Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Khóa luận giải pháp giảm nghèo cho các hộ nông dân xã vạn trạch – huyện bố trạch – tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.29 KB, 70 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất tồn cầu. Nó khơng chỉ diễn ra ở nước
ta mà cịn là một tồn tại phổ biến trên thế giới và trong khu vực. Ngay cả những nước
phát triển, cũng vẫn cịn có một bộ phận dân cư sớng dưới mức nghèo khổ. Vào những
năm đầu của thế kỷ 21 trên thế giới vẫn cịn hơn trên 1,3 tỷ người sớng dưới mức
nghèo khổ, trong đó khoảng 800 triệu người sớng ở các quốc gia thuộc Châu Á Thái
Bình Dương. Đây là một trở ngại lớn, một thách thức lớn đối với sự phát triển của các
nước.
Việt Nam là một trong những nước nghèo, với khoảng 80% dân cư sống ở khu
vực nông thôn và 70% lực lượng lao động làm trong lĩnh vực nơng nghiệp. Nghèo đói
là một trong những vấn đề nan giải mà mọi quốc gia trên thế giới đặc biệt là những
quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam đều phải quan tâm và tìm cách giải
quyết.
Giảm nghèo là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
nước ta. Từ những năm đầu mới giành được độc lập năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định nghèo đói như là một thứ “giặc” cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm mà
chúng ta cần phải đẩy lùi, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”.
Đại Hội VII của Đảng đã xác định xoá đói giảm nghèo là một trong những
chương trình kinh tế xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Đảng ta đã
khẳng định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là huy động mọi
nguồn vớn đầu tư trong và ngồi nước để thực hiện tớt chương trình xoá đói giảm
nghèo, nhất là đối với các vùng căn cứ địa cách mạng, vùng đồng bào dân tộc, vì đây
là vùng có tỷ lệ hộ nghèo đói lớn nhất so với cả nước.
Giảm đói nghèo khơng chỉ là sự nghiệp cách mạng cao q, là một chính sách
xã hội cơ bản của q́c gia mà nó cịn có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế chính trị và an
ninh q́c phịng.

1



Do tầm quan trọng của việc xoá đói giảm nghèo nên tôi chọn đề tài “Giải pháp
giảm nghèo cho các hộ nông dân xã Vạn Trạch – Huyện Bố Trạch – Tỉnh Quảng
Bình” làm khóa ḷn tớt nghiệp của mình.
Vì thời gian hạn chế và khả năng có hạn nên trong quá trình nghiên cứu thực
hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, tơi rất mong được sự góp ý chân thành
của các thầy cô và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu đánh giá thực trạng đói nghèo, xác định một sớ vấn đề đặt ra trong
cơng tác xóa đói giảm nghèo của xã, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảm nghèo cho các hộ nơng dân.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thớng hóa các vấn đề cơ bản có tính chất lý ḷn và phương pháp luận để
xem xét đánh giá vấn đề nghèo đói của các hộ nơng dân hiện nay.
- Phân tích đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân và những nhân tớ ảnh
hưởng đến đói nghèo của các hộ nơng dân.
- Đề xuất một sớ giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giảm nghèo cho
các hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nông dân ở xã Vạn Trạch, Huyện Bố Trạch - Tỉnh Quảng Bình
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Điều tra các hộ nông dân trên địa bàn Xã
- Về thời gian: nghiên cứu các hộ nông dân trong các năm 2007 – 2009, điều tra
thu thập số liệu năm 2009.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Dựa vào phương pháp này để xem xét, phân tích, đánh giá sự vật hiện tượng
một cách khách quan và khoa học

4.2 Phương pháp thu thập số liệu về tình hình nghèo đói của các hộ nông dân

2


Phỏng vấn trực tiếp chủ hộ để thu thập thông tin số liệu theo mẫu in sẵn.
Theo số liệu thống kê của UBND xã Vạn Trạch, năm 2009 toàn xã có 199 hộ
nghèo. Dựa trên đó tơi tiền hành điều tra với quy mô mẫu điều tra gồm 50 hộ nơng dân
sớng tại 3 thơn có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất trên địa bàn Xã Vạn Trạch là thôn Nam (tỉ lệ
hộ nghèo là 12%), thôn Đông (tỉ lệ hộ nghèo là 14%) và thôn Mới (tỉ lệ hông nghèo là
11%): Trong đó 70% hộ nghèo (35 hộ), 30% là hộ khơng nghèo (15 hộ). Nhóm hộ
nghèo, dựa trên tỉ lệ hộ nghèo của các thôn để tiến hành điều tra. Cụ thể, số hộ nghèo
cần điều tra tại thôn Nam là 12 hộ, thôn Đông là 13 hộ và tại thơn Mới là 10 hộ.
Đới với nhóm hộ không nghèo, tiến hành chọn ngẫu nhiên không lặp trông 3
thôn điều tra mỗi thôn 5hộ. Nhằm so sánh, phân tích đánh giá được tình hình và
những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của các nhóm hộ nơng dân. Từ đó tìm
phương hướng giảm nghèo cho các hộ nơng dân.
4.3 Phương pháp chuyên gia chuyên khảo
Tham khảo ý kiến của các cán bộ khoa học kỷ thuật, Huyện, Xã, trưởng thơn, các
chủ hộ có trình độ văn hóa, kinh nghiệm trong tổ chức sả xuất để phân tích đưa ra
các giải pháp phù hợp
4.4 Các chỉ tiêu phân tích
+ Giá trị sản xuất (GO): là tổng giá trị sản xuất thu được trong 1 giai đoạn
nhất định, bao gồm giá trị sản phẩm chính và giá trị sản phẩm phụ.
Giá trị sản xuất được tính bằng sản lượng các loại sản phẩm (Qi) nhân với giá đơn vị
sản phẩm tương ứng (Pi)
n

GO =




QiPi

i n

+ Chi phí trung gian (IC): là những chi phí vật chất và dịch vụ được sử dụng
trong quá trình sản xuất sản phẩm. Bao gồm các chi phí thức ăn, th́c thú y, phới
giớng, lãi suất tiền vay....
+ Giá trị tăng thêm hay giá trị gia tăng (VA): Là kết quả thu được sau khi
trừ đi chi phí trung gian của một hoạt động sản xuất nào đó.
VA = GO - IC

3


+ Chỉ tiêu thu nhập hỗn hợp (MI) : là phần thu nhập nằm trong giá trị sản
xuất sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất của hộ. Được tính bằng tổng giá trị sản xuất
(GO) trừ đi chi phí sản xuất của hộ (C) :
MI =GO – C
Chi phí sản xuất (C): là tồn bộ chi phí bằng tiền của hộ để tiến hành sản
xuất kinh doanh, bao gồm chi phí sản xuất trực tiếp (TT), tiền lãi vay ngân hàng (i)
và khấu hao tài sản cố định (De).
C = TT + i + De.
Chi phí sản xuất trực tiếp (TT): là tồn bộ chi phí bằng tiền của hộ để tiến hành sản
xuất kinh doanh như mua vật tư, thuê lao động, thuê các dịch vụ khác. Các khoản chi phí này
thường được tính theo giá thị trường.

4



PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1.1.1Khái niệm và đặc điểm nghèo đói
1.1.1.1 Khái niệm nghèo đói
Nghèo đói khơng phải là một khái niệm bất biến mà là một khái niệm có tính
động, thường xun biến đổi. Ở thời điểm này với một vùng, một nước nào đó thì chỉ sớ
đo được là nghèo đói hoặc giàu có, nhưng sang một thời điểm khác, so sánh với một
vùng khác, cộng đồng dân cư khác thì chỉ sớ đó có thể mất ý nghĩa.
Theo hội nghị về chớng đói nghèo do Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á
Thái Bình Dương tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 3 năm 1993: “Nghèo đói là
tình trạng trong đó các nhu cầu thiết yếu của bộ phận dân cư khơng được thoả mãn, đó
là những nhu cầu mà đã được xã hội thừa nhận, tuỳ thuộc vào mức độ phát triển kinh
tế xã hội và các phong tục, tập quán của địa phương”. Hay theo Hội nghị thượng đỉnh
thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen Đan Mạch năm 1993 đã đưa ra
định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói: “Người nghèo là tất cả những ai mà có thu nhập
thấp hơn dưới 1USD/ngày/người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết
yếu để tồn tại”.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản cho cuộc sống con người, nhu cầu này được xã hội thừa nhận
tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế xã hội và các phong tục, tập quán của địa
phương tại một thời điểm nào đó.
Theo David O.Dapice, Viện Phát triển q́c gia Harvard: “Nghèo khổ tụt đới
là khơng có khả năng mua một lượng sản phẩm tối thiểu để sống”. Hay theo tiến sỹ
M.G.Giulna thuộc ngân hàng phát triển Châu Á: “Nghèo tuyệt đối là việc không thỏa
mãn các nhu cầu tối thiểu để nhằm duy t rì cuộc sống của con người. Mức sống tối
thiểu ở đây được hiểu là các điều kiện ăn, mặc, ở và các nhu cầu khác như văn hóa, y


5


tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp… chỉ đạt mức duy trì cuộc sớng rất bình thường và dưới
đó là đói khổ”.
Tình trạng nghèo tụt đới xảy ra khi thu nhập hay mức tiêu dùng của một
người hay hộ gia đình giảm xuống thấp hơn chuẩn nghèo.
Chuẩn nghèo là chi phí cần thiết để đảm bảo đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
Nghèo tương đối: Nghèo tương đối là tình trạng được xác định khi so sánh
mức sống của cộng đồng hay nhóm dân cư này với cộng đồng hay nhóm dân cư khác
hoặc giữa các vùng với nhau. Nghèo tương đới có thể được xem như là việc cung cấp
không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số
tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó, là tình trạng của một bộ
phận dân cư có mức sớng dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương.
Nghèo tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc nơi dân cư sinh
sớng và phương thức tiêu thụ phổ biến nơi đó, nghèo tương đối được hiểu là là những
người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời
gian xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt những cái mà đại bộ phận
những người khác trong xã hội được hưởng do đó chuẩn mực xem xét sự nghèo khổ
tương đối thường khác nhau từ nước này sang nước khác hoặc từ vùng này sang vùng
khác, nghèo khổ tương đối cũng là một hình thức biểu hiện bất bình đẳng trong phân
phối và thu nhập.
Đánh giá nghèo tương đối phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và giải pháp phát
triển từng nơi. Ngày nay, nghèo tương đới cịn được chú trọng nhiều hơn để có giải pháp
thu hẹp sự chênh lệch giàu nghèo trong dân cư và xã hội. Ngoài ra, xem xét nghèo tương
đới cịn có ý nghĩa lớn khi áp dụng các giải pháp phát triển. Những nhóm nghèo khác
nhau trong một vùng có tình trạng nghèo khổ khác nhau thì chính sách và giải pháp phải
khác nhau cho từng đới tượng.
Đói là tình trạng con người khơng có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối
thiểu cần thiết, sự đứt đoạn trong nhu cầu ăn. Nói cách khác, đói là một khái niệm biểu

đạt tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để
duy trì cuộc sống hàng ngày và không đủ sức dể lao động, để tái sản xuất sức lao động.
Tóm lại: khái niệm nghèo đói phản ánh 3 khía cạnh chủ yếu của người nghèo:

6


- Không được thụ hưởng nhu cầu cơ bản ở mức tới thiểu dành cho con người.
- Có mức sớng thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng.
Nghèo đói ở Việt Nam là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của
người dân chỉ dành hầu như cho ăn uống, các nhu cầu tới thiểu ngồi ăn ́ng ra thì
các mặt khác như ở, mặc, văn hóa giáo dục, đi lại giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít
khơng đáng kể.
1.1.1.2 Đặc điểm của hộ nghèo:
Theo định nghĩa của World Bank, nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều
phương diện: thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo ra thu nhập, thiếu tài sản để đảm
bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất
lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn tới những người có khả năng giải
quyết.
Thứ nhất, hộ nghèo chủ yếu là các hộ nông dân, chiếm trên 80% số người
nghèo. Hộ nông dân nghèo với trình độ học vấn thấp, trình độ tay nghề thấp và khả
năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn, nguồn vốn bị hạn chế, có ít
đất canh tác hoặc khơng có đất nhưng có rất ít cơ hội có thể tạo ra thu nhập ổn định từ
các hoạt động phi nông nghiệp. Những người sống dưới ngưỡng nghèo thường là
thành viên của những hộ có chủ hộ là nơng dân tự do.
Thứ hai, hộ nghèo là những hộ khơng có khả năng có thu nhập ổn định từ công
ăn việc làm hay từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội. Tại nhiều q́c gia,
nhiều vùng, chỉ tiêu “có một cơng việc tớt” hay có “lương hưu” là những tiêu ch̉n để
xếp các hộ vào các nhóm sung túc hơn mặc dù thu nhập từ những nguồn này thườn

không cao song ý nghĩa chủ yếu của chúng là sự ổn định và đảm bảo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống
chung và đặc biệt so với nhóm có mức sớng cao. Sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa
nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần năm 1998)
cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu).
Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm

7


hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhóm người có mức sớng cao. Hệ sớ chênh
lệch mức sớng giữa thành thị và nơng thơn cịn rất cao.
Thứ ba, hộ nghèo là những hộ có trình độ học vấn thấp. Do vậy, bản thân các
hộ nghèo đều hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khoá quan trọng để thoát nghèo.
Ở thành thị, các thành viên trong hộ cần phải có trình độ cao hơn mức phổ thơng cơ sở
thì mới có cơ hội kiếm được một công việc ổn định; ở nông thôn, các hộ thường gắn
tầm quan trọng của học hành với khả năng nhận biết những cơ hội mới và nắm bắt
được các kỹ thuật mới, khả năng biết đọc, biết viết, khả năng về tính toán, ngơn ngữ,
kỹ tḥt là chỉ tiêu được đánh giá cao. Việc tiếp xúc với cán bộ khuyến nơng, quan hệ
với những người ở ngồi cộng đồng, tiếp cận với thông tin và các phương tiện thông
tin đại chúng đã trở thành những lĩnh vực ưu tiên quan trọng đới với các hộ nghèo.
Thứ tư, các hộ có nhiều trẻ em và phụ nữ sống độc thân thường là hộ nghèo.
Các hộ này khơng chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn trong gia đình mà cịn
phải trả các chi phí giáo dục lớn hơn cũng như hay phải chịu thêm các chi phí khám
chữa bệnh gây mất ổn định cho kinh tế gia đình. Những hộ bị mất lao động trưởng
thành do bị chết, bỏ gia định đi hoặc tách ra khỏi hộ thường được cộng đồng xếp vào
nhóm hộ nghèo nhất, đây thường là hộ do phụ nữ làm chủ hộ. Theo thống kê, phụ nữ
sống độc thân phần lớn là nghèo hơn so với nam giới sống độc thân. Phụ nữ nông dân
ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo
dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập ít

hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng do đó có ít cơ hội tiếp cận
các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại.
Thứ năm, các hộ nghèo thường là nạn nhân của tình trạng nợ nần. Rất nhiều hộ
nghèo rơi vào tình trạng nợ nần do phải đi vay để trang trải các khoản chi tiêu khẩn
cấp như chi phí y tế, hoặc đi vay để đầu tư và làm ăn bị thất bại. Nợ nần gây ra áp lực
kinh tế và tâm lý nặng nề cho các thành viên trong hộ.
Cuối cùng, hộ nghèo là hộ rất dễ bị tổn thương. Nguy cơ dễ bị tổn thương bởi
những khó khăn theo thời vụ, bởi những đột biến xảy ra với hộ gia đình và những cuộc
khủng hoảng xảy ra với cộng đồng là một khía cạnh quan trọng của nghèo đói. Những
hộ nghèo ít vớn hoặc ít đất đai (hoặc cả hai) và những hộ chỉ có khả năng trang trải

8


được các chi tiêu lương thực và phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn thương
trước mọi biến cớ khiến họ hoặc phải bỏ thêm chi phí hoặc phải giảm thu nhập. Nhiều
hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng
nghèo đói, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt
x́ng ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong nơng nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho
người nghèo.
Cơ hội là một trong những kênh quan trọng nhất để giảm nghèo. Cơ hội có thể
được xem là sự kết hợp giữa hai yếu tố: Sở hữu tài sản ( hoặc ít nhất được tiếp cận với
tài sản) và tạo ra lợi nhuận từ tài sản đó. Nhiều khi tài sản chính của người nghèo chỉ
là sức lao động, nhưng nếu khơng có những hoạt động sử dụng sức lao động đó để tạo
ra thu nhập tốt thì một mình tài sản này không đủ để đảm bảo cho sự tồn tại của họ. Đó
là các hoạt động sản xuất kinh doanh dù ở bất kỳ quy mô nào, nhưng để tiến hành các
hoạt động này phải có vớn. Thiếu vớn kết hợp với thiếu cách làm ăn hiệu quả sẽ dẫn
đến nghèo đói.
1.1.1.3 Tiêu chí để phân tích nghèo đói
* Quan niệm của Thế Giới

- Chỉ tiêu thu nhập: Ngân hàng thế giới đưa ra khuyến nghị thang đo đói nghèo
như sau:
+ Đới với nước nghèo, các cá nhân được gọi là nghèo đói khi có thu nhập dưới
0,5 USD/ngày.
+ Đới với các nước đang phát triển là 1USD/ngày.
+ Đối với các nước thuộc Châu mỹ La Tinh và Caribe là 2USD/ngày.
+ Các nước Đông Âu là 4USD/ngày.
+ Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
- Chỉ tiêu HDI: Chỉ số phát triển con người (HDI) là chỉ số tổng hợp của tuổi
thọ trung bình, tỷ lệ biết chữ, giáo dục và các tiêu ch̉n cuộc sớng của các q́c gia
trên thế giới. Nó là chỉ số tiêu chuẩn của chất lượng cuộc sống, đặc biệt là phúc lợi trẻ
em. HDI còn được sử dụng để đánh giá một quốc gia là nước phát triển, nước đang
phát triển và nước kém phát triển. Đây cũng là chỉ số xác định sự ảnh hưởng của các
chính sách kinh tế đến chất lượng cuộc sớng, là chỉ số hết sức quan trọng để hiểu về

9


trình độ phát triển kinh tế xã hội và mối tương quan giữa vấn đề kinh tế xã hội và cộng
đồng, chỉ số HDI cho ta cái nhìn tổng quát nhất và không kém phần sâu sắc.
Thế giới đã chia mức HDI như sau:
+ Mức độ phát triển con người cao có giá trị HDI từ 0,799 trở lên.
+ Mức độ phát triển con người trung bình có giá trị HDI từ 0,500 – 0,799
+ Mức độ phát triển con người có giá trị thấp có giá trị HDI là nhỏ hơn 0,500
Hiện nay có 83/182 nước đạt mức độ phát triển con người cao, đứng dầu là Na Uy
với giá trị HDI là 0,971. Có 75/182 nước đạt mức độ phát triển con người trung bình và
24/182 nước ở mức độ phát triển con người thấp. Nigiê là nước thấp nhất với HDI là
0,340. Việt Nam nằm trong nhóm nước có mức độ phát triển con người trung bình, HDI
của Việt Nam là 0,725 đứng thứ 116/182 quốc gia. (Nguồn số liệu từ báo cáo phát triển
con người của liên hợp quốc năm 2009).

* Quan niệm của Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói
và các phương pháp xác định chuẩn nghèo khác nhau. Đó là cách xác định ch̉n
nghèo của chính phủ do Bộ LĐTB&XH cơng bớ, ch̉n nghèo của tổng cục thống kê,
chuẩn nghèo của ngân hàng thế giới. Theo các phương pháp xác định đó chuẩn nghèo
luôn biến đổi theo không gian và thời gian. Về không gian, chuẩn nghèo thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng từng vùng hay từng miền. Ở Việt Nam,
chuẩn nghèo thay đổi theo hai vùng sinh thái khác nhau đó là vùng đơ thị, vùng nông
thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi. Về thời gian chuẩn nghèo cũng thay đổi
theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của con người theo từng giai doạn
của lịch sử. Có thể xác lập các chỉ tiêu để đánh giá về nghèo đói theo mấy chỉ tiêu như
sau:
-

Chỉ tiêu về thu nhập và chi tiêu:


Theo đánh giá của Tổng Cục Thống Kê năm 1993, qua kết quả điều tra

tình trạng thu nhập của nước ta tính ra mức thu nhập bình quân đầu người/tháng của cả
nước là 119.000đ trong đó ở nơng thơn là 94.440 đ, ở thành thị là 220.340đ. Từ đó đưa
ra cách phân loại như sau:
+ Hộ nghèo: Ở thành thị có thu nhập dưới 70.000đ/người/tháng.

10


Ở nơng thơn có thu nhập dưới 50.000đ/người/tháng.
+ Hộ đói:


Ở Thành thị có thu nhập dưới 50.000đ/người/tháng.
Ở nơng thơn có thu nhập dưới 30.000đ/người/tháng.

Theo cách xác định này cuối năm 1993 cả nước có khoảng 3 triệu hộ đói nghèo
chiếm 23% tổng sớ hộ, trong đó có khoảng 60 vạn hộ đói chiếm khoảng 4,2% tổng sớ
hộ.


Đến giai đoạn 1997 – 2000, Bộ LĐTB& XH đưa ra tiêu chuẩn đánh giá

nghèo đói trên cơ sở điều chỉnh một sớ chỉ tiêu đã đưa ra năm 1993 như sau:
+ Hộ đói: Thiếu ăn từ 3 -6 tháng trong năm, dụng cụ sinh hoạt gia đình hầu như
không đáng kể, con cái thất học, nhà ở dột nát tạm bở, thu nhập bình quân đầu người
trong hộ dưới 13Kg gạo/tháng tương đương 45.000đ.
+ Hộ nghèo là hộ có thu nhập tùy theo vùng ở các mức tương ứng như sau:
Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: dưới 15 kg gạo/người/tháng tương đương
55.000 đồng.
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg gạo/người/tháng tương đương
70.000 đồng.
Vùng thành thị: dưới 25 kg gạo/người/tháng tương đương 90.000 đồng.


Giai đoạn 2001 – 2005: Theo Quyết định sớ 143/2001/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục
tiêu q́c gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005" có điều chỉnh chuẩn nghèo
cho giai đoạn 2001 – 2005 như sau:
+ Ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo thì những hộ gia đình có thu nhập bình
quân đầu người từ 80.000đồng/người/tháng (960.000đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.

+ Ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu
người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.
+ Ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000
đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở x́ng là hộ nghèo.
Hộ đói là những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 50.000đ/tháng

11




Giai đoạn 2006 – 2010: Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho
giai đoạn 2006-2010 thì chuẩn nghèo được áp dụng như sau:
+ Ở khu vực nơng thơn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
+ Ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tuy nhiên, căn cứ vào thực tế tình hình phát triển kinh tế xã hội và kết quả đạt
được từ các chương trình xóa đói giảm nghèo, các tỉnh, các thành phớ có thể nâng mức
ch̉n nghèo cao hơn so với chuẩn nghèo nghèo của cả nước theo các quy định sau:
o Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh, thành phố cao hơn thu nhập bình
quân đầu người của cả nước.
o Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh, thành phố thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước.
o Tự cân đối được nguồn lực và đủ nguồn lực hổ trợ cho người nghèo, hộ nghèo.
- Chỉ tiêu về nhà ở và tư liệu sinh hoạt: Những người nghèo thường sống
trong những căn nhà tồi tàn, nhà tranh vách đất, một sớ ít nhà tạm nhà bán kiên cớ.
Những hộ có nhà cửa được xây dựng thì là những căn nhà tàn dư, đồ thừa kế của các

thế hệ trước để lại hoặc được hỗ trợ từ các chương trình dự án xóa đói giảm nghèo chứ
khơng phải là do hộ tự làm ra.
Tư liệu sinh hoạt của các hộ nghèo thường đơn giản khơng có gì ngồi những
đồ dùng khơng thể thiếu được như giường chỗng, bàn ghế và một sớ thứ khác có giá trị
khơng lớn, hoặc những đồ cũ mua lại sắp hư hỏng.
- Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất: Người nghèo thường có rất ít tư liệu sản xuất,
cơng cụ sản xuất thường thô sơ, đất đai là tư liệu sản xuất chính của hộ nghèo. Nhưng
thường thì diện tích đất của các hộ ở đây rất nhỏ, chất đất không tốt, khó khăn cho việc
sản xuất. Chỉ một sớ ít hộ có tư liệu sản xuất khá nhưng do trình độ hiểu biết kém,
khơng có kinh nghiệm hoặc lười nhác nên cũng rơi vào tình trạng nghèo đói.
- Chỉ tiêu về vốn: Các hộ nghèo thường khơng có vớn để dành. Họ thường đi
vay mượn để chi cho tiêu dùng hoặc đầu tư sản xuất. Do đó họ thường bị động trong
cuộc sống, phải vay mượn với lãi suất cao, làm thuê để trả nợ, kiếm sống qua ngày;

12


một bộ phận có thể rơi vào các tệ nạn xã hội như trộm cướp, mại dâm. Nếu khơng có
các biện pháp hỗ trợ giúp đỡ thì dễ làm cho mâu th̃n xã hội thêm gay gắt thậm chí
rới loạn.
1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói
1.1.2.1 Nguyên nhân khách quan
- Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên - xã hội: Điều kiện tự nhiên khí hậu khắc
nghiệt, thiên tai , bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao
thơng khó khăn, kinh tế chậm phát triển, hậu quả chiến tranh để lại.
- Nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc khơng đồng bộ về chính
sách, đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách giáo dục đào tạo, y tế… còn hạn
chế.
1.1.2.2 Nguyên nhân chủ quan
- Thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vớn, đơng con, thiếu lao động, khơng có việc

làm, lười lao động, mắc các tệ nạn xã hội.
Việc xác định nguyên nhân đói nghèo là rất quan trọng, đó là cơ sở để có các
giải pháp nhằm giảm đói nghèo.
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Tổng quan về tình hình nghèo đói trên thế giới
Từ năm 1981, những người có thu nhập 1 USD/ngày được coi là người nghèo.
Chuẩn nghèo toàn cầu này đã được điều chỉnh thành 1,25 USD/ngày kể từ năm 2005,
sau khi tính đến yếu tớ lạm phát.
Theo báo cáo tổng kết do Ngân hàng thế giới (WB) công bố năm 2005, năm
chuẩn nghèo mới bắt đầu được điều chỉnh, ước tính thế giới có khoảng 1,4 tỷ người
sống với thu nhập dưới 1,25 USD/ngày. Trong khi đó, năm 2004, ước tính thế giới có
khoảng 1 tỷ người sống với thu nhập dưới 1 USD/ngày (là chuẩn nghèo cũ).
Những con số cho thấy cái nghèo vừa dai dẳng hơn vừa giảm chậm hơn người
ta nghĩ trước đây.
Tuy nhiên, do dân số thế giới tăng, nên trong vòng 25 năm (từ năm 1981 đến
2005), tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 50% x́ng cịn 25%.

13


Đặc biệt ở khu vực hạ Sahara (phần lục địa châu Phi nằm về phía nam sa mạc
Sahara), nơi một nửa dân số sống trong tình trạng cực nghèo, và con số này không hề
thay đổi suốt 25 năm. Các con số thống kê mới cho thấy, châu Phi vẫn là khu vực kém
thành cơng nhất trong cơng tác xóa nghèo.
Trong 25 năm, số người nghèo ở châu Phi đã tăng gần gấp đôi, từ 200 triệu
năm 1981 lên 380 triệu năm 2005, mà mức độ nghèo cũng nghiêm trọng nhất, trung
bình mỗi người nghèo ở đây chỉ thu nhập 70 xu/ngày. Tỷ lệ người nghèo ở châu Phi
không hề thay đổi từ năm 1981 đến nay, luôn là 50%.
Nhưng theo con số tuyệt đối thì Nam Á mới là nơi có nhiều người nghèo nhất
thế giới, khu vực này có 595 triệu người nghèo, trong đó 455 triệu người sống ở Ấn

Độ. Tuy nhiên, tỷ lệ người nghèo ở đây đã giảm từ 60% x́ng cịn 40% trong 25 năm.
Trung Quốc là nước thành công nhất trong công tác xóa nghèo. Con sớ người
nghèo ở nước này đã giảm hơn 600 triệu, từ 835 triệu năm 1981 x́ng cịn 207 triệu
năm 2005. Tỷ lệ người nghèo ở nước này cũng giảm từ 85% x́ng cịn 15,9%, trong
đó 15 năm ći của giai đoạn 25 năm, Trung Q́c có sớ người được xóa nghèo cao
nhất. Thực tế, Trung Q́c chiếm gần một nửa sớ người được xóa nghèo của tồn thế
giới. Nếu khơng tính đến Trung Q́c thì trong 25 năm, tỷ lệ người nghèo trên thế giới
chỉ giảm từ 40% x́ng cịn 30%.
Theo nhà kinh tế cao cấp Justin Lin của WB, báo cáo nói trên cho thấy, đến
năm 2015, sớ người nghèo trên thế giới có khả năng chỉ cịn bằng một nửa con sớ của
năm 1990. “Kể từ năm 1981, mỗi năm số người nghèo trên thế giới giảm khoảng 1%,”
ơng Lin nói. Tuy nhiên, theo ơng Lin, những thông tin mới thiếu khả quan chỉ ra rằng,
thế giới có nhiều người nghèo hơn ta tưởng và vì vậy nỗ lực xóa nghèo phải tăng gấp
đơi.
Mới đây, Oxfam cũng cảnh báo sẽ có thêm khoảng 500 triệu người nghèo do
giá lương thực tăng, đe dọa xóa bỏ thành quả chớng đói nghèo của thế giới śt 25
năm qua.

1.2.2 Thực trạng đói nghèo và chương trình giảm đói nghèo ở Việt Nam

14


Việt Nam là một nước nghèo, trước năm 1986 tỷ lệ người nghèo luôn ở mức
bình quân 45%, sau đổi mới về cơ chế kinh tế đời sống của đại bộ phận nhân dân được
cải thiện, tuy nhiên tỷ lệ nghèo đói vẫn ở mức cao. Việt Nam được xếp vào loại các
nước nghèo nhất thế giới, chênh lệch giữa các vùng trong cả nước còn cao, vùng sâu,
vùng xa có tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân 40%, cá biệt có nơi 60%.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã có nhều nỗ lực trong cơng cuộc
chớng đói nghèo, coi chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong bảy chương trình

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhờ đó thu nhập và đời sống của nông
dân được cải thiện một bước đáng kể, bộ mặt nông thôn ngày càng khang trang hơn,
nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, tăng trưởng kinh tế ở mức
cao ổn định. Tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh từ 30,2% năm 1992 x́ng cịn 19,32% năm
1996 và giảm x́ng cịn 8,93% năm vào tháng 6 năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo tính theo
khu vực thành thị giảm từ 8,0% năm 1996 xuống cịn 6,23% năm 2002; khu vực nơng
thơn giảm từ 22,1% năm 1996 x́ng cịn 15,1% năm 2002.
Ngồi tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh thì tốc độ giảm nghèo không đều giữa các
vùng, một số vùng như Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên, tỷ lệ hộ nghèo còn
cao từ 1,7 – 2 lần so với bình quân chung của cả nước. Hơn 90% hộ nghèo ở nông
thôn và thường rơi vào các hộ thuần nông, ở các vùng cao, vùng sâu vùng xa, khu vực
bãi ngang ven biển. Hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu sớ cịn chiếm tỷ lệ cao (Kon
Tum 80%, Gia Lai 77%).
Tuy vậy, kết quả xóa đói giảm nghèo được đánh giá là chưa bền vững do một tỷ
lệ lớn hộ gia đình còn nằm trong ngay cận ch̉n nghèo và do đó tính dễ tổn thương
của các hộ hộ thoát nghèo trước những sự cớ về thiên tai và rủi ro cịn cao nên nguy cơ
tái nghèo còn nhiều. Chất lượng giảm nghèo chưa vững chắc, tình trạng nghèo và phát
sinh hộ nghèo mới ở các địa phương cịn là do một sớ ngun nhân khác như: “bỏ sót”
đới tượng ngay từ khâu xác định hộ nghèo ban đầu hoặc đã đưa vào danh sách, song
lại bị “bỏ sót” khi thực hiện chính sách. Thực tế, một bộ phận nghèo chưa được hưởng
các chính sách về trợ giúp y tế, giáo dục, tín dụng.
Khoảng cách nghèo là một điểm khác rât đáng quan tâm, đó chính là phần
chênh lệch được tính vào phần trăm giữa các mức chi tiêu thực tế của các hộ so với

15


ngưỡng nghèo. Năm 2002 khoảng cách nghèo của vùng nông thôn cao gấp 6,7 lần
thành thị và của dân tộc thiểu số là 22,1% so với mức 4,7% của người Kinh và người
Hoa.

Với định hướng xóa đói giảm nghèo tồn diện, công bằng, bền vững và hội
nhập hơn, chuẩn nghèo trong giai đoạn 2006- 2010 tương đương sức mua 2 -2,2 USD/
ngày/người thì khu vực thành thị là 260.000đ và khu vực nông thôn là 200.000. Theo
chuẩn mới thì tỷ lệ hộ nghèo chung của nước ta khoảng 27,6%, thành thị khoảng
12,2%, nông thôn đồng bằng 23,2%, nông thôn miền núi 45,90%.
1.2.3 Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước và Việt Nam
1.2.3.1 Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một sớ nước
Đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của nhiều q́c gia trên
thế giới, diễn ra trên tất cả các châu lục với mức độ khác nhau, đặc biệt là các quốc gia
kém phát triển, đang phát triển. Thách thức của sự phát triển và yêu cầu tìm kiếm giải
pháp, các mô hình phát triển bền vững đặt ra đối với các quốc gia, các khu vực ngày
càng lớn mà trước hết là vượt qua ngưỡng nghèo khổ, bắt kịp nhịp độ phát triển của
thời đại, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Sau đây là kinh nghiệm của một số
quốc gia trên thế giới:
- Kinh nghiệm của Ấn Độ: Là nước có sớ người nghèo khổ nhiều nhất thế giới,
chiếm 27% của 1,3 tỷ người nghèo trên thế giới. Xóa đói giảm nghèo là một trong
những mục tiêu cơ bản của phát triển kinh tế xã hội ở Ấn Độ. Chính phủ đặt ra vấn đề
phát triển nơng thơn tồn diện nhằm khơi dậy những tiềm năng sẵn có trong nơng thơn
và nơng dân, nổi bật là “cuộc cách mạng xanh” trong nông nghiệp, nhằm đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất tăng nhanh khối lượng và năng suất cây trồng, cùng
với chủ trương đẩy mạnh phát triển cơng nghiệp nơng thơn. Chính phủ có biện pháp
giúp đỡ từng nhóm và hộ gia đình nhằm phát triển sản xuất, đã giúp cho 15 triệu hộ
gia đình với 75 triệu nhân khẩu thoát khỏi cảnh nghèo khổ.
- Kinh nghiệm của Trung Q́c: Có thể nói Trung Qc là nước thành cơng
nhất trong cơng tác xóa đói giảm nghèo. Tuy là nước đông dân nhất thế giới nhưng
Trung Q́c có tỷ lệ dân sớ sớng ở mức nghèo khổ thấp nhất. Một trong những kinh
nghiệm của Trung Q́c trong cơng tác chớng đói nghèo là : Trung Quốc đã thực hiện

16



chính sách “Tam nơng” (nơng nghiệp, nơng thơn và nơng dân ); trợ cấp thực phẩm cho
dân cư đô thị cho vay ưu đãi giáo dục đối với người nghèo; giảm thiểu đóng góp cho
nơng dân, kể cả miễn học phí cho con cái nơng dân. Trung Q́c đã thực hiện phương
châm tạo điều kiện cho các khu vực nghèo đói có khả năng phát triển (khu vực nơng
thơn phía tây). Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng đất một cách một cách có hệ
thớng vào năm 1979, đất đai được chia một cách bình đẳng cho nông dân, từ bỏ chính
sách lương thực hàng đầu để nhằm đa dạng hóa sản phẩm, hướng đầu tư chủ yếu vào
nơng nghiệp, đồng thời coi trọng phát triển các doanh nghiệp nông thôn vừa và nhỏ về
chế biến nông sản, thực hiện lưu chuyển lao động trong nông nghiệp, giảm tỷ lệ sinh đẻ
trong dân, nâng cao trình độ văn hóa, giáo dục. Trọng điểm của công tác XĐGN là phát
huy được sự tham gia của mọi lực lượng trong xã hội, khai thác được nguồn nhân lực và
công tác chống đói nghèo.
Giữa thập niên 80, Trung Q́c đề ra chiến lược chớng đói nghèo một cách tồn
diện để giải quyết dần tình trạng nghèo đói của 102 triệu người. Năm 1994, Trung
Quốc lại đưa ra chương trình giải quyết nạn đói cho 80 triệu người trong vịng 7 năm.
Kết quả chỉ trong vịng 2 thập kỷ ći thế kỷ trước đã giảm được gần 3/4 sớ người
nghèo đói (từ 200 triệu người x́ng cịn 58 triệu người)
- Kinh nghiệm của Thái Lan: Từ những năm 1980, Thái Lan đã áp dụng mơ
hình gắn liền chính sách phát triển q́c gia với chính sách nơng thơn, qua việc phát
triển các xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát triển các doanh nghiêp nhỏ, mở rộng các
trung tâm dạy nghề ở nông thôn nhằm giảm bớt nghèo đói. Nhờ vậy tỷ lệ nghèo đói ở
Thái Lan đã giảm từ 30% ở thập kỷ 80 x́ng cịn 23% năm 1990 tương ứng khoảng
13 triệu người.
- Kinh nghiệm của Chi Lê: Là nước duy nhất ở châu mỹ có tớc độ giảm nghèo
tương đới nhanh, năm 1996 có 39% dân sớ sớng dưới mức nghèo khổ, đến năm 1997
chỉ còn 20%, từ năm 1990 – 1998 có 2 triệu người đã thoát khỏi nghèo khổ trong tổng
dân số 11,5 triệu người. Theo các nhà phân tích, Chi Lê đạt được kết quả trên là dựa
vào 3 nhân tố sau đây: sự tăng trưởng kinh tế được giữ vững, sự gia tăng những chỉ
tiêu xã hội và việc xây dựng nhiều chương trình xúc tiến việc làm. Chi Lê cũng là


17


nước đầu tiên ở Mỹ La tinh tiến hành tư nhân hóa, mở cửa thị trường và giảm thuế từ
đó lạm phát được kiềm chế và kinh tế bắt đầu tăng trưởng.
1.2.3.2 Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở nước ta
Trong những năm qua, nhờ học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới cùng
với sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước và sự nỗ lực của toàn thể nhân dân đến nay
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong cơng tác xóa đói giảm nghèo, những
nỗ lực này đã được thề giới công nhận và đánh giá cao. Đảng và Nhà nước ta đã rút ra
được một số kinh nghiệm bước đầu như sau:
- Tăng cường nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng cũng
như phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo đói cho các cấp các ngành và mọi
người dân, đặc biệt là người nghèo và xã nghèo. Xem cơng tác xóa đói giảm nghèo
khơng chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà trước hết thuộc về từng các nhân, gia đình,
dòng họ, cộng đồng và trách nhiệm của tồn xã hội. Xóa đói giảm nghèo vươn lên làm
giàu là một nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa để thực hiện mục
tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Đây là mục tiêu
then chốt để thực hiện thành công cuộc phát triển đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững là tiền đề giúp cho việc xóa đói giảm
nghèo được thưc hiện nhanh và tồn diện. Thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững cần
phải bảo đảm cho người dân có thể được các thành tựu phát triển, phải tạo việc làm và
tăng thu nhập ở cả thành thị và nông thôn. Đồng thời phải đầu tư cho con người và
phát huy nguồn lực con người, coi đó là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững
- Chiến lược về xóa đói giảm nghèo cần phải đa dạng và có mục tiêu trên cơ sở
nhu cầu của nhân dân. Hệ thớng các cơ chế, chính sách cần linh hoạt tùy điều kiện của
từng vùng, từng địa phương. Để thực hiện các chính sách có hiệu quả, cần có sự phới
kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp và đồng thời phát động phong trào sâu rộng
trong cả nước. Các bộ, ngành trung ương có nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng chương

trình, chính sách, lập kế hoạch tổng thể trong khi chính quyền cơ sỏ chịu trách nhiệm
phân bổ nguồn lực dựa trên nhu cầu và khả năng của từng địa phương, tổ chức thực
hiện và quản lý hiệu quả các chương trình. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở và

18


thực hiên dân chủ cơ sở, tăng cường sự tham gia giám sát của người dân, đặc biệt là
người nghèo, phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số.
- Cần thiết lập theo dõi đánh giá toàn diện hơn để nâng cao hiệu quả của
chương trình. Hệ thống theo dõi, giám sát chương trình cũng có vai trị trọng yếu
trong cơng tác xóa đói giảm nghèo. Một hệ thớng theo dõi, giám sát tốt sẽ cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những thơng tin chính xác, kịp thời làm cơ sở để
ban hành hoặc điều chỉnh chính sách, chương trình phù hợp với điều kiện cụ thể, nó
cũng giúp địa phương đánh giá khách quan hơn, hiệu quả thực hiện chương trình từ
đó điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với nhu cầu của người dân.
- Đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực phục vụ cơng tác xóa đói giảm
nghèo, trước hết là chủ động phát huy nguồn lực tại chỗ, huy động nguồn lực cộng
đồng kết hợp với sự đầu tư của Nhà nước đi đôi mở rộng hợp tác với quốc tế để tăng
thêm nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo.

19


CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA XÃ VẠN TRẠCH,
HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
2.1.1 Vị trí địa lý
Vạn Trạch là một xã vùng gị đồi cách trung tâm hụn Bớ Trạch 07 km về phía
tây.

Phía bắc giáp xã Sơn Lộc, xã Phú Trạch
Đông giáp xã Hồn Trạch
Đơng Nam giáp xã Tây Trạch
Tây Nam giáp xã Phú Định
Tây giáp xã Cự Nẫm
Diện tích tự nhiên 2.743 ha, gồm 1.582 hộ với 6.958 nhân khẩu và phân bố
thành 12 thôn theo địa bàn dân cư.
2.1.2 Đặc điểm thời tiết khí hậu.
Xã Vạn Trạch nằm ở vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mỗi
năm có hai mùa rõ rệt:
+ Mùa khơ từ ći tháng 1 đến tháng 7 (nắng gắt từ tháng 4 đến hết tháng 7), có
gió mùa Tây Nam sau khi vượt dãy Trường Sơn bị hút hết độ ẩm nên ở đây rất khơ
nóng, ít mưa và thường bị khơ hạn nặng, ngồi ra do nằm ở vùng gị đồi địa hình đồi
dốc khả năng giữ nước kém nên làm cho càng khô hạn hơn.
+ Mùa mưa thường từ tháng 8 đến hết tháng 1 năm sau, lượng mưa chiếm 70 –
85% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa tập trung vào các tháng 10 -11, mưa lớn và
mùa mưa cũng là mùa lạnh có nhiệt độ trung bình thấp dưới 18 0C có khi x́ng 9 –
110C. Mùa lạnh thường có gió mùa Đơng Bắc kèm theo khơng khí ẩm ướt nên thường
buốt giá, nhiều đợt lạnh kéo dài hàng chục ngày làm thiệt hại cây trồng gia súc.
- Lượng mưa bình quân hàng năm là 2500mm/năm, tổng số ngày mưa khá
nhiều 140 – 150 ngày/năm. Độ ẩm tương đối cao, trung bình 82%, tổng số giờ cả năm
bình quân 1800 giờ.
2.2.3 Địa hình, đất đai.

20



×