống pháp luật cạnh tranh. Mỗi
11


quốc gia đều có một hệ thống pháp luật cạnh tranh riêng của mình, với những tên
gọi khác nhau và việc đảm bảo thực thi hệ thống các văn bản pháp luật đó là nhiệm
vụ của các cơ quan quản lý cạnh tranh ở đây. Ví dụ như: Ủy ban Thương mại lành
mạnh Nhật Bản chịu trách nhiệm thực thi: Luật Chống độc quyền và Luật Hợp
đồng phụ; Ủy ban Cạnh tranh và người tiêu dùng Úc chịu trách nhiệm thực thi
Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng; Cục Cạnh tranh Canada chịu trách

nhiệm quản lý và thực thi Luật Cạnh tranh, Luật Đóng gói và dán nhãn (sản phẩm
không phải là thực phẩm), Luật Nhãn hiệu hàng dệt may, Luật Nhãn mác kim loại
quý… Có thể nói, pháp luật cạnh tranh được thực thi nghiêm chỉnh đến đâu là phụ
thuộc vào hiệu quả hoạt động của chính cơ quan này. Ngoài chức năng điều tiết
cạnh tranh thì một số cơ quan quản lý cạnh tranh còn có chức năng đảm bảo quyền
lợi cho người tiêu dùng.
1.1.3. Vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh
Ngày nay, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận trong mọi
hoạt động đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường và
động lực của sự phát triển nói chung, mà còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng, và là yếu
tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Vì vậy, duy trì và đảm bảo cho
các chủ thể tham gia hoạt động thương mại được cạnh tranh công bằng, bình đẳng
chính là yêu cầu tiên quyết cho sự phát triển của mỗi một nền kinh tế. Với chức
năng chính là thực thi pháp luật cạnh tranh, hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh ở
mỗi quốc gia đóng vai trò chính trong việc đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế được
diễn ra trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, đúng pháp luật. Qua đó đóng góp
vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Cụ thể, vai trò của cơ quan quản
lý cạnh tranh được thể hiện:
• Đối với nền kinh tế thị trường
Cơ quan quản lý cạnh tranh điều tiết hoạt động cạnh tranh với công cụ là
những chính sách cạnh tranh sẽ đảm bảo duy trì tính năng động và tăng hiệu quả
12


của nền kinh tế. Cạnh tranh giúp cho các doanh nghiệp phát huy hết khả năng của
mình bằng cách khuyến khích họ liên tục phấn đấu đạt tiêu chuẩn cao về chất
lượng, dịch vụ và giá cả. Sức ép cạnh tranh sinh ra những sản phẩm mới vì các công
ty áp dụng công nghệ mới và những biện pháp quản lý tiên tiến. Cạnh tranh là một
đặc trưng cơ bản, là nền tảng và động lực phát triển của kinh tế thị trường. Có thể

nói rằng không có cạnh tranh thì cũng không thể có nền kinh tế thị trường. Cùng với
quy luật cung cầu và quy luật giá trị, cạnh tranh trở thành một quy luật cơ bản của
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên nếu chỉ với những tiền đề kinh tế như trên, cạnh
tranh vẫn chưa thể có cơ hội nảy sinh và tồn tại trong đời sống kinh tế. Cạnh tranh
chỉ có thể xuất hiện với tư cách là một sản phẩm của kinh tế thị trường trong những
điều kiện của những tiền đề pháp lý cụ thể, nghĩa là các chủ thể thuộc loại thành
phần kinh tế phải được nhà nước thừa nhận và bảo vệ quyền tự do, tự chủ trong
kinh doanh, quyền sở hữu và tính đa dạng của các loại hình sở hữu cũng như địa vị
bình đẳng trước pháp luật. Do đó, duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh và
kiểm soát sự độc quyền trong kinh doanh là việc làm cần thiết thể hiện vai trò quan
trọng của cơ quan quản lý cạnh tranh. Những vai trò đó được thể hiện cụ thể.
Thứ nhất, sự có mặt của cơ quan quản lý cạnh tranh đồng thời với việc thực
thi và giám sát thực hiện pháp luật cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường sẽ
tạo nền tàng cơ bản cho quá trình cạnh tranh, duy trì và thúc đẩy quá trình cạnh
tranh tự do hay bảo vệ hoặc thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả. Thông qua các chính sách
cạnh tranh. Nhà nước bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh, hợp tác
bình đẳng trong một khuôn khổ pháp luật chung. Cơ quan quản lý cạnh tranh chủ
động điều tiết những mặt trái của cạnh tranh bằng cách kiểm soát quá trình dẫn đến
vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền của doanh nghiệp, chống các hành vi gây cản
trở cạnh tranh, cũng như thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường.
Vì vậy, thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp lúc này là buộc phải chấp nhận
cạnh tranh một cách văn minh hơn, bài bản hơn. Các doanh nghiệp lớn sẽ không
còn lợi dụng vào sự lớn mạnh của mình để chèn ép các doanh nghiệp nhỏ nữa, mà
phải cẩn thận hơn trước khi đưa ra những quyết định quan trọng trong kinh doanh,
13


bởi lẽ những quyết định của họ sẽ ảnh hưởng đáng kể tới thị trường và sẽ được
giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý cạnh tranh [2, tr.23].
Thứ hai, cơ quan quản lý cạnh tranh điều tiết quá trình cạnh tranh, hướng

các doanh nghiệp cạnh tranh một cách lành mạnh, đúng hướng. Quá trình này sẽ
phục vụ cho những mục tiêu đã được định sẵn, ví dụ như đạt hiệu quả kinh tế cao
đối với các doanh nghiệp, bảo vệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, duy trì hệ thống
doanh nghiệp tự do, duy trì sự công bằng, trung thực trong kinh doanh, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ ba, sự có mặt của cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ hạn chế các tác động
tiêu cực nảy sinh do sự điều hành quá mức của nhà nước vào thị trường. Quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đã làm
thay đổi về căn bản vai trò của Nhà nước trong thị trường. Có những điều được
coi là hiển nhiên trong nền kinh tế kế hoạch hóa trở nên không còn phù hợp với
kinh tế thị trường và ngược lại, có những điều không được chấp nhận trong kinh
tế tập trung ngại thích hợp trong kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, việc
nhà nước chỉ huy một cách tập trung (thể hiện bằng các quy định, chỉ thị, mệnh
lệnh hành chính đối với hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế kể cả
quốc doanh, ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài) cho tới nay không còn phù
hợp nữa. Thực tế đã cho thấy vẫn còn có không ít hiện tượng chia cắt thị trường
trong nước, chỉ định đối tác giao dịch xuất phát từ các cơ quan quản lý nhà nước.
Đây có thể nói là một nét đặc thù của các nền kinh tế chuyển đổi. Theo đó, hành
vi lạm dụng thẩm quyền của cơ quan quản lý Nhà nước sẽ bị điều chỉnh, góp
phần làm hạn chế các tác động các tác động tiêu cực nảy sinh do can thiệp quá
mức của Nhà nước vào thị trường.
Rõ ràng là cơ quan quản lý cạnh tranh giữ một vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế thị trường. Dưới sự điều chỉnh của cơ quan này bằng một hệ thống pháp luật
cạnh tranh hiệu lực cao, các doanh nghiệp sẽ có một sân chơi bình đẳng, lành mạnh để
có thể cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường trong đó người tiêu dùng sẽ
mua hàng hóa/dịch vụ với chất lượng tốt nhất và giá cả rẻ nhất có thể [2, tr.24-25].
14


* Đối với xã hội

Việc thực thi hệ thống pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh
thông qua những cơ chế giám sát, phát hiện xử lý hay đưa ra các phán quyết sẽ là
một áp lực không nhỏ đối với các doanh nghiệp năng lực yếu kém, từ đó sẽ có sự
dịch chuyển đáng kể nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
còn thiếu, qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Việc tạo ra một
môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng tất yếu sẽ xuất hiện những doanh
nghiệp chấp nhận và thích nghi được với môi trường mới và rõ ràng những
doanh nghiệp này sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn hiệu quả. Và không tránh
khỏi có những doanh nghiệp buộc phải chuyển sanh hình thức kinh doanh khác
hiệu quả hơn hoặc bị phá sản. Xét về khía cạnh xã hội thì phá sản doanh nghiệp
không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hội được chuyển
sang cho nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả hơn chứ không
bị mất đi. Phá sản không phải là sự hủy diệt hoàn toàn mà là sự hủy diệt sáng
tạo: doanh nghiệp yếu kém mất đi, doanh nghiệp mới xuất hiện và chỉ những
doanh nghiệp nào hiệu quả mới có thể tiếp tục tồn tại. Điều này góp phần làm
thúc đẩy xã hội ngày càng tiến bộ.
Ngoài ra, việc cơ quan quản lý cạnh tranh thực thi nghiêm túc các chính sách
cạnh tranh sẽ góp phần tạo dựng sự phát triển bền vững của nền kinh tế, mang lại
lợi ích cho đất nước. Như đã trình bày ở trên thì trong một môi trường mà các
doanh nghiệp cạnh tranh một cách bình đẳng, trên cơ sở hành lang pháp lý là hệ
thống pháp luật cạnh tranh và với sự giám sát, điều tiết, phán xét một cách công
bằng của cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ khuyến khích sự phát triển của các doanh
nghiệp lớn, loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn “chộp giật”, đảm bảo công bằng giữa
các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ; thông qua môi trường cạnh tranh lành
mạnh thì người tiêu dùng sẽ được hưởng những sản phẩm với chất lượng tốt nhất,
quyền lợi người tiêu dùng sẽ được đảm bảo... Tất cả những yếu tố này sẽ góp phần
tạo dựng một nền kinh tế phát triển bền vững. Pháp luật được tôn trọng và chấp
hành một cách nghiêm minh [2, tr. 27].
15



* Đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng
Các doanh nghiệp là những người được hưởng lợi trước tiên đối với những
việc thi hành các chính sách cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh. Nếu như
trước khi cơ quan quản lý cạnh tranh xuất hiện, các doanh nghiệp làm ăn một cách
tự phát, doanh nghiệp lớn bằng những nguồn lực của mình có thể chèn ép các doanh
nghiệp nhỏ còn quyền và lợi ích của các doanh nghiệp có thể bị xâm phạm bất cứ
lúc nào bởi các doanh nghiệp làm ăn “chộp giật”,… mà không có một cơ quan
chuyên biệt với một hệ thống pháp luật đủ mạnh để phán xử. Thì khi cơ quan quản
lý cạnh tranh được thành lập, với công cụ là hệ thống pháp luật cạnh tranh sẽ tạo lập
và phát triển một môi trường cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng; góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Việc điều tiết hành vi cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh tập trung
vào tác động với cách hành xử của các doanh nghiệp với nhau, và đối với người tiêu
dùng. Mục đích cuối cùng của người tiêu dùng là lợi nhuận. Do đó, muốn tăng lợi
nhuận, doanh nghiệp phải bán được nhiều hàng hóa phải thực hiện nhiều biện pháp
cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Trong môi trường cạnh tranh công bằng, bình
đẳng được tạo lập và có sự giám sát của cơ quan quản lý cạnh tranh thì doanh
nghiệp chỉ có thể sử dụng các biện pháp cạnh tranh lành mạnh thông qua việc:
không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, hạ giá bán sản
phẩm, tăng cường chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng nhằm chiếm được lòng
tin của người tiêu dùng. Qua các hành vi cạnh tranh lành mạnh này, người tiêu dùng
sẽ có nhiều lựa chọn hơn do chủng loại mẫu mã hàng hóa phong phú hơn, họ sẽ có
hàng hóa với chất lượng cao hơn và dịch vụ chăm sóc khách hàng chu đáo hơn. Các
doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh với nhau để thỏa mãn yêu cầu của người tiêu dùng,
để tranh thủ sự tín nhiệm của người tiêu dùng nhằm bán được nhiều hàng hơn, thu
được nhiều lợi nhuận hơn. Và rõ ràng bản thân doanh nghiệp đó cũng sẽ có những
bước phát triển bền vững hơn. Vì vậy, nhờ có cạnh tranh lành mạnh mà người tiêu
dùng được lợi, doanh nghiệp cạnh tranh thắng lợi cũng sẽ thu được nhiều lợi nhuận

và nền kinh tế cũng như xã hội sẽ phát triển.
16


1.2. Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh
Trước khi tìm hiểu “địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh chúng ta
cần tìm hiểu khái niệm “địa vị pháp lý”. Theo từ điển luật học, “Địa vị pháp lý được
hiểu là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật
khác trên cơ sở các quy định pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện
thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng
như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị
pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời
cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối
quan hệ pháp luật [27, tr.244].
Như vậy trên cơ sở quy định của pháp luật, địa vị pháp lý trước tiên cho phép
chúng ta xác định được vị trí của chủ thể ấy đặt ở đâu so với các chủ thể pháp luật
khác. Vị trí này ghi nhận thông qua việc chủ thể đó được thành lập ra sao, được quy
định như thế nào và đặc biệt là pháp luật trao cho nó những quyền và nghĩa vụ gì.
Tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho chủ thể đó sẽ nói lên
được quyền hạn, phạm vi, trách nhiệm mà chủ thể đó được phép thực hiện khi tham
gia các quan hệ pháp luật với các chủ thể khác. Vì thế, xác định được địa vị pháp lý
của mình, khi tham gia các hoạt động của mình chủ thể pháp luật sẽ biết được
quyền của mình sẽ được những gì, giới hạn đến đâu, nghĩa vụ, trách nhiệm của
mình sẽ làm gồm những gì. Mỗi một chủ thể pháp luật sẽ được ghi nhận những
quyền và nghĩa vụ khác nhau thông qua các quy định của pháp luật, vì vậy tổng thể
các quyền và nghĩa vụ này là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt giữa các chủ thể
pháp luật với nhau, căn cứ để đánh giá tầm quan trọng của mỗi chủ thể trong các
mối quan hệ pháp luật mà nó tham gia.
Từ khái niệm địa vị pháp lý, chúng ta có thể đưa ra được khái niệm “địa vị

pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh” là vị trí của cơ quan này trong mối quan hệ
với các cơ quan trong bộ máy nhà nước, với các chủ thể khác nhau tham gia hoạt
động thương mại trên cơ sở quy định của pháp luật.
17


Cụ thể, địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh được thể hiện thông
qua tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho nó. Thông qua
những quy định này đã xác lập, cũng như giới hạn được khả năng, nhiệm vụ của cơ
quan quản lý cạnh tanh trong các hoạt động của mình. Địa vị pháp lý là cơ sở quan
trọng để phân biệt cơ quan quản lý cạnh tranh với các cơ quan quản lý Nhà nước
trong hệ thống bộ máy nhà nước nói chung, cũng như với các cơ quan quản lý nhà
nước về kinh tế nói riêng. Đồng thời nhấn mạnh vị trí và tầm quan trọng của cơ
quan quản lý cạnh tranh trong việc đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong nền kinh tế mỗi quốc gia.
1.2.2. Nội dung của địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh
Như đã trình bày ở trên thì địa vị pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh
phản ánh: vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý cạnh tranh mà
pháp luật mỗi quốc gia quy định cho cơ quan này.
Tùy thuộc vào quan điểm, tình hình thực tế ở mỗi quốc gia mà cơ quan quản
lý cạnh tranh được thành lập theo mô hình trực thuộc: Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ/Tổng thống, là một cơ quan ngang Bộ, hoặc là một trực thuộc Bộ. Tuy vậy như
đã phân tích, dù trực thuộc cơ quan nào thì pháp luật mỗi quốc gia đều khẳng định
và ghi nhận vị trí của cơ quan quản lý cạnh tranh là độc lập với hoạt động của Chính
phủ và các cơ quan khác trong hệ thống bộ máy Nhà nước. Mọi hoạt động chuyên
môn của cơ quan này chỉ tuân theo pháp luật mà không bị tác động bởi một cơ quan
nào khác kể cả cơ quan mà thành lập lên nó. Nhằm đảm bảo sự độc lập này, thông
thường pháp luật các nước quy định mối quan hệ giữa cơ quan quản lý cạnh tranh
với cơ quan mà nó trực thuộc chỉ là mối quan hệ hành chính. Ví như việc quy định
cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc một Bộ hay là một cơ quan ngang Bộ,…

nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết để duy trì hoạt động hàng ngày của nó như:
cơ sở vật chất, cơ chế tài chính, nguồn nhân lực… Đặc biệt, theo thông lệ của các
nước thì việc bổ nhiệm nhân sự cấp cao của cơ quan quản lý cạnh tranh phải có sự
tham gia của các cơ quan quyền lực cao nhất như Quốc hội hay Nghị viện, nếu có
sự đề bạt của người đứng đầu Chính phủ như Thủ tướng hay Tổng thống thì cũng
18


cần có sự phê duyệt của các cơ quan quyền lực này. Việc không trao quyền quyết
định những vấn đề quan trọng của cơ quan quản lý cạnh tranh cho một cơ quan hay
một cá nhân nhằm đảm bảo vị trí của cơ quan quản lý cạnh tranh luôn được độc lập,
tự chủ trong hoạt động của mình. Điều này cho thấy tầm quan trọng, tính chất đặc
biệt trong hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Chức năng chính và quan trọng nhất của mỗi cơ quan quản lý cạnh tranh là
đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh ở quốc gia đó được diễn ra công bằng, bình đẳng
giữa các chủ thể. Để đạt được điều này thì nhiệm vụ quan trọng mà cơ quan quản lý
cạnh tranh phải thực hiện là thực thi và đảm bảo thực thi luật cạnh tranh. Có thể nói,
luật cạnh tranh được thực thi nghiêm chỉnh đến đâu là phụ thuộc vào hiệu quả
hoạt động của chính cơ quan này. Theo đó với tính chất là một cơ quan quản lý
nhà nước về lĩnh vực cạnh tranh, Cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ: giám
sát và điều tra các hành vi làm hạn chế cạnh tranh, như: thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, tập trung
kinh tế,…; các hành vi cạnh tranh không lành mạnh (được quy định cụ thể ở
pháp luật mỗi nước). Bên cạnh đó, không chỉ là một cơ quan hành chính mà cơ
quan quản lý cạnh tranh còn mang tính chất là một cơ quan tư pháp trong lĩnh
vực cạnh tranh, với chức năng này cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền căn cứ
trên những điều tra của mình, những đơn kiện, tố cáo của các chủ thể khác để tổ
chức những buổi họp, điều trần,.. nhằm đưa ra những quyết định, phán xét đối với
các chủ thể vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Ngoài chức năng quản lý lĩnh vực cạnh tranh, thông thường ở một số nước

trên thế giới, cơ quan quản lý cạnh tranh còn có chức năng bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng. Quy định này cũng được đánh giá là có tính hợp lý, bởi với tư cách
và cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực cạnh tranh, nhiệm vụ chính của cơ quan
này là tạo lập, duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng, có tính cạnh tranh thực
sự. Thông qua đó khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải phát triển các sản
phẩm theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn, chất lượng đảm bảo và được nâng
cao hơn,… thì mới đủ sức cạnh tranh một cách công bằng với các doanh nghiệp
19


×