Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn nghiên cứu trường hợp tại 2 xã (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.89 KB, 28 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------

NGUYỄN THANH THỦY
VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI
CẤP CƠ SỞ TRONG VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI
CHO CƯ DÂN NÔNG THÔN: NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP TẠI 2 XÃ

Ngành: Xã hội học
Mã số: 9 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội – 2020
1


Công trình được hoạn thành tại:

Khoa Xã hội học
Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học:
Dũng

PGS. TSKH. Bùi Quang

Phản biện 1:



Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại:

Có thể tìm đọc luận án tại:

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Điều 9, Hiến pháp năm 1980 quy định rõ ràng về vị
trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội. Từ khi Đổi mới, các
văn bản pháp luật, chính sách về các tổ chức chính trị-xã hội (CTXH) một mặt cho thấy sự thay đổi trong tư duy lý luận của Đảng
về vị trí, vai trò của các tổ chức CT-XH trong bối cảnh đất nước
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, các tổ chức CT-XH còn chứng tỏ vai trò nhiều
hơn trong phát triển kinh tế - xã hội bằng việc tham gia bổ sung,
hỗ trợ các dịch vụ xã hội cho Chính phủ. Các tổ chức này có vai
trò quan trọng trong việc điều hành các chương trình tín dụng tại
các địa phương và nó thực sự có ý nghĩa khi Ngân hàng Chính
sách xã hội bắt đầu giao phó các chương trình tín dụng cho các
đoàn thể. Sự tham gia của các tổ chức CT-XH vào những chương
trình giảm nghèo một mặt nâng cao hiệu quả của chương trình,
mặt khác cũng cho thấy những biến đổi về vai trò nhằm thích ứng
với bối cảnh mới của các tổ chức này. Tuy nhiên, do có những

hạn chế nhất định mà cho đến hiện nay vai trò các tổ chức CTXH trong việc đảm bảo an sinh xã hội thường chỉ được ghi nhận
ở hợp phần xóa đói giảm nghèo. Trong khi ở các hợp phần khác
của hệ thống an sinh xã hội chúng ta vẫn nhận thấy được vai trò
của các đoàn thể này mặc dù không được ghi nhận một cách trực
tiếp và chính thức.
Mặt khác, trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam hiện
nay người ta nói nhiều đến thực tế khi nhà nước không thể (hoặc
3


chưa thể) đảm bảo độ bao phủ tới hầu hết cư dân đặc biệt là cư
dân ở khu vực nông thôn. Đặt trong bối cảnh đó, nghiên cứu đề
tài “Vai trò của các tổ chức CT-XH cấp cơ sở trong việc đảm bảo
an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: nghiên cứu trường hợp tại
2 xã” với mong muốn có được những nhìn nhận, đánh giá một
cách rõ ràng và cụ thể về vai trò của các tổ chức CT-XH trong
thời điểm hiện tại, cách thức mà họ hướng tới đảm bảo an sinh
xã hội cho cộng động trong tình hình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và biến đổi xã hội hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu vai trò của các tổ chức CT-XH cấp cơ sở trong
việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn thông qua việc
thực hiện triển khai, hỗ trợ các chính sách về thị trường lao động
và trợ giúp xã hội trong cộng đồng cư dân nông thôn. Trên cơ sở
đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các tổ chức CT-XH trong bối cảnh hiện nay.
Những mục tiêu cụ thể
- Tìm hiều vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc hỗ trợ triển
khai các chính sách thị trường lao động thông qua các hoạt động:

hỗ trợ thông tin và tư vấn; đào tạo nghề và giới thiệu việc làm;
hỗ trợ vay vốn;
- Tìm hiểu vai trò của các tổ chức CT-XH trong hoạt động trợ
giúp xã hội tại địa phương thông qua hoạt động trợ giúp xã hội
thường xuyên và trợ giúp xã hội đột xuất;
- Đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao hoạt động của các tổ
chức này trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay.
4


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của các tổ chức CT-XH cấp
cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn
Khách thể nghiên cứu: Các hộ gia đình tại khu vực nông
thôn của các xã nghiên cứu cùng với cán bộ chính quyền, các tổ
chức CT-XH và người dân tại hai địa phương trên
Phạm vi nghiên cứu: Cuộc nghiên cứu được tiến hành khảo
sát tại 4 xã: xã Đại Phúc và xã Ninh Lai (Tuyên Quang) và xã
Khánh Lâm và xã Khánh Hòa (Cà Mau) vào năm 2016.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận
án
Câu hỏi nghiên cứu
- Các tổ chức CT-XH đã thực hiện vai trò trong việc hỗ trợ triển
khai các chính sách thị trường lao động như thế nào và gặp khó
khăn gì trong quá trình thực hiện?
- Các tổ chức CT-XH đã thực hiện vai trò trong việc hỗ trợ triển
khai các chính sách trợ giúp xã hội như thế nào và gặp khó khăn
gì trong quá trình thực hiện?
Giả thuyết nghiên cứu
- Các tổ chức CT-XH cấp cơ sở đã tham gia một cách tích cực và

giải quyết được nhiều vấn đề trong triển khai chính sách thị
trường lao động.
- Các tổ chức CT-XH cấp cơ sở đã tham gia một cách tích cực và
giải quyết được nhiều vấn đề trong triển khai chính sách trợ giúp
xã hội.
Phương pháp nghiên cứu

5


(*) Tổng hợp, so sánh và phân tích tài liệu: luận án sử
dụng hai nguồn tài liệu thữ cấp và sơ cấp; (*) Phỏng vấn sâu:
giúp cung cấp, bổ sung các thông tin mà phương pháp phỏng vấn
bằng bảng hỏi còn thiếu; (*) Thảo luận nhóm: nhằm cung cấp các
thôn tin cụ thể, chi tiết hơn về quan điểm; (*) Phỏng vấn bảng
hỏi: cung cấp các số liệu chung về mặt tần suất liên quan tới vấn
đề nghiên cứu. (*) Xử lý và phân tích thông tin: gồm thông tin
định tính và định lượng. (*) Mẫu nghiên cứu: khảo sát định lượng
gồm 400 bảng hỏi hộ gia đình tại 4 xã: Ninh Lai và Đại Phú của
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và Khánh Lâm và Khánh
Hòa của huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Khảo sát định tính gồm 51
phỏng vấn sâu và 6 cuộc thảo luận nhóm.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đóng góp mới:
(*) Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu hệ thống an
sinh xã hội sẽ bao phủ toàn dân và đến năm 2020 cơ bản đáp ứng
được nhu cầu an sinh xã hội của người dân một cách toàn diện
thì vấn đề đảm bảo an sinh xã hội ngày càng trở nên cấp thiết. (*)
Nghiên cứu này góp phần cung cấp một dữ liệu nghiên cứu có
giá trị về vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc đảm bảo an

sinh xã hội cho cư dân nông thôn. (*) Góp phần hình thành những
ý tưởng ban đầu về bộ môn xã hội học tổ chức và góp phần đóng
góp thêm cho bộ môn xã hội học chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Hạn chế của nghiên cứu
Do đây là một nghiên cứu tiến hành tại nông thôn nên tổ
chức Công đoàn không nằm trong nghiên cứu này của chúng tôi.

6


Trong nghiên cứu này, tìm hiểu vể vai trò của các tổ chức
CT-XH trong đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn chúng
tôi chỉ tìm hiểu hai hợp phần là thị trường lao động và trợ giúp
xã hội. Hợp phần bảo hiểm do đây là nghiên cứu tại nông thôn
và xã nghiên cứu thuộc diện được 100% bảo hiểm miễn phí nên
chúng tôi không tìm hiểu hợp phần BHXH trong nghiên cứu này.
Chính sách thị trường lao động gồm nhiều chính sách tuy
nhiên quan điểm của chúng tôi về hệ thống chính sách thị trường
lao động có liên quan trực tiếp và tác động tới các tổ chức CTXH chỉ bao gồm các chính sách việc làm, chính sách đào tạo nghề
và chính sách tín dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần kiểm chứng tính phổ
biển cũng như độ chính xác, hợp lý và khả năng ứng dụng của lý
thuyết vai trò và lý thuyết xã hội học tổ chức. Ngoài ra, luận án
cũng nhằm đóng góp thêm các luận cứ cho bộ môn xã hội học
chính trị.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án cũng cung cấp cho các nhà
hoạch định chính sách, chính quyền địa phương và cả người dân
đánh giá được hiệu quả tham gia đảm bảo an sinh xã hội của các
tổ chức CT-XH. Từ đó đưa ra những chính sách và cơ chế hoạt

động phù hợp đồng thời giúp cho các tổ chức CT-XH có thể nhìn
lại và đánh giá hoạt động của chính tổ chức mình nhằm đem lại
hiệu quả trong quá trình thực hiện của tổ chức.

7


Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chính sách xã hội, các tổ chức đoàn thể có nhiệm vụ
giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội bao
gồm: tiếp nhận các ý kiến phản ảnh của nhân dân, trực tiếp tiếp
thu các thông tin, tài liệu để xem xét, theo dõi và phát hiện hành
vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân….trong
việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội, kiến nghị
trực tiếp tới các tổ chức có thẩm quyền để giải quyết. Từ phía
người dân cho thấy, bên cạnh những ưu điểm truyền thống, cách
thức hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội vẫn mang tính
“hành chính hóa” và các đoàn thể này đang làm việc do Ủy ban
nhân dân phân công “sai khiến” nên đánh mất các chức năng thực
sự của một hội.
Vai trò các tổ chức CT-XH trong vận động dân chủ cơ
sở tại địa phương, thông qua tuyên truyền, giám sát, xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở mà Mặt trận cùng các đoàn
thể góp phần hạn chế những xung đột giữa các tầng lớp nhân
dân cũng như giữa nhân dân với chính quyền. Một cách gián tiếp
thông qua các đoàn thể người dân được giám sát hoạt động của
chính quyền, đảm bảo cho nhân dân ở cơ sở được tự bàn bạc, tự
quyết định hoạt động của mình trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật
của Nhà nước. Dù đang hoạt động cũng như được đầu tư lớn

nhưng các tổ chức CT-XH có xu hướng hành chính hóa và xa dần
với cách tiếp cận đi vào quần chúng – cái vốn là đặc trưng của
các tổ chức này lúc mời thành lập. Các tổ chức chính trị-xã hội
8


được tổ chức và hoạt động rập khuôn theo lối “hành chính” và
hầu như đã “hành chính hóa”, lệ thuộc vào chính quyền, mất khả
năng kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền.
Vai trò của các tổ chức CT-XH trong xóa đói giảm
nghèo và phát triển kinh tế-xã hội, kể từ khi Đổi mới, các đoàn
thể chứng tỏ vai trò nhiều hơn trong phát triển kinh tế xã hội
bằng việc tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội cho Chính phủ.
Các tổ chức này cho thấy chức năng kép mà họ đang đảm nhận:
vừa mang tính chất xã hội và vừa mang tính chất phát triển. Các
hoạt động giảm nghèo trở thành tâm điểm hoạt động của các tổ
chức xã hội nói chung và các đoàn thể chính trị-xã hội nói riêng.
Vai trò của các tổ chức này thực sự có ý nghĩa khi Ngân hàng
Chính sách xã hội bắt đầu giao phó các chương trình tín dụng
cho các đoàn thể địa phương. Các nghiên cứu hiện nay cho thấy
ta thấy được vai trò của các tổ chức, các quỹ tín dụng trong việc
hỗ trợ người dân với tư cách như là những tổ chức phúc lợi xã
hội hỗ trợ, trợ giúp người dân đặc biệt là những nhóm yếu thế.
Vai trò của các tổ chức CT-XH cũng được đặc biệt nhấn mạnh
như là một trong những giải pháp tích cực góp phần vào việc xóa
đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, văn hóa và đảm bảo an sinh xã
hội cho cư dân nông thôn.

9



Chương 2.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Một số khái niệm nghiên cứu
Vai trò theo Từ điển Xã hội học Oxford là một khái niệm
then chốt trong lý thuyết xã hội học. Nó nhấn mạnh những kỳ
vọng xã hội gắn với những vị thế hay vị trí nhất định trong xã hội
và nó phân tích sự vận hành của những kỳ vọng ấy. Vai trò được
hiểu là sự đảm nhận các hoạt động trợ giúp người dân của các tổ
chức CT-XH trên hai phương diện của hệ thông an sinh xã hội
quốc gia là thị trưởng lao động và trợ giúp xã hội.
An sinh xã hội được hiểu là hệ thống các chính sách can
thiệp của nhà nước cùng với sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức
(trong khuôn khổ quy định của luật pháp) nhằm giảm mức độ
nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người
dân và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu
nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội, nâng cao
khả năng ứng phó của người dân đối với các rủi ro, nguy cơ thông
qua việc hỗ trợ, trang bị cho họ các phương thức nhằm nâng cao
mức sống cá nhân và hộ gia đình”. Hệ thống này bao gồm 3 nhóm
chính sách chính: i) Chính sách thị trường lao động; ii) Bảo hiểm
xã hội; iii) Trợ giúp xã hội.
Thị trường lao động theo cuốn Thuật ngữ an sinh xã hội
Việt Nam là thuật ngữ kinh tế học để chỉ sự trao đổi lao động
trong một quốc gia, vùng, ngành nghề. Chính sách thị trường lao
động bao gồm các chính sách thị trường lao động chủ động và
10



thụ động. Trong nghiên cứu này, chính sách thị trường lao động
được chúng tôi quan tâm nghiên cứu ở khía cạnh là các chính
sách việc làm, đào tạo (nghề) và tín dụng cho các đối tượng đang
có nhu cầu (tìm việc hay được đào tạo nghề phục vụ sản xuất,
phát triển kinh tế).
Trợ giúp xã hội là những bảo đảm và hỗ trợ của nhà
nước và xã hội (các cá nhân, tổ chức) giúp cho các thành viên
của cộng đồng khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như
lâu dài trong cuộc sống và nâng cao mức sống hộ gia đình. Hoạt
động trợ giúp này được thực hiện thông qua việc cung cấp tài
chính, trợ giúp ngày công hay hỗ trợ bằng hiện vật nhằm đảm
bảo an sinh cộng đồng.
Tổ chức chính trị-xã hội hay còn được gọi là các tổ chức
đoàn thể quần chúng được sáng lập bởi Đảng cộng sản nhằm tiếp
cận và vận động quần chúng tham gia, ủng hộ các chính sách của
Đảng. Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức chính trị xã hội được quy định cụ thể trong luật hay điều lệ của từng tổ
chức. Do nghiên cứu được tiến hành ở nông thôn, nên các tổ chức
CT-XH được chúng tôi đề cập đến chỉ bao gồm 5 tổ chức đó là:
mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh
và đoàn thanh niên.
1.2. Vận dụng một số lý thuyết trong luận án
Lý thuyết vai trò: sự biến đổi về vai trò của các tổ chức,
hội nhóm trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta hiện
nay từ giai đoạn tập trung quan liêu bao cấp sang giai đoạn kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra vấn đề lớn.
Lúc này vai trò của các tổ chức CT-XH cần phải có những biến
11


đổi để phù hợp với bối cảnh mới. Thực tế cho thấy vai trò thực

nhận và kỳ vọng của các tổ chức đang có những mâu thuẫn cần
phải xem xét nhằm đảm bảo sự phù hợp giúp các tổ chức này
hoạt động có hiệu quả.
Lý thuyết về xã hội học tổ chức: Các tổ chức này có
những quy định, nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể rõ ràng. Và các
thành viên tham gia tổ chức đó buộc họ cũng phải có những cách
thức, hành vi, ứng xử giao tiếp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của mình trong tổ chức đó với tư cách là một thành
viên. Việc xây dựng các quy định, các nghị quyết đưa ra trong
các kỳ đại hội của các đoàn thể đều có một nhiệm vụ chung nhất
là nhằm đảm bảo lợi ích và phục vụ quyền lợi của tổ chức. Với
sự thống nhất và nguyên tắc vận hành rõ ràng giúp các tổ chức
này hoạt động hiệu quả hơn.

12


Chương 3.
CÁC TỔ CHỨC CT-XH THAM GIA TRIỂN KHAI
CÁC CHÍNH SÁCH THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
Ở NÔNG THÔN

3.1. Hỗ trợ thông tin, tư vấn phát triển sản xuất
Thời gian qua các địa phương cũng đã tích cực triển khai
các chương trình, tổ chức các cuộc vận động tư vấn về việc làm,
phát triển kinh tế xã hội tại Tuyên Quang và Cà Mau. Nhưng thực
tế cho thấy chỉ thu hút sự quan tâm của 11,6% người dân với một
số hoạt động chính như: các chương trình phối hợp tư vấn, giới
thiệu việc làm. Hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật chỉ
tương đương với 11,8% và tư vấn sản xuất chỉ chiếm 8,4% tỷ lệ

người biết đến các hoạt động này và không có sự khác biệt giữa
Cà Mau và Tuyên Quang.
Trong số 3 hình thức được các đoàn thể hỗ trợ người dân
trong phát triển sản xuất thì những đánh giá tích cực về các hình
thức hỗ trợ của Hội PN không có sự chênh lệch lớn (gần 3 điểm
phần trăm) nhưng lại chênh lệch khá lớn ở các tổ chức khác như
hội ND, hội CCB và đoàn TN (trên 10 điểm phần trăm). Trong
số 3 hình thức trên thì hình thức cung cấp thông tin, lời khuyên,
tư vấn cùng với chuyển giao KHKT trong hỗ trợ phát triển kinh
tế được người dân đánh giá cao hơn so với hình thức còn lại. Hoạt
động này đặc biệt có ý nghĩa và được đánh giá cao ở hội ND
(44,4% và 47,8%) và hội PN (31,2% và 33,9%). Đoàn TN so với
13


3 tổ chức còn lại cho thấy họ không được người dân đánh giá cao
vai trò trong các hình thức trợ giúp này.
Bởi vì đánh giá cao vai trò của các tổ chức trong việc
cung cấp thông tin, lời khuyên, tư vấn cho người dân trong hỗ trợ
phát triển sản xuất mà đây trở thành lý do được người dân đánh
giá cao nhất ở cả 4 tổ chức khi hỏi về những điều mà họ cho rằng
sẽ nhận được khi tham gia các đoàn thể trong số 12 giá trị mà mà
chúng tôi đưa ra. Hội ND và PN là 2 tổ chức được đánh giá cao
nhất.
Đối với những người đã được nhận hỗ trợ từ các đoàn
thể đều chiếm tỷ lệ cao ở cả 5 tổ chức và chỉ xếp sau tỷ lệ đối với
hoạt động thăm hỏi, động viên họ khi ốm đau. Tỷ lệ cao nhất
thuộc về nhóm đầu với hội PN (36,9%) tiếp sau là hội ND
(34,4%), trong khi đó nhóm sau với hội CCB là 15,3% còn
MTTQ và đoàn TN chưa đến 10%.

Nếu so sánh hoạt động hỗ trợ giữa những người là thành
viên và không là thành viên của các tổ chức cho thấy thành viên
các tổ chức đoàn thể vẫn nhận được hỗ trợ nhiều hơn so với
những người không phải là thành viên của các tổ chức (đặc biệt
tỷ lệ chênh lệch tới gần 50% ở hội ND, hội PN và hội CCB.
3.2. Đào tạo nghề và giới thiệu việc làm
a) Đào tạo nghề
Hoạt động đào tạo nghề, tập huấn, chuyển giao khoa học
và kỹ thuật hiện nay chủ yếu với vai trò của các đoàn thể trong
đó tập trung chính vào hội ND và hội PN. Ở 8 khâu trong hoạt
động đào tạo nghề mà các tổ chức CT-XH có thể tham gia. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, NTL đánh giá cao vai trò của các tổ
14


chức ở 4 khâu. Đáng chú ý là khâu tuyên truyền, vận động được
NTL đánh giá cao nhất so với các hoạt động khác với (trên 90%)
và chênh lệch không nhiều giữa các tổ chức (dưới 5 điểm phần
trăm) trong đó cao nhất thuộc vào nhóm hội CCB. Khâu được
đánh giá cao thứ hai là tập huấn và cung cấp thông tin về các
chương trình đào tạo nghề tại địa phương. Theo đó, hội ND
(53,8%) và hội PN (53,5%) được đánh giá cao hơn hẳn so với 2
tổ chức còn lại đặc biệt là đoàn thanh niên được ghi nhận thấp
hơn các tổ chức khác trên 10 điểm phần trăm. Vai trò quản lý
trong hoạt động đào tạo nghề bị đánh giá thấp nhất trong số 4
khâu ở tất cả các tổ chức (dưới 28 điểm phần trăm- thấp nhất là
hội ND và đoàn TN với 23,1%).
Những người tham gia các lớp đào tạo nghề chủ yếu là
những người có trình độ học vấn ở mức trung bình (hết THCS –
54,5%) trong khi đó tỷ lệ học hết THPT chỉ chiếm 30,3% và từ

tiểu học trở xuống 15.1%. Một tỷ lệ không nhỏ với 37,9% người
được hỏi đưa ra lý do không tham gia là do họ không biết có các
lớp đào tạo này. Điều này đặt ra vấn đề trong cách thức tuyên
truyền, thông báo, cung cấp thông tin tới người dân của địa
phương.
Với hoạt động đào tạo nghề thì yếu tố là thành viên của
một tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội có thể coi là một trong
những lợi thế. Và điều này càng được khẳng định thông qua các
cuộc PVS với lãnh đạo một số đoàn thể (hội ND, PN) khi họ coi
đây như là “yếu tố đương nhiên” để xét những người tham gia
các lớp đào tạo cho đoàn thể tổ chức. Và khi mà người dân còn
thấy được tầm quan trọng của các lớp đào tạo nghề thì khi đó yếu
15


tố thành viên các tổ chức CT-XH sẽ còn là một giá trị quan trọng
và là động lực cần thiết để thu hút người dân tham gia vào các tổ
chức này.
b) Giới thiệu việc làm
Những người có được việc làm thông qua các đoàn thể
hiện nay đa phần là những người có mức thu nhập từ trung bình
trở lên (85,7%). Trong khi những người không được các đoàn thể
giới thiệu việc làm tập trung ở nhóm thu nhập thấp nhất (46,6%),
hai nhóm thu nhập còn lại với chênh lệch không lớn.
Đối với những người có được việc làm thông qua giới
thiệu của các tổ chức đoàn thể thì không có sự khác biệt quá lớn
giữa những người là thành viên hay không là thành viên của tổ
chức (14,2 điểm phần trăm). Trong khi đó với những người
không được giới thiệu việc làm thì sự chênh lệch lên tới 25,4
điểm phần trăm với tỷ lệ lớn tập trung ở những người không phải

là thành viên của đoàn thể.
Những người không được giới thiệu việc làm tập trung
chủ yếu ở nhóm trình độ học vấn ở mức trung bình (tiểu học –
31,2% và THCS – 45,7%). Trong khi đó ở nhóm được các đoàn
thể giới thiệu việc làm cho thấy có xu hướng tập trung ở nhóm
có trình độ học vấn cao hơn (THCS – 47,6% và từ THPT trở lên
38,1%).
Trong số các tổ chức đoàn thể thì hội PN là tổ chức có tỷ
lệ giới thiệu việc làm cao nhất (66,7%). Những người được các
tổ chức CT-XH giới thiệu việc làm phần lớn là những người trẻ
dưới 35 tuổi (42,9%), làm nông nghiệp (61,9%), nữ giới chiếm
tỷ lệ khá cao (43,2%).
16


Những người mà thu nhập của hộ gia đình ở mức khá giả
không có nhu cầu biết hay tham gia các chương trình giới thiệu
việc làm (59,7%).
3.3. Hỗ trợ vay vốn thông qua hệ thống tín dụng địa phương
a) Ủy thác cho vay của ngân hàng chính sách xã hội
Hội ND và Hội PN là hai đoàn thể đóng vai trò quan
trọng khi họ chiếm phần lớn tỷ lệ cho các hộ dân vay vốn từ
NHCSXH (chiếm tới 52,8% và 42,2%). Điều này cũng được thể
hiện và chứng minh một cách cụ thể trong Báo cáo Tổng kết hàng
năm của các đoàn thể.
Đoàn thanh niên tham gia vay vốn hoàn toàn là những
hộ gia đình có mức trung bình khá. Tỷ lệ ở hộ nghèo tập trung
nhiều ở nhóm người là thành viên của hội CCB (53,8%) và hội
ND (42,1%). Trong khi đó tỷ lệ hộ giàu tham gia vay vốn không
có sự khác biệt nhiều ở mỗi nhóm trên dưới 30% - một tỷ lệ

không quá cao nhưng có ý nghĩa đối với một chương trình cho
vay dành cho hộ nghèo.
Người dân dường như chưa nhìn nhận vai trò của các tổ
chức này như cái cách mà các tổ chức này kỳ vọng. Với người
dân, họ được duyệt vay vốn là nhờ NHCSXH - chỉ đơn giản vậy,
thậm chí nếu biết họ họ cũng không quan tâm mình nhận vốn ủy
thác từ đoàn thể nào. Với bản thân các cán bộ đoàn thể cấp cơ sở,
họ cũng chỉ nhận thấy mình đóng vai trò là cầu nối giữa ngân
hàng và người dân, là người “làm thuê” cho ngân hàng. Trong
khi đó các đoàn thể cơ sở kỳ vọng đây là một trong những phương
thức quan trọng để phát triển thành viên – thu hút họ tham gia tổ

17


chức bằng việc đem lại cho họ mối lợi trực tiếp từ nguồn vốn vay
phát triển sản xuất.
b). Các quỹ/tổ/chương trình vay/hỗ trợ vốn khác
Vay vốn có thể coi là một trong nhưng lợi ích chủ yếu
mà hội viên các đoàn thể đánh giá khi tham gia các tổ chức này:
Hội PN 18,9%, Hội ND 14,1% và Hội CCB 14,7%. Lý do được
vay vốn là động lực lớn để người ta tham gia vào Hội PN (21,5%)
và Hội ND (15,2%). Trong khi đó với Đoàn TN và Hội CCB, đây
chưa phải là lý do thực sự quyết định tới việc tham gia hội đoàn
thể của người dân (Hội CCB chỉ chiếm 8,3% và Đoàn TN là
8,2%). Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa Tuyên Quang và Cà Mau
trong việc đưa ra lý do tham gia các tổ chức để được vay vốn ưu
đãi
Các đoàn thể bên cạnh nguồn Quỹ hội bắt buộc phải
đóng nộp 60% cho quỹ cấp huyện phục vụ hoạt động thì hiện nay

các tổ chức này cũng có rất nhiều các hình thức hỗ trợ nguồn vốn
cho hội viên tập trung chủ yếu ở hội ND và hội PN. Thông qua
hoạt động của các tổ này, người dân có thêm một nguồn hỗ trợ
kinh phí quan trọng trong việc phát triển kinh tế và trang trải hoạt
động của gia đình. Điều này càng thực sự có ý nghĩa đối với
những hộ gia đình có thu nhập thấp và không có nhiều sự lựa
chọn đối với các hình thức vay vốn. Trong bối cảnh của một địa
phương với tỷ lệ người dân tộc cao và một địa phương ở cực Nam
của tổ quốc phát triển còn hạn chế, đời sống cư dân nông thôn
còn khó khăn thì những sự trợ giúp từ các tổ/nhóm vay vốn được
các đoàn thể xây dựng, tổ chức và quản lý là hết sức cần thiết và
có ý nghĩa.
18


Chương 4.
CÁC TỔ CHỨC CT-XH TRIỂN KHAI CÁC HOẠT
ĐỘNG TRỢ GIÚP XÃ HỘI TẠI NÔNG THÔN
4.1. Trợ giúp xã hội thường xuyên
Trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng đang là một
hoạt động phát triển khá rộng khắp hiện nay ở các địa phương.
Kết quả khảo sát cho thấy, tại địa bàn nghiên cứu đang có các
hoạt động khá đa dạng: xây dựng nhà tình thương (15,2%), giúp
đỡ người có hoàn cảnh đặc biệt (16,1%), các chương trình quyên
góp/ủng hộ (21,7%), giúp đỡ gia đình chính sách (14,7%),
thăm/nuôi mẹ Việt Nam anh hùng, người có công (11,6%).
Mức độ nắm bắt các thông tin của người dân đối với các
các hình thức trợ giúp tại cộng đồng cho thấy không có sự chênh
lệch quá rõ. Có lẽ bởi sự phong phú về đối tượng thụ hưởng và
sự đa dạng trong thành phần tham gia ủng hộ nên các chương

trình quyên góp/ủng hộ vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (21,7%). Công
tác truyền thông cho các hoạt động này cũng khá đa dạng và
phong phú, người ta biết đến các hoạt động trợ giúp xã hội tại địa
phương qua nhiều kênh khác nhau: 3 kênh thông tin chính cung
cấp cho người dân đó là: qua các cuộc họp của thôn/ấp (51,3%),
các tổ chức đoàn thể (50,6%), và trưởng thôn/ấp (44,1%).
Các đoàn thể chủ yếu hướng đến trợ giúp cho 2 nhóm
đối tượng chính đó là: giúp đỡ người nghèo nói chung (96,2%)
và giúp đỡ các nhóm đối tượng khác nhau trong khuôn khổ các
hoạt động ủng hộ do Nhà nước, MTTQ VN kêu gọi với các
chương trình quyên góp/ủng hộ (98,6%). Bên cạnh đó các hoạt
19


động xây dựng các quỹ đóng góp ủng hội hội viên của được các
đoàn thể triển khai tích cực (thông qua báo cáo tổng kết của các
tổ chức đoàn thể địa phương).
Người ta có thể tham gia hoạt động từ thiện bằng nhiều
hình thức như ủng hộ bằng tiền, hiện vật hay ngày công với cách
làm “chính thức” hoặc “phi chính thức”.
Ngoại trừ đoàn TN không có sự biến thiên ở 3 giá trị, còn
lại các tổ chức khác cho thấy đánh giá khác nhau về 3 giá trị mà
họ nhận được khi tham gia các tổ chức CT-XH. Tham gia đoàn
TN cái hội viên đánh giá cao là được giao lưu, ăn uống (cao nhất
với 33,3%). Trong khi đó hội CCB đánh giá cao lợi ích được mở
rộng các mối quan hệ xã hội hơn so với các đoàn thể khác (53,1%
chênh lệch gần 30 điểm phần trăm so với tổ chức thấp nhất là hội
PN). Thăm hỏi, động viên, chúc mừng vẫn là giá trị quan trọng
được thành viên các tổ chức đánh giá cao hơn hẳn so với các giá
trị còn lại ở tất cả các đoàn thể đặc biệt được đánh giá cao nhất.

Xét về đối tượng, chủ thể của hoạt động quyên góp từ
thiện này gồm chính quyền và các đoàn thể: đánh giá người dân
về vai trò chính quyền là khá quan trọng trong hoạt động này
(40,2%) trong khi các tổ chức đoàn thể chiếm tỷ lệ thấp và chênh
lệch khá lớn (dưới 25% ). Nếu so sánh giữa các tổ chức thì vai
trò của hội PN (38,7%) và hội ND (37,6%) được đánh giá cao
nhất trong khi đoàn TN thấp nhất (dưới 15%).
Người dân ở Tuyên Quang có xu hướng gắn hoạt động từ
thiện với vai trò của các tổ chức đoàn thể (trên 70%) thì người
dân ở Cà Mau có xu hướng đánh giá cao vai trò này đối với nhóm
các cá nhân, tổ chức khác (nhóm khác chiếm tới 57,1%).
20


Xét về phương thức hoạt động, hoạt động đóng góp từ
thiện của MTTQ, hội CCB và đoàn TN là 3 tổ chức ít được người
dân biết đến nhất (tỷ lệ không biết là trên dưới 70%), trong khi
tỷ lệ người dân biết hoạt động từ thiện của Hội Phụ nữ cũng như
Hội ND đều cao hơn đáng kể. Trong khi đó, tỷ lệ người dân biết
đến hoạt động từ thiện của Hội ND và Hội PN thông qua các cuộc
họp của đoàn thể chiếm tới 66% và 55,8%, cao hơn nhiều so với
tỷ lệ biết qua loa truyền thanh (21,8% và 21,4%) cũng như các
hình thức khác. Điều đó cho thấy, cách thức truyền thông qua các
cuộc họp vẫn đạt được hiệu quả tốt nhất.
Hình thức người dân tham gia các hoạt động từ thiện hiện
nay do các đoàn thể phát động không đa dạng. Trong số 4 hình
thức gồm tiền măt, hiện vât, ngày công và tư vấn thì người dân
tại địa phương khảo sát chỉ sử dụng hai hình thức đó là tiền mặt
và ngày công trong đó tiền mặt chiếm tỷ lệ chủ yếu (66%) do
nhanh gọn, tiện lợi và không mất nhiều thời gian. Về cơ bản thì

tỷ lệ đóng góp ở Cà Mau thấp hơn nhiều so với Tuyên Quang.
Mặc dù hình thức ủng hộ bằng tiền mặt ở Cà Mau là cao nhất so
với các hình thức khác (33,2% trong khi tỷ lệ không ủng hộ chiếm
tới 66,3%) nhưng nếu so sánh tương quan hình thức này ở hai
tỉnh thì tỷ lệ ở Cà Mau kém Tuyên Quang tới 49,6 điểm phần
trăm). Tuyên Quang có xu hướng ủng hộ tiền mặt (74,8%) trong
khi đó Cà Mau xu hướng này là không đáng kể, tình hình tương
tự đối với hình thức ủng hộ bằng ngày công.
Những người có thu nhập thấp có xu hướng ủng hộ tiền
mặt hơn người có thu nhập cao, trong khi nhóm thu nhập cao có
xu hướng ủng hộ ngày công (42,9% ở nhóm thu nhập cao nhất
21


và 0% ở nhóm thu nhập thấp nhất). Nhóm thành viên đoàn thể có
tỷ lệ ủng hộ bằng ngày công cao hơn 85,7%, trong khi tỷ lệ ủng
hộ bằng tiền mặt không có sự khác biệt.
Có tới 31,8% người được hỏi không ủng hộ dưới bất cứ
hình thức nào, có nhiều lý do dẫn tới tỷ lệ này: thu nhập; nghề
nghiệp; không phải là thành viên đoàn thể; địa phương sinh sống.
Phần lớn trong số họ là người thuộc nhóm nghèo (64,7%), đang
làm nông nghiệp (74,7%), không là thành viên đoàn thể (85,8%).
Người dân không ủng hộ thông qua kênh đoàn thể bởi phần lớn
họ ủng hộ thông qua chính quyền (51,2%), do họ không được
huy động đóng góp ủng hộ (25,6%), hay không biết có hoạt động
ủng hộ (18,6%). Người dân Cà Mau có tỷ lệ không ủng hộ cao
hơn hẳn so với Tuyên Quang (98,5%) bởi ở Cà Mau tỷ lệ người
dân tham gia các đoàn thể không cao so với địa phương khảo sát
còn lại.
Ở quy mô các tổ chức cho thấy, các đoàn thể hiện nay khá

tích cực trong hoạt động xây dựng các quỹ đóng góp để ủng hộ
hội viên, thành viên và các gia đình gặp khó khăn tại địa phương.
Ngoài ra, cùng với nguồn hỗ trợ từ các đoàn thể cấp huyện, tỉnh
phối hợp cùng với nhân lực các tổ chức địa phương tiến hành
nhiều hoạt động hỗ trợ hội viên trong các tổ chức như: xây dựng
nhà tình thương, giúp đỡ hộ nghèo làm mới và sửa chữa nhà ở;
phong trào “Nuôi lợn nhựa tiết kiệm”, “Ống tre tiết kiệm”; thành
lập các quỹ/tổ như: quỹ hùn vốn, quỹ hỗ trợ nông dân v.v
Bên cạnh hỗ trợ về kinh phí, các tổ chức đoàn thể cho thấy
sự đa dạng trong cách thức trợ giúp của mình có thể bằng ngày
công, bằng hiện vật, v.v. Với các hình thức hỗ trợ này thì đối
22


tượng được thụ hưởng phong phú hơn, có thể là thành viên tổ
chức nhưng cũng có thể không phải là thành viên.
4.2. Trợ giúp xã hội đột xuất
Nếu như tiền là hình thức lựa chọn chính trong các hoạt
động trợ giúp thường xuyên (đóng góp ủng hộ các quỹ từ trung
ương đến địa phương và tổ chức) thì với các hoạt động trợ giúp
mang tính chất thời điểm đòi hỏi sự nhanh chóng và hiệu quả lại
thu hút các hình thức ủng hộ bằng tiền (95%) và ngày công
(92,8%). Ngày công chiếm tỷ lệ khá lớn tại các tổ chức nổi bật
lên là đoàn TN (85,4%) và hội ND (82,4%) và không có sự khác
biệt giữa Tuyên Quang và Cà Mau trong hoạt động này. Tuy vậy
nếu xét về tổng thể thì người dân đóng góp thông qua các đoàn
thể ở Tuyên Quang chủ yếu bằng tiền mặt trong khi ở Cà Mau có
xu hướng ủng hộ thông qua ngày công.
Phần lớn người dân chủ yếu chỉ thấy được vai trò của hội
PN (38,7%) và hội ND (37,6%) tham gia trong vai trò là tổ chức

kêu gọi đóng góp từ thiện trong khi các đoàn thể khác chiếm tỷ
lệ thấp (dưới 10%).
Sự chênh lệch đáng kể giữa 2 địa phương trong đánh giá
vai trò của các tổ chức đoàn thể ở hoạt động tổ chức quyên góp,
ủng hộ chưa hẳn thể hiện chất lượng hoạt động của các đoàn thể
ở Tuyên Quang tốt hơn so với Cà Mau. Nó chỉ cho thấy dấu ấn
của các đoàn thể trong các hoạt động tổ chức ủng hộ, quyên góp
ở Tuyên Quang rõ nét hơn so với Cà Mau.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

23


1. Kết luận
Các tổ chức CT-XH đã có sự mở rộng vai trò của mình
với chức năng hoạt động đa dạng và phong phú hơn. Một mặt các
tổ chức này không chỉ chú trọng vào chức năng tập hợp, giáo dục
quần chúng tham gia và thực hiện có hiệu quả các chính sách,
chủ trương của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, họ cũng đã coi việc
bảo vệ, đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của các thành
viên trong tổ chức mình như là một chức năng cơ bản.
Các hoạt động hỗ trợ thông tin, tư vấn, đào tạo nghề, giới
thiệu việc làm hay vay vốn phục vụ sản xuất đang được các đoàn
thể tổ chức với nhiều hình thức phong phú và đa dạng trong đó
nổi bật lên là vai trò của hội ND và hội PN. Trong khi các đoàn
thể khác không cho thấy hiệu quả trong hoạt động này. Tuy
nhiên, ngay cả với các đoàn thể được coi là hoạt động hiệu quả
như hội ND và hội PN thì vai trò này thực sự không quá rõ nét
và mang dấu ấn của tổ chức. Và việc tất cả các tổ chức đều cùng
đảm nhận một hoạt động dễ dẫn đến sự chồng chéo và làm mất

đi đặc trưng riêng của các tổ chức này.
Về mặt định chế, chức năng cơ bản của các tổ chức này
vẫn là vận động, tuyên truyền các chủ chương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Nhưng bên cạnh đó các chức năng hỗ trợ
thành viên phát triển kinh tế cũng đã được mở ra và ghi nhận một
cách rõ nét hơn so với trước đây (thể hiện trong các báo cáo tổng
kết cuối năm, cuối nhiệm kỳ của các tổ chức). Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy bản thân người thực thi các chính sách (cán bộ đoàn
thể) hay người được thụ hưởng chính sách (người dân) cũng
không đánh giá cao vai trò này của các đoàn thể. Người dân coi
24


các đoàn thể chỉ đóng vai trò là cầu nối đơn thuần, không có ý
nghĩa hay vai trò gì trong việc họ được thụ hưởng chính sách đặc
biệt đối với các chính sách của thị trường lao động. Như thế vai
trò chủ thể của các tổ chức CT-XH trong việc hỗ trợ thực hiện
chính sách thị trường lao động nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho
cư dân nông thôn sẽ là khó thực hiện một cách độc lập dưới cái
bóng quá lớn của nhà nước.
Bên cạnh đó, các công việc mà các đoàn thể hiện nay
đang thực hiện phần lớn đều thông qua các cơ quan chủ quản có
trách nhiệm thực hiện riêng biệt. Vậy có cần thiết phải thông qua
các đoàn thể để thực hiện các hoạt động này trong khi đã có nhân
lực chuyên biệt để thực hiện các công việc của này?
Thực tế cho thấy, các tổ chức đã cố gắng mở rộng các
hình thức tuyên truyền nhưng nhìn chung tuyên truyền qua các
cuộc họp vẫn là cách thức đem lại hiệu quả nhất. Hình thức
“khoán” từ trên xuống trong các hoạt động quyên góp, ủng hộ từ
thiện như hiện nay cho thấy có nhiều bất cập. Thứ nhất, nó làm

biến đổi bản chất của hoạt động thiện nguyện này, thay vì “tự
nguyện” đã chuyển sang thành “bắt buộc”. Thứ hai, chính quyền
vẫn là một nhân tố có sức hút và giá trị ảnh hưởng tới người dân
trong các hoạt động từ thiện tại các địa phương thuộc khu vực
nông thôn. Các đoàn thể cho thấy ưu thế trong việc xây dụng các
chương trình, các phong trào tiết kiệm, giúp nhau vay vốn phát
triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống rất hiệu
quả nhưng chỉ mang tính chất trong nội bộ nhóm.
2. Khuyến nghị

25


×