Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận 9 điểm môn Kinh tế đối ngoại Tiến trình việt nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.14 KB, 32 trang )

DANH SÁCH NHÓM

STT

HỌ VÀ TÊN

GHI CHÚ

ĐÁNH GIÁ

1

Nguyễn Khánh Ngọc

Nhóm trưởng

9

2

Bùi Thái Hoàng

Thuyết trình

9

3

Tô Thanh Hà

Thành viên



9

4

Nguyễn Thị Hạnh

Thành viên

9

5

Nguyễn Thị Nguyệt Ánh

Thành viên

9

(Nhóm trưởng đánh giá điểm dựa trên tinh thần làm việc của mỗi thành viên)

i


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................1
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................4
1. Lý luận chung về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)..........................4

1.1.WTO là gì?............................................................................................4
1.2.Quá trình hình thành và phát triển của WTO........................................4
1.3.Mục tiêu của WTO................................................................................6
1.4.Chức năng chủ yếu của WTO...............................................................6
1.5.Các nguyên tắc pháp lý cơ bản của WTO.............................................7
1.6.Tổ chức và hoạt động của WTO.........................................................10
1.7.Các điều kiện gia nhập WTO..............................................................12
2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO........................15
2.1.Cơ hội của Việt Nam khi gia nhập WTO............................................15
2.2.Thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO.....................................18
3. Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO......................................................20
4. Một số cam kết chính của Việt Nam khi gia nhập WTO.......................21
5. Đánh giá nền kinh tế Việt Nam sau 11 năm gia nhập WTO.................23
5.1.Những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau khi gia nhập WTO........23
5.2.Những hạn chế còn tồn tại sau khi gia nhập WTO.............................27
6. Kiến nghị giúp Việt Nam tiếp tục phát triển kinh tế.............................28
KẾT LUẬN....................................................................................................30

ii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Tổ chức thương mại thế giới

WTO

Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch

GATT


Cơ quan xử lý tranh chấp

DSB

Hiệp định đa sợi

MFA

Hiệp định thương mại tự do

FTA

1


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cổng thông tin điện tử Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh
tế, Tóm tắt quá trình Việt Nam gia nhập WTO, 03/06/2015.
2. PSG.TS. Nguyễn Như Bình – Khoa Kinh tế & Kinh doanh quốc tế Đại
học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới,
25/04/2010.
3. PGS.TS Hà Thị Ngọc Oanh, TS.GVCC.Nguyễn Đăng Quế, Giáo trình
QLNN về Kinh tế đối ngoại, Nhà xuất bản tài chính.
4. />
2


LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XX, toàn cầu hoá nền kinh tế trở thành vấn đề thời đại

mang tính sống còn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đó là một xu thế mới
của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá
sản xuất trở thành phổ biến. Và có thể nói rằng Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) ra đời là một hệ quả tất yếu của quá trình này. WTO là một tổ chức quốc
tế biểu hiện gần như đầy đủ và tiêu biểu nhất cho xu hướng toàn cầu hoá hiện
nay. Thực tế đã chứng minh rằng thương mại quốc tế mang lại rất nhiều lợi ích
to lớn cho nền kinh tế thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng. Do vậy, gia
nhập WTO không chỉ đơn thuần là chịu sức ép của xu thế tất yếu của thời đại mà
nó còn mang tính chủ động, là mục tiêu của nhiều nước trên thế giới vì lợi ích
phát triển kinh tế quốc gia mình.
Đối với Việt Nam, được chính thức trở thành thành viên của WTO là một
bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên tiến
trình đàm phán ra nhập WTO của Việt Nam là một chặng đường dài, có nhiều
thử thách cũng như triển vọng. Và sau khi chính thức trở thành thành viên của
WTO Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu to lớn.
Từ những nội dung nêu trên, nhóm chúng em đã chọn đề tài: Tiến trình gia
nhập WTO của Việt Nam.

3


PHẦN NỘI DUNG
1. Lý luận chung về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
1.1.

WTO là gì?

WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World
Trade Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức

thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994. WTO chính thức
đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. Có thể hình dung một cách đơn giản về
WTO như sau:
• WTO là nơi đề ra những quy định;
• WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán;
• WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế;
• WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp.
1.2.

Quá trình hình thành và phát triển của WTO

Tháng 2 năm 1946, Hội đồng kinh tế và xã hội Liên Hiệp Quốc đã triệu tập
một hội nghị bàn về thương mại và việc làm. Văn kiện cuối cùng của hội nghị
này là Hiến chương Lahabana. Đây là cơ sở để 23 nước thương lượng ký Nghị
định thư tạm thời về việc thi hành Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
(GATT) vào ngày 23 tháng 10 năm 1947, chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng
1 năm 1948.
Và thế là GATT, công ước mang tính chất lâm thời, trở thành thoả thuận đa
phương then chốt về mậu dịch toàn cầu. Hiệp định GATT trở thành văn kiện
công pháp quốc tế đầu tiên điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia
mang tính chất đa phương. Nhiệm vụ chính của GATT là tự do hoá thương mại,
cắt giảm thuế quan, bãi bỏ các hạn chế về nhập khẩu, chấm dứt mọi phân biệt
đối xử về kinh tế và buôn bán giữa các nước. Bất cứ sự thay đổi nào trong hiệp
định cũng đòi hỏi phải được tất cả các thành viên đồng ý. Nếu có sự tranh chấp,
mọi thành viên phải đồng thuận về giải pháp.
Khi GATT ra đời, các quốc gia chỉ xem đây là một giải pháp dung hoà tạm
thời nhưng trên thực tế nó tồn tại trong một thời gian dài. GATT đã trải qua bảy
vòng đàm phán, không kể vòng khai sinh ra nó gồm: 1949 (vòng Annecy), 1951
4



(vòng Torquay), 1956 (vòng Geneva), 1960 - 1961 (vòng Dillon), 1964 - 1967
(vòng Kennedy), 1973 - 1979 (vòng Tokyo) và 1986 - 1994 (vòng Uruguay).
Sau hơn 40 năm tồn tại của mình, GATT đã góp phần đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế thế giới. Nhưng do cơ chế giải quyết tranh chấp không hiệu quả
và người được lợi chủ yếu là Mỹ nên các quốc gia khác đòi phải có một tổ chức
thay thế GATT có hiệu quả hơn. Trong vòng Uruguay (vòng đàm phán cuối
cùng của GATT) các quốc gia thành viên đã đồng thuận thành lập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) để kế vị GATT từ ngày 1 tháng 1 năm 1995.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là tổ chức quốc tế, là thiết chế pháp lý
của hệ thống thương mại thế giới quy định các nghĩa vụ chủ yếu mang tính cam
kết để xác định các chính phủ xây dựng và thực thi luật pháp và các quy chế
thương mại trong nước như thế nào.
Hiện nay WTO là một tổ chức quốc tế có quy mô lớn nhất thế giới (trừ Liên
Hiệp Quốc) với 164 thành viên chính thức (tính đến ngày 29/07/2016).
Thêm vào đó, thoả thuận WTO cũng có quy mô khá đồ sộ với 29 văn bản
pháp quy riêng rẽ, bao quát mọi thứ từ nông nghiệp đến vải vóc và may mặc, từ
dịch vụ đến mua sắm của chính phủ, từ nguồn gốc hàng hoá đến sở hữu trí tuệ.
Ngoài ra còn có 25 văn bản bổ sung là tuyên bố, quyết định và ghi nhớ cấp bộ
trưởng giải thích rõ các nghĩa vụ và cam kết của các thành viên WTO. Như vậy
rõ ràng WTO có nhiều khác biệt so với GATT và chủ yếu ở năm điểm cơ bản
sau:
- GATT chỉ là một loạt quy định, một thoả thuận đa phương không mang tính
chất thiết chế và chỉ có một ban thư ký điều phối nhỏ. WTO là một thiết chế
thường trực, có cả một bộ phận văn phòng điều hành lớn.
- Các quy định của GATT được áp dụng trên cơ sở "lâm thời". Các cam kết
của WTO là toàn bộ và thường trực.
- Các quy định của GATT chỉ áp dụng đối với buôn bán hàng hoá. WTO thì
ngoài hàng hoá còn bao quát cả thương mại trong dịch vụ và thương mại về
phương diện liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.


5


- GATT là công cụ đa phương, và từ những năm 1980, có thêm nhiều hiệp
định của một số bên nên mang tính chất chọn lựa. Hầu hết các hiệp định của
WTO là đa phương và như vậy đòi hỏi sự cam kết bắt buộc của tất cả các thành
viên.
- Hệ thống xử lý tranh chấp của WTO nhanh hơn, linh động hơn, và như vậy
giảm nguy cơ bế tắc so với hệ thống của GATT. Việc thực thi cũng được bảo
đảm hơn.
"GATT 1947" tồn tại cho đến cuối năm 1995. Nhưng "GATT 1994", bổ sung
và cập nhật nó, là bộ phận tổng thành của WTO và vẫn tiếp tục phát huy chức
năng tác dụng về thương mại hàng hoá quốc tế trong tổ chức mới này.
1.3.

Mục tiêu của WTO

Mục tiêu của WTO được nêu ra ở lời nói đầu của Hiệp định thành lập Tổ
chức Thương mại Thế giới. Các mục tiêu đó được kế thừa từ các mục tiêu do
Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947) nêu ra và được
phát triển và bổ sung trong những điều kiện mới của kinh tế và thương mại thế
giới. Các mục tiêu đó gồm:
 Phát triển sản xuất và thương mại;
 Nâng cao mức sống của người dân các nước thành viên; Tạo công ăn việc làm;
Góp phần tăng thu nhập thực tế cũng như nhu cầu có khả năng thanh toán của
dân cư;
 Mở rộng sản xuất, thương mại hàng hóa và dịch vụ;
 Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của thế giới gắn liền với việc bảo đảm sự
phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường;

 Xây dựng một cơ chế thương mại đa phương chặt chẽ, ổn định và khả thi;
 Thực thi các mục tiêu đó theo cách thức phù hợp với nhu cầu cũng như mối
quan tâm của các Thành viên có trình độ phát triển khác nhau, đặc biệt là nỗ lực
tích cực để đảm bảo rằng các Thành viên đang và kém phát triển duy trì được tỷ
phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế.
1.4.

Chức năng chủ yếu của WTO

WTO có năm chức năng chính dưới đây:
6


Trước hết, với bản chất pháp lý của mình, WTO có chức năng điều hành và
thực thi các hiệp định thương mại đa phương và hiệp định giữa một số bên cấu
thành WTO. Đây là một trong những chức năng quan trọng nhất của WTO vì nó
thể hiện được quyền hạn và sức mạnh của WTO cũng như là một số cơ sở đảm
bảo về mặt pháp lý cho các hiệp định được ký kết.
Thứ hai là đối với các cuộc thương lượng, đàm phán mậu dịch, WTO hoạt
động với tính chất diễn đàn cho các cuộc thương lượng mậu dịch đa phương đó.
Thứ ba là với tư cách như một trọng tài, WTO luôn tìm kiếm các giải pháp
xử lý tranh chấp thương mại có hiệu quả. Bởi vì đối với WTO thì các quốc gia
thành viên đều là "người trong một nhà" và các quốc gia không phải là thành
viên thì dần dần cũng sẽ được gia nhập và cũng là "người trong một nhà". Do đó
các giải pháp xử lý tranh chấp thường là vấn đề rất nan giải cho WTO.
Thứ tư là chức năng giám sát các chính sách thương mại quốc gia. Đây là
chức năng khá quan trọng của WTO vì nó vừa giám sát các quốc gia thành viên
xem có thực hiện đúng các hiệp định đã ký kết không, vừa giám sát các quốc gia
chưa phải là thành viên nhưng đang trong tiến trình đàm phán gia nhập. Có thể
thấy đây là một chức năng khá nặng nề của WTO.

Cuối cùng là sự hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới hoạch
định chính sách kinh tế toàn cầu. Điều này là rất cần thiết vì trong điều kiện hiện
nay thường thì một quốc gia là thành viên của khá nhiều các tổ chức, các thiết
chế quốc tế. Do vậy sự hợp tác là rất cần thiết cho việc thực hiện các chức năng
của WTO.
1.5.

Các nguyên tắc pháp lý cơ bản của WTO

1.5.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế
Theo điều khoản về "đãi ngộ tối huệ quốc - MFN", mỗi nước thành viên sẽ
dành sự ưu đãi của mình đối với sản phẩm của các thành viên khác, không có
nước nào dành lợi thế thương mại đặc biệt cho bất kỳ một nước nào khác hay
phân biệt đối xử chống lại nước đó. Tất cả đều trên cơ sở bình đẳng và chia sẻ
lợi ích về mậu dịch trong mọi lĩnh vực. Một loại hình chống phân biệt đối xử
khác là "đối xử quốc gia". Loại hình này đòi hỏi khi hàng hoá thâm nhập vào
7


một thị trường thì nó phải được đối xử không kém ưu đãi so với hàng hoá tương
tự sản xuất trong nước. Ngoài ra, WTO còn đưa ra các điều khoản không có sự
phân biệt đối xử khác bao gồm các hiệp định, các quy tắc về xuất xứ, kiểm
nghiệm hàng hoá trước khi giao hàng, về biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại và về áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh và kiểm dịch.
1.5.2. Sự thâm nhập thị trường ngày càng tăng và có thể dự đoán trước
Hệ thống thương mại đa phương là một sự cố gắng của các quốc gia nhằm
cung cấp cho các nhà đầu tư, người chủ, người lao động và người tiêu dùng một
môi trường kinh doanh thuận lợi để có thể khuyến khích thương mại, đầu tư và
tạo công ăn việc làm, cũng như các cơ hội và giá cả thấp trên thị trường. Môi
trường đó cần được ổn định và có khả năng dự đoán trước, đặc biệt là với những

công việc liên quan đến đầu tư và phát triển.
Vấn đề mấu chốt của những điều kiện thương mại có thể dự báo trước là sự
rõ ràng của luật pháp trong nước, các quy định và thực tiễn. Nhiều hiệp định của
WTO chứa đựng những điều khoản rõ ràng đòi hỏi phải công bố trong toàn
quốc, ví dụ thông qua các báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng hay
thông báo chính thức với WTO. Phần lớn công việc của các quan chức WTO có
liên quan là xem xét lại những thông báo này. Việc giám sát này sẽ cung cấp
thêm các biện pháp nhằm khuyến khích sự rõ ràng của các điều luật và các quy
định ở cả phạm vi trong nước và quốc tế.
1.5.3. Tăng cường cạnh tranh lành mạnh
WTO là một tổ chức hướng tới tự do hoá thương mại trên toàn cầu nhưng
hiện tại nó vẫn chấp nhận một số dạng bảo hộ (thuế...) mà WTO cho phép các
nước thành viên sử dụng để chống trả lại mọi biện pháp có thể gây méo mó về
giá cả trong nước hoặc gây tổn hại cho chính nước bạn hàng như việc bán phá
giá, trợ cấp đầu vào, áp dụng các biện pháp phụ thu đối với hàng nhập khẩu để
bảo hộ nội địa, sử dụng các hàng rào thuế để hạn chế hoặc hạn chế buôn bán...
Theo nguyên tắc này buộc các thành viên phải đưa ra những ứng xử công bằng
với các nước bạn hàng như giảm bớt các bảo hộ, rõ ràng các luật lệ thương mại,
đưa ra các biện pháp bảo hộ trí tuệ...
8


Các quy tắc về không phân biệt đối xử được đưa ra đảm bảo hoạt động
thương mại bình đẳng; tương tự các quy tắc về chống phá giá và trợ cấp nhằm
mục đích đó. Hiệp định về nông sản của WTO đưa ra nhằm gia tăng sự công
bằng trong thương mại nông sản. Hiệp định đa biên về mua sắm của các chính
phủ sẽ quy định các nguyên tắc cạnh tranh cho các vụ mua sắm của hàng nghìn
cơ quan khác nhau của chính phủ ở nhiều quốc gia. Còn nhiều ví dụ khác về
điều khoản của WTO được đưa ra để đẩy mạnh sự cạnh tranh công bằng và
không bị bóp méo.

1.5.4. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế
Hơn 3/4 số thành viên của WTO là các nước phát triển, các nước đang phát
triển và các nước đang trong quá trình cải cách nền kinh tế theo hướng thị
trường. Các nước này đang ở trong thời kỳ chuyển đổi để điều chỉnh theo các
điều khoản phức tạp và phi thuế quan của WTO, đặc biệt là đối với các nước
nghèo và kém phát triển nhất. Trong phần IV của GATT - 1994, bao gồm 3 điều
khoản đã được đưa ra năm 1965, là nhằm khuyến khích các nước công nghiệp
giúp đỡ các nước đang phát triển thành viên "như một sự cố gắng có ý thức và
kiên quyết" trong các điều kiện thương mại của họ và không đòi hỏi một sự đáp
lại nào về sự nhượng bộ của các nước đang phát triển trong thương lượng. Biện
pháp tiếp theo được thoả thuận tại thời điểm cuối của vòng đàm phán Tokyo
năm 1979 và được đề cập một cách thông thường như là "điều khoản có thể",
đưa ra một cơ sở pháp lý vĩnh viễn cho sự nhượng bộ thâm nhập thị trường của
các nước phát triển đối với các nước đang phát triển theo hệ thống ưu đãi phổ
cập (GSP).
1.5.5. Tăng cường mở cửa thương mại
Nhiều lý thuyết kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng "lợi thế so sánh" là căn
nguyên của thương mại quốc tế. Tuy vậy lịch sử và kinh nghiệm cho thấy, tất cả
các nước có lợi thế, chẳng hạn lợi thế về chi phí lao động hay nguồn tài nguyên
thiên nhiên, cũng có thể trở thành không thể cạnh tranh được trong một vài sản
phẩm hay dịch vụ khi nền kinh tế của họ phát triển. Tuy nhiên, với những ưu thế
của nền kinh tế mở, chúng có khả năng cạnh tranh ở một nơi khác. Đây là một
9


quá trình dần dần. Mặt khác bảo hộ quá mức sẽ làm nền kinh tế trì trệ, không
hiệu quả. Chính vì những lợi ích trên mà một trong những mục tiêu mang tính
nguyên tắc của WTO là ngăn cản xu thế bảo hộ và tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa bảo
hộ.
1.5.6. Giải quyết các bất đồng thương mại

Việc giải quyết tranh chấp trong WTO được coi là một yếu tố trung tâm bảo
đảm cho việc vận hành thương mại một cách an toàn và nằm trong dự kiến. Các
thành viên phải dựa vào cam kết không hành động đơn phương chống lại những
điều mà họ coi là vi phạm luật lệ thương mại, mà phải dựa vào hệ thống giải
quyết tranh chấp đa phương và phải tuân thủ các quy định và phán quyết của hệ
thống này.
Trong vòng 30 ngày sau khi nhận được khiếu kiện hoặc kháng án, cơ quan xử
lý tranh chấp (DSB) phải họp để phán quyết. Bên bị kiện phải tuyên bố rõ ý định
chấp hành khuyến nghị. Nếu có khó khăn trong việc tuân thủ ngay lập tức thì có
thể được DSB cho kéo dài "một thời gian hợp lý" để chấp hành. Trong trường
hợp vẫn không chấp hành được thì thành viên bị kiện phải thương lượng với bên
nguyên để xác định những điều kiện bồi thường có thể chấp nhận được cho cả
hai phía - chẳng hạn, giảm thuế suất về một số lĩnh vực nào đó có lợi cho bên
nguyên.
Nếu sau 21 ngày mà yêu cầu bồi thường vẫn chưa được thoả mãn thì bên
nguyên có thể đề nghị DSB cho phép mình thực hiện việc đình chỉ thoả nhượng
hoặc nghĩa vụ với phía bên kia. DSB sẽ đồng ý với đề nghị này sau khi mãn hạn
30 ngày nói trên. Vụ việc sẽ nằm trong nghị trình của DSB cho đến khi đã được
hoàn toàn giải quyết. Như vậy, DSB có thẩm quyền duy nhất thành lập các hội
đồng xét xử, thụ lý các báo cáo của hội đồng xét xử và kháng cáo, duy trì giám
sát việc thực thi các phán quyết và khuyến nghị, cho phép vận dụng các biện
pháp trả đũa trong những trường hợp không chịu chấp hành khuyến nghị.
1.6.

Tổ chức và hoạt động của WTO

 Cơ cấu tổ chức của WTO được khái quát qua sơ đồ 1.1 dưới đây.

10



Hình 1.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của WTO
(Nguồn: Norio Komuro 2005. The WTO How are you?. Worldbank seminar
Russian Academy of State Services. Moscow March/April 2005)
Hội nghị bộ trưởng là cơ quan quyền lực tối cao của WTO, gồm đại diện của
tất cả các thành viên, ít nhất hai năm họp một lần và có thể ra quyết định về mọi
vấn đề thuộc bất kỳ hiệp định thương mại đa phương nào.
Công việc thường ngày do một số cơ quan sau đây chịu trách nhiệm: Đại hội
đồng, cũng bao gồm các thành viên, là cơ quan thường trực và cơ quan chấp
hành của WTO, có trách nhiệm báo cáo cho Hội nghị Bộ trưởng. Đại hội đồng
điều hành công việc thường xuyên nhân danh Hội nghị cấp bộ trưởng, thành lập
hai bộ phận chuyên trách là Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà
soát chính sách thương mại (TPRB).
Cấp tiếp theo là các Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại
dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ. Những Hội đồng này có trách nhiệm báo cáo lên Đại hội đồng.
Ngoài ra, còn có rất nhiều Ủy ban chuyên trách và các nhóm công tác khác nhau
trực thuộc các Hội đồng như Ủy ban chống bán phá giá, Ủy ban trợ cấp và các
biện pháp đối kháng, Ủy ban về môi trường, Nhóm công tác về mở cửa thị
trường v.v…
11


Cuối cùng là ban thư ký: Mặc dù không phải là một cơ quan ra quyết định và
đơn thuần là một cơ quan hành chính nhưng Ban thư ký có vai trò rất quan
trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban thư ký là cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và
chuyên môn cho các hội đồng, các ủy ban; cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các
Thành viên đang phát triển; theo dõi và phân tích tình hình phát triển của thương
mại thế giới; và là phát ngôn viên của WTO trước báo chí và công chúng và tổ
chức các Hội nghị Bộ trưởng. Đứng đầu Ban thư ký là Tổng giám đốc do Đại

Hội đồng chỉ định. Ban thư ký có khoảng 600 nhân viên.

 Cơ chế vận hành của WTO
Quy trình ra quyết định của WTO tiếp tục truyền thống của GATT là đồng
thuận chứ không phải bằng bỏ phiếu. Phương pháp này theo WTO, là nhằm đảm
bảo cho quyền lợi của các thành viên được coi trọng, "mặc dù có khi họ có thể
đồng thuận vì lợi ích chung của hệ thống thương mại đa phương". Nhưng nếu
không đạt được đồng thuận thì thoả thuận WTO cho phép bỏ phiếu theo nguyên
tắc thiểu số phục tùng đa số và mỗi nước một phiếu. Như vậy, có thể coi, ít ra về
hình thức, WTO hình như rất dân chủ.
Thoả thuận WTO quy định bốn trường hợp bỏ phiếu:
- Một đa số phiếu ba phần tư có thể thông qua một diễn dịch của bất kỳ hiệp
định thương mại đa phương nào.
- Cũng bằng đa số đó, Hội nghị bộ trưởng có thể quyết định cho một thành
viên nào đó lùi thời gian thi hành một hiệp định đa phương nào đó.
- Những quyết định bổ sung một số điều khoản của các hiệp định thương mại
có thể được thông qua nếu được tất cả các thành viên hoặc được một số hai phần
ba chấp thuận, tuỳ theo tính chất của vấn đề. Tuy nhiên, các điều khoản bổ sung
đó chỉ có hiệu lực đối với các thành viên đã chấp nhận chúng.
- Việc kết nạp thành viên mới phải được đa số hai phần ba của Hội nghị bộ
trưởng tán thành.
1.7.

Các điều kiện gia nhập WTO

Để trở thành thành viên của WTO, một quốc gia phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện cụ thể sau:
12



Trước hết, đó phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, quốc gia phải sẵn sàng và có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ là
thành viên WTO.
Thứ ba, quốc gia đó phải được sự tán thành của hai phần ba số thành viên trở
lên tại Hội nghị bộ trưởng WTO.
Trên thực tế, khi xem xét cho một nước gia nhập WTO thì việc đánh giá xem
các nước đó đã hội đủ các điều kiện gia nhập chưa thì các quan chức WTO cũng
như các nước thành viên căn cứ vào 5 điều kiện mang tính nguyên tắc sau:
- Không phân biệt đối xử: Không một nước nào có thể phân biệt đối xử với
các nước bạn hàng của mình cùng có chân trong WTO hoặc với các sản phẩm,
dịch vụ cùng các công dân các nước này.
- Tự do hơn: Các rào cản sẽ lần lượt được dỡ bỏ thông qua thương thuyết.
- Có thể tiên liệu được: Các công ty, các nhà đầu tư, các chính phủ các nước
được đảm bảo rằng sẽ không có những rào cản đột xuất mọc lên một cách tuỳ
tiện, nay bằng nghị định này, mai bằng thông tư nọ...
- Cạnh tranh hơn: Trong ý nghĩa không còn những hành động phá giá, trợ cấp
xuất khẩu...mang tính chất "không sòng phẳng".
- Chiếu cố đến các nước kém phát triển: Các nước này được định nghĩa là có
GDP/đầu người dưới 1.000 USD/năm, sẽ được những thời gian ân hạn, một sự
linh động du di hơn trong những tình huống cần bảo vệ một lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ nào đó có nguy cơ bị phá sản trước làn sóng nước ngoài.
Và một điều không thể thiếu là quốc gia đó phải tuân thủ đúng thủ tục gia
nhập của WTO. Đây chính là một trong các điều kiện để gia nhập WTO.
Một nước gia nhập WTO không nhất thiết phải trải qua thời kỳ là quan sát
viên. Tuy nhiên các nước xin gia nhập thường xin chấp nhận quy chế quan sát
viên trước khi bắt đầu đàm phán với mục đích có thời kỳ trung chuyển để tiếp
cận và hiểu rõ hơn về nguyên tắc, quy chế hoạt động của WTO; thông qua đó
thiết lập mối quan hệ gần gũi và gắn bó hơn với các thành viên nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho tiến trình vận động gia nhập WTO.


13


Sau khi quốc gia đã nộp đơn xin gia nhập WTO (đơn xin gia nhập WTO
được soạn thảo căn cứ vào thủ tục và trình tự được hướng dẫn chung, theo tài
liệu WT/ACC1 do Ban thư ký soạn thảo) thì quy trình đàm phán sẽ theo hai
bước sau:
 Giai đoạn 1: Minh bạch hoá chính sách.
Trong giai đoạn này có những vấn đề sau:
- Quốc gia xin gia nhập nộp bảng tổng hợp (bị vong lục) về chính sách
thương mại của mình.
- Đại hội đồng (General Council) lập ra một ban công tác cho từng quốc gia.
- Các nước thành viên đặt câu hỏi mà họ quan tâm về nội dung, chính sách
thương mại đã được trình bày trong bảng tổng hợp (bị vong lục) của quốc gia
xin gia nhập WTO.
- Quốc gia xin gia nhập trả lời các câu hỏi trên.
- Sau khi Ban thư ký WTO nhận được số lượng các câu hỏi xác định từ quốc
gia xin gia nhập WTO, thì phiên đầu tiên sẽ diễn ra (thời gian 8 - 10 tuần sau khi
Ban thư ký nhận được các câu hỏi).
- Những phiên đàm phán thuộc giai đoạn đầu (thường từ 2 - 5 phiên) tập
trung để minh bạch chính sách thương mại của quốc gia xin gia nhập WTO.
Hình thức đàm phán là đàm phán đa biên.
 Giai đoạn 2: Là giai đoạn bao gồm những phiên đàm phán song biên giữa
quốc gia xin gia nhập với từng đối tác cụ thể. Đan xen là những phiên đàm phán
đa biên để đưa chính sách thương mại của nước xin gia nhập tiếp cận với các
nguyên tắc và định chế chung của WTO.
Khi các điều kiện đã chín muồi tức là quốc gia đang gia nhập thoả mãn
những điều kiện của các nước tham gia đàm phán chấp thuận thì Chủ tịch Ban
công tác tham vấn với Ban thư ký WTO và đại diện các nước đang tham gia đàm
phán thông qua các văn bản chấp nhận là thành viên chính thức đối với quốc gia

đang gia nhập WTO.

14


2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO
Toàn cầu hoá đang trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Trước xu thế như vũ
bão của toàn cầu hoá, một quốc gia muốn phát triển được phải tham gia vào quá
trình đó. Bởi vì toàn cầu hoá mang lại nhiều lợi ích to lớn cho các quốc gia. Nó
tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, hợp tác các lĩnh
vực khác giữa các quốc gia. Đại diện tiêu biểu nhất và đầy đủ nhất cho xu thế
toàn cầu hoá hiện nay chính là Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam
đã tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới để tận dụng những thuận lợi cho
phát triển kinh tế đất nước. Thực tế đã chứng minh rằng kể từ khi hoà nhập vào
quá trình toàn cầu hoá, Việt Nam đã có nhiều thành công to lớn về kinh tế xã
hội.
2.1.

Cơ hội của Việt Nam khi gia nhập WTO

Khi trở thành thành viên WTO, các Hiệp định của vòng Uruguay có thể đem
lại cho Việt Nam các cơ hội sau:
 Hiện tại thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm 90% khối lượng
thương mại thế giới, việc Việt Nam trở thành thành viên WTO sẽ đẩy mạnh
thương mại và các quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và
đảm bảo nâng dần vai trò quan trọng của Việt Nam trong hệ thống kinh tế và
chính trị toàn cầu.
 Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại và thu
hút đầu tư. Trước khi gia nhập WTO, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối
nhanh nhưng so với các nước trong khu vực thì như vậy là rất nhỏ.

Muốn thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD trở
lên, nhập khẩu phải ở mức tương đương. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn bị
phân biệt đối xử, khi gia nhập WTO những phân biệt đối xử đó mới được dỡ bỏ.
Thí dụ, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép sang châu Âu; vẫn không
được hưởng ưu đãi thuế quan đối với nông sản, nên không bán gạo vào châu Âu
được. Hàn Quốc bảo hộ gạo, có hạn ngạch, gia nhập WTO chúng ta mới được
chia hạn ngạch. Với Hoa Kỳ, không gia nhập WTO chúng ta vẫn bị hạn ngạch
15


dệt may. Nếu gia nhập WTO, chúng ta được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may. Gia nhập
WTO chúng ta mới dỡ bỏ được rào cản, phân biệt đối xử mà chỉ dành riêng cho
các thành viên WTO.
 Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự
đoán thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán WTO
chúng ta có hai loại: đa phương và song phương. Với đa phương yêu cầu đầu
tiên là phải minh bạch hóa chính sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000 câu hỏi liên
quan chính sách kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân hàng. Chính vì vậy mà trong
đoàn đàm phán chính phủ của chúng ta đã phải bao gồm tất cả các bộ, ngành
tham gia để đảm đương được khối lượng công việc lớn, trả lời nhiều vấn đề liên
quan kinh tế, thương mại. Chúng ta phải có chương trình xây dựng pháp luật.
Gia nhập WTO chúng ta phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp
định, các quy định của WTO. Vì vậy, năm 2005 sửa và xây mới 29 luật, năm
2006 sửa và xây mới 10 luật. Việt Nam là nước đầu tiên có hệ thống pháp luật
tương đối hoàn chỉnh để gia nhập WTO.
Ðể đổi mới kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây mới và sửa đổi
100 luật. Như vậy, số văn bản phục vụ đàm phán, gia nhập WTO chỉ bằng 1/4 số
văn bản luật pháp phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh tế. Ðiều đó thể
hiện quyết tâm cao của Chính phủ, Quốc hội Việt Nam tích cực, chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế. Ông Chủ tịch Ban công tác, các thành viên Ban công tác,
kể cả đoàn Hoa Kỳ cũng đánh giá rất cao quyết tâm của Việt Nam trong việc sửa
đổi hệ thống pháp luật trong thời gian trước khi chính thức gia nhập WTO.
Chúng ta thấy các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến tiến trình gia nhập
WTO của Việt Nam. Vì họ cho rằng, nếu Việt Nam gia nhập WTO thì hệ thống
pháp luật sẽ phù hợp sân chơi của thế giới và nó sẽ ổn định. Chính vì điều đó mà
đầu tư nước ngoài năm 2005 tăng hơn rất nhiều so với 2004. Các dự án đầu tư
nước ngoài của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,... nhất là dự án lớn
bắt đầu vào Việt Nam, kể cả công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia có vai
trò rất quan trọng đối với nền kinh tế và thương mại toàn cầu. Theo thống kê của
WTO, trên thế giới có khoảng 70 nghìn công ty đa quốc gia, chiếm 1/3 thương
16


mại toàn cầu. Các nước đều muốn các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước
mình, vì họ có công nghệ, vốn, thị trường toàn cầu. Không phải họ đầu tư vào
một nước là họ vào thị trường nội địa của nước đó, mà họ còn tính cả thị trường
khu vực, toàn cầu. Nơi nào có lợi thế hơn sẽ đầu tư vào và xuất khẩu đi các nước
khác ở khu vực.
 Gia nhập WTO, chúng ta sẽ có điều kiện chủ động tham gia chính sách
thương mại toàn cầu. Xu hướng trong WTO, lần đầu trong hội nghị Hồng Kông
đã đề cập công tác bình đẳng và cân bằng thương mại giữa các thành viên của
WTO. Yêu cầu các nước phát triển mở cửa thị trường hàng nông sản, bỏ trợ cấp
xuất khẩu để tạo cho thương mại toàn cầu phát triển bền vững và tạo điều kiện
cho thương mại phát triển công bằng và không bị bóp méo.
 Gia nhập WTO, những tranh chấp được giải quyết tốt hơn: Xu hướng các
nước là dùng WTO để giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp trong WTO
là dễ thực thi hơn. Thí dụ, một nước A áp thuế chống bán phá giá với một nước
thành viên WTO mà tổng thuế đó tương đương với 100 triệu USD, khi WTO
giải quyết tranh chấp, đi đến quyết định là kiện chống bán phá giá không đúng,

yêu cầu nước kiện kia bỏ đi. Nếu không bỏ, thì nước bị kiện có quyền nâng thuế
nhập khẩu các mặt hàng của nước kia lên tương đương mức 100 triệu USD. Do
vậy, cơ chế đó thực thi trong cuộc sống nhiều hơn, dễ thực hiện hơn là cơ chế
giải quyết tranh chấp qua trọng tài quốc tế và tòa án. Gia nhập WTO không có
nghĩa các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giảm đi. Chúng ta càng tăng xuất khẩu,
thì tranh chấp thương mại sẽ càng tăng. Chỉ có điều mức độ chúng ta sẽ được
giải quyết công bằng hơn. Nếu trước đây, năm 1990 chúng ta đạt kim ngạch xuất
khẩu 2,4 tỷ USD, năm 2005 chỉ trong một tháng, chúng ta đã đạt kim ngạch xuất
khẩu hơn 3 tỷ USD. Khi vào WTO, để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tăng xuất
khẩu, lúc đó chúng ta sẽ đạt đến mức xuất khẩu 100 tỷ USD. Mỗi tháng chúng ta
đạt kim ngạch xuất khẩu gần 10 tỷ USD. Như thế, mức độ chúng ta tham gia thị
trường thế giới càng tăng, thì các tranh chấp quốc tế về thương mại cũng tăng.
Gia nhập WTO không có nghĩa là hết tranh chấp quốc tế về thương mại. Chỉ có
điều chúng ta không bị phân biệt đối xử nữa.
17


Cuối cùng, so với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ
các Hiệp định của vòng Uruguay, vì theo quy định của WTO hàng xuất khẩu
dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường
không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là một nước xuất khẩu nhiều
hàng sơ chế sẽ rất có lợi từ quy định này.
Trước xu thế thời đại là quá trình toàn cầu hoá thì một quốc gia muốn phát
triển cần phải hoà mình vào xu thế đó. Việt Nam gia nhập WTO cũng không
nằm ngoài mục đích đó. Việt Nam vẫn còn đang là một nước nghèo nên vấn đền
phát triển kinh tế là vấn đề sống còn, vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, dân
tộc. Chính vì vậy, việc tham gia WTO là một điều tất yếu phải được thực hiện.
Việt Nam cần phải tận dụng tối đa những cơ hội, những lợi ích do việc gia nhập
WTO đem lại để phát triển đất nước.
2.2.


Thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO

Trước hết, để thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử và áp dụng quy
chế tối huệ quốc đối với nhau, Việt Nam phải cam kết cắt giảm thuế quan và phi
thuế quan đối với các sản phẩm công nghiệp, thực hiện đối xử bình đẳng đối với
các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Điều này đòi hỏi phải loại bỏ
những ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước về quyền kinh doanh trong một số
lĩnh vực, đất đai, tín dụng về xuất nhập khẩu và đối xử bình đẳng đối với các
loại hình doanh nghiệp. Đây chính là một khó khăn cho ngành công nghiệp non
trẻ của Việt Nam trước sự đối đầu với các doanh nghiệp của các nước phát triển
và các nước có lợi thế so sánh cao hơn. Việc đóng cửa các doanh nghiệp không
có năng lực cạnh tranh và một số ngành vốn được bảo hộ trước đây sẽ dẫn đến
sự phá sản của nhiều doanh nghiệp, gây ra những biến động trên thị trường tài
chính, thất nghiệp gia tăng... Những hệ quả về xã hội và tâm lý có thể dẫn tới
những hiệu quả về chính trị không thể xem nhẹ.
Thứ hai là tác động của việc tự do hoá thương mại. Việc tự do hoá thương
mại và cắt giảm thuế quan không chỉ tác động đến công cụ truyền thống nhằm
bảo hộ thị trường trong nước của Việt Nam mà còn giảm thu ngân sách quốc gia.
Nếu không chủ động phân tích tình hình và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
18


nước theo hướng giảm tỷ trọng những ngành đáp ứng nhu cầu thị trường nội
phẩm thì chúng ta sẽ mất dần thị trường nội địa và giảm sút kim ngạch xuất
khẩu dẫn tới hậu quả thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt cán cân thanh toán
quốc tế và mất ổn định trên tầm vĩ mô.
Thứ ba là nguyên tắc công khai minh bạch đòi hỏi phải thực hiện mọi biện
pháp bảo hộ thông qua thuế quan, từ bỏ rào cản phi thuế quan và các hạn chế
định lượng, công bố công khai và đơn giản thủ tục nhập khẩu, hải quan, vệ sinh

kiểm dịch, các chuẩn mực phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt trong lĩnh
vực chuyên môn có trí tuệ cao như: bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, bảo
hiểm, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn, quản lý và pháp luật... thì việc tham gia
WTO sẽ là một thách thức đối với Việt Nam. Bởi vì năng lực cạnh tranh của Việt
Nam trong những ngành này còn thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới. Nâng
cao khả năng cạnh tranh trong những ngành này đòi hỏi chúng ta không chỉ giải
quyết vấn đề công nghệ mà trước hết là đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ
cán bộ trong nước. Điều này không dễ một sớm một chiều có thể đáp ứng được.
Cuối cùng là sự hạn chế lựa chọn chính sách. Bởi vì khi gia nhập WTO các
quốc gia thành viên sẽ phải làm theo những nguyên tắc của WTO và các cam kết
cố định trong Nghị định thư gia nhập. Các quốc gia không thể chủ động tuỳ tiện
trong hoạch định và điều hành chính sách mà phải xét đến nhiều nhân tố hơn
theo quy định về nghĩa vụ của mỗi thành viên WTO.
 Khi gia nhập WTO Việt Nam gặp rất nhiều thách thức, nhưng nếu chúng ta
biết vượt lên chúng ta sẽ phát triển.
Khi gia nhập WTO chúng ta có rất nhiều thời cơ, cũng có rất nhiều thách
thức. Cơ hội đó có hay không phải do chính sách, do các doanh nghiệp. Nói mở
thị trường hay không thì toàn bộ doanh nghiệp không sản xuất hàng xuất khẩu
thì cũng vô nghĩa. Bây giờ nói mở ra để thu hút đầu tư nhưng toàn bộ doanh
nghiệp, các địa phương, không thu hút đầu tư thì chúng ta cũng không đạt. Gia
nhập WTO để chúng ta phát triển, nhưng không có nghĩa bản thân việc gia nhập
WTO là chúng ta giàu có lên, hay chúng ta nghèo đi, mà đó là một cơ hội.
Chúng ta tranh thủ được cơ hội đó, thì chúng ta giàu có. Chúng ta vượt qua được
19


thách thức thì chúng ta tạo được cơ hội mới. Ðó là một thực tế. Nếu tranh thủ
được thời cơ này, và chấp nhận để vượt qua thách thức này, chúng ta sẽ đưa nền
kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn, nhưng cũng đòi hỏi sự cố gắng của tất cả
các bộ, ngành, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh

nghiệp Việt Nam để chúng ta mạnh lên và phát triển nhanh hơn.
3. Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO
1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc
gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ
Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc).
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”.
1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ
(BTA).
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh
bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999 và 112000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ
bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm
phán mở cửa thị trường.
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ.
12-2001: BTA có hiệu lực.
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam
đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán
song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm
phán với 2 mốc quan trọng:
10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng
trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác
chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã
có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
20


7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva
để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. Ngày 7/11/2006, Bộ trưởng Thương

mại Trương Đình Tuyển và Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) Pascal Lamy đã ký vào Nghị định thư gia nhập của Việt Nam kết thúc 11
năm tiến hành hàng loạt các cuộc đàm phán song phương, đa phương và tham
vấn kể từ khi đệ đơn gia nhập vào năm 1995.
11-1-2007: WTO nhận được quyết định phê chuẩn chính thức của Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam. Kể từ đây, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của
WTO.
4. Một số cam kết chính của Việt Nam khi gia nhập WTO
Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng
buộc của WTO từ thời điểm gia nhập và Việt Nam đã nghiêm túc thực thi đầy đủ
các cam kết gia nhập và các nghĩa vụ chung trong WTO, với một số cam kết
chính như sau:
Về vấn đề giảm thuế quan: Việt Nam cam kết sửa đổi 99,3% dòng thuế, các
loại phí và lệ phí giảm dần và tiến tới gần như bằng 0. Cam kết ràng buộc toàn
bộ biểu thuế nhập khẩu hiện hành (10.600 dòng thuế) với mức cam kết bình
quân vào thời điểm gia nhập là 17, 4% và mức thuế suất bình quân cuối cùng là
13, 4%, lộ trình thực hiện từ 5 - 7 năm; cam kết trung bình 20,9% đối với sản
phẩm nông nghiệp và 12,6% đối với sản phẩm công nghiệp (cuối lộ trình thực
thi). Những ngành có mức thuế giảm nhiều nhất là dệt may, cá và sản phẩm cá,
gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện – điện tử. Các mặt hàng
trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu
xây dựng, ô tô – xe máy…vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Về mở cửa thị trường dịch vụ: Cam kết mở cửa đủ 11 ngành dịch vụ theo
phân loại trong WTO, với khoảng 110 phân ngành. Đối với dịch vụ hỗ trợ khai
thác dầu khí, các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn
nước ngoài sau 5 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO để cung ứng các dịch
vụ hỗ trợ cho khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn giữ quyền quản lý các
hoạt động trên biển, thềm lục địa và có quyền chỉ định công ty thăm dò, khai
21



thác tài nguyên. Việt Nam cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành
riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang
thiết bị và vật phẩm cho giàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào Việt Nam
cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (hiện nay Việt Nam chưa có chế độ đăng ký này). Dịch vụ viễn thông,
Việt Nam cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch
vụ viễn thông nhưng không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng của các
doanh nghiệp do Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng có giới hạn việc
cung cấp dịch vụ qua biên giới. Với dịch vụ có gắn với hạ tầng mạng, ta vẫn giữ
được mức cam kết như BTA. Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA.
Trước hết, thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
như BTA (1-1-2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường
phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách, báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo,
đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép,
phân bón, xi măng… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Ta hạn chế khá chặt
khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (mở từ
điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể).
Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang với BTA. Tuy nhiên, ta
đồng ý cho thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi gia
nhập. Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn
nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngân hàng nước ngoài được thành
lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh
phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ thể
nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO và hạn chế về mức
mua cổ phần của ngân hàng nước ngoài trong Ngân hàng Việt Nam (không quá
30%). Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100%
vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Các cam kết
khác, với các ngành còn lại (du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận
tải…), mức độ cam kết về cơ bản không khác so với BTA. Ngoài ra không mở

cửa dịch vụ in ấn - xuất bản.
22


Về tự do hóa đầu tư: Tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định về các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) ngay sau khi gia nhập, theo
đó, ta sẽ bãi bỏ các biện pháp ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài như
mức thuế nhập khẩu ưu đãi và các quy định về tỷ lệ nội địa hóa, tỷ lệ xuất khẩu
bắt buộc v.v. .
Về quyền sở hữu trí tuệ: Thực hiện đầy đủ các quy định của Hiệp định Sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS) ngay từ khi ngày gia nhập. Cụ thể
là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ nhằm
đảm bảo sự phù hợp với những điều ước quốc tế trong lĩnh vực này.
Về thể chế: Việt nam đã có nhiều biện pháp tích cực để cải cách thể chế kinh
tế, chính sách thương mại theo hướng ngày càng phù hợp hơn với luật lệ của
WTO. Việt Nam đã thể hiện quyết tâm hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế
khu vực và kinh tế thế giới để trở thành một nền kinh tế năng động. Tính đến hết
năm 2017, chúng ta đã là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với
hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Kể từ khi gia nhập WTO (2007)
Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài, kéo
theo kết quả là tỷ lệ đói nghèo đã giảm đáng kể.
Về vấn đề trợ cấp: kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện tốt các
cam kết với WTO và cam kết trong khu vực trong việc hỗ trợ trong nước và trợ
cấp xuất khẩu, chúng ta cam kết duy trì ở mức cho phép của WTO (đối với các
nước đang phát triển).
5. Đánh giá nền kinh tế Việt Nam sau 11 năm gia nhập WTO
5.1.

Những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau khi gia nhập WTO


Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản để đánh
giá thành tựu phát triển của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
Khủng hoảng tài chính, nợ công khiến cho nền kinh tế toàn cầu bị ảnh
hưởng, nhưng không cản được sự vươn lên mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực và quan trọng, thể

23


×