Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quản lý tài chính công Lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách, đánh giá và thực trạng tại VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.23 KB, 18 trang )

DANH SÁCH NHÓM

STT

Họ và tên

Nhiệm vụ

Ghi chú

Điểm

1

Nguyễn Khánh Ngọc

Tổng hợp, chỉnh sửa
word + slide

Nhóm Trưởng

9

2

Phạm Thị Lương

Làm slide

Kỹ thuật


9

3

Bùi Thái Hoàng

Thuyết trình

Thuyết trình

9

4

Trần Thị Kiều Trang

Liên hệ thực tiễn

Thành viên

9

5

Vũ Huy Hoài

Liên hệ thực tiễn

Thành viên


9

6

Tạ Thu Hà

Biện pháp tài trợ phù
hợp theo lý thuyết

Thành viên

9

7

Lê Thị Ngọc

Đánh giá lý thuyết

Thành viên

9

8

Nguyễn Thị Hạnh

Thành viên

9


9

Nguyễn Thị Nguyệt Ánh

Thành viên

9

10

Trần Thế Du

Nội dung lý thuyết

Thành viên

9

11

Tô Thanh Hà

Các khái niệm

Thành viên

9

12


Kookkik Sittaphone

Nội dung lý thuyết

Thành viên

9

Đặc điểm của cân
bằng ngân sách
Vai trò của cân bằng
ngân sách

(Nhóm trưởng đánh giá điểm dựa trên tinh thần làm việc của các thành viên)

1


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................2
1. Một số khái niệm cơ bản................................................................................2
2. Đặc điểm của cân bằng ngân sách................................................................3
3. Vai trò của cân bằng ngân sách....................................................................4
4. Nội dung lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách......................................6
5. Đánh giá lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách......................................9
5.1. Ưu điểm của lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách.........................9
5.2. Nhược điểm của lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách...................9

6. Biện pháp tài trợ phù hợp theo lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
10
6.1. Giảm chi tiêu công.................................................................................10
6.2. Vay nợ......................................................................................................11
7. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam....................................................................12
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................17

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, vai trò quản lý và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế - xã hội của nhà nước được đề cao hơn bao giờ hết. Để đảm bảo vai
trò này, nhà nước phải nắm bắt các công cụ tài chính – tiền tệ, trong đó cân bằng
ngân sách nhà nước được xem là một trong những công cụ sắc bén để nhà nước can
thiệp toàn diện vào nền kinh tế.
Vấn đề về cân đối ngân sách nhà nước rất quan trọng và cần được quan tâm
đúng mực. Trên thực tế Việt Nam trong thời gian vừa qua, ngân sách nhà nước
không ổn định và mất cân đối đã kéo theo những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự
phát triển của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nảy sinh.
Trong quá khứ và cho đến hiện tại đã có nhiều học thuyết bàn luận về cân bằng
ngân sách nhà nước, và lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách là một trong những
lý thuyết ra đời đầu tiên.
Tìm hiểu rõ hơn nội dung lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách, ưu, nhược
điểm của lý thuyết cũng như đưa ra biện pháp tài trợ thích hợp trên cơ sở quan
điểm của lý thuyết ấy, nhóm chúng em đã chọn nghiên cứu chủ đề “Lý thuyết cổ
điển về thăng bằng ngân sách”.

1



PHẦN NỘI DUNG
1. Một số khái niệm cơ bản
Luật ngân sách nhà nước năm 2015 định nghĩa: Ngân sách nhà nước là toàn bộ
các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời
gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên thực tế, quá trình thu, chi ngân sách nhà nước luôn ở trong trạng thái biến
đổi không ngừng và có sự chuyển hóa theo chu kì kinh tế. Thu, chi ngân sách nhà
nước có cân bằng hay không cần phải xem xét trong mối quan hệ giữa tài chính và
kinh tế. Bởi lẽ, ngân sách nhà nước gắn kết chặt chẽ với các khâu của quá trình tái
sản xuất xã hội. Nền kinh tế có phát triển sản xuất thì nhà nước mới huy động được
nguồn thu. Thu là tiền đề giới hạn chi, tức là có thu mới có chi. Ngược lại, hiệu quả
chi tiêu sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và
gia tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Mức giới hạn về quy mô GDP, tốc độ tăng
trưởng kinh tế sẽ là giới hạn lượng cung về thu và lượng cầu về chi ngân sách nhà
nước. Cân đối ngân sách nhà nước là yêu cầu khách quan đối với phân bổ và điều
hóa thu, chi ngân sách nhà nước trong sự vận động của nguồn lực tài chính, cũng là
quá trình kinh tế do nhà nước vận dụng các biện pháp điều tiết tài chính để tiến
hành kiểm soát và điều hòa sự phân phối nguồn lực tài chính xã hội.
Cân bằng ngân sách nhà nước (hay cân đối ngân sách nhà nước) là cân bằng
giữa các nguồn thu mà nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước
trong một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước trong năm đó.
Về bản chất, cân bằng ngân sách nhà nước là cân bằng giữa nguồn lực tài chính
mà nhà nước huy động và tập trung được vào quỹ ngân sách nhà nước trong một
năm, với nguồn lực được phân phối, sử dụng để thỏa mãn nhu cầu của nhà nước
2



cũng trong năm đó. Theo nghĩa đó, xét trên tổng thể, cân bằng ngân sách nhà nước
phản ánh mối tương quan giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong một tài khóa.
Nó không chỉ bao gồm tương quan chặt chẽ giữa tổng thu và tổng chi mà còn ở sự
hài hòa, hợp lý trong cơ cấu giữa các khoản thu và các khoản chi ngân sách nhà
nước. Qua đó thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô cũng
như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Xét trên phương diện phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước, cân bằng ngân sách nhà nước là cân bằng về phân bổ và
chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách để qua đó các cấp chính quyền thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
 Cân bằng ngân sách nhà nước là một trong những cân bằng vĩ mô quan trọng
của nền kinh tế quốc dân, phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân
sách. Nó là một bộ phận của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan
hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh
tế - xã hội mà nhà nước đã đề ra ở tầm vĩ mô.
2. Đặc điểm của cân bằng ngân sách
Cân bằng ngân sách nhà nước có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, cân bằng ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa
thu và chi ngân sách nhà nước trong năm nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nó
vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước, vừa bị ảnh hưởng bởi
những chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Thứ hai, cân bằng ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa
các khoản thu và khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các
cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân
sách nhà nước, đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Cân bằng thu chi
ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt được mức tuyệt đối được vì
hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến động, Nhà nước phải điều chỉnh hoạt động
3



thu, chi cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu hợp lý để đảm bảo sự ổn
định về kinh tế – xã hội giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân
bằng mà rơi vào tình trạng bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn
định ngân sách nhà nước.
Thứ ba, cân bằng ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tiên liệu. Trong
quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu,
chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng
khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt
động chi. Từ đó làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân
sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự toán được các khoản thu, chi ngân sách
một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
3. Vai trò của cân bằng ngân sách
Cân bằng ngân sách nhà nước là một trong các công cụ để can thiệp vào hoạt
động kinh tế xã hội. Vì thế trong nền kinh tế thị trường, cân bằng ngân sách nhà
nước đặc biệt quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Cân bằng ngân sách nhà nước giúp phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính hiệu
quả.
Cân bằng ngân sách nhà nước góp phần phân bổ sử dụng nguồn lực có hiệu quả.
Ngược lại, phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính hiệu quả giúp cho cân đối ngân
sách nhà nước kỳ sau thuận lợi hơn.
Cân bằng ngân sách nhà nước có thể góp phần phân bổ và sử dụng các nguồn
lực hiệu quả ngay từ khi lập dự đoán ngân sách nhà nước bằng cách lựa chọn trình
tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt chẽ giữa
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách.
4


Trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, nếu cân đối ngân sách nhà nước
đảm bảo phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa trung ương với các địa phương
hợp lý thì sẽ đảm bảo thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả

nước nói chung và các địa phương nói riêng. Ngoài kiểm soát tốt tình hình thu - chi
ngân sách nhà nước, có những giải pháp tốt để xử lý tình trạng mất cân đối tạm thời
trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước cũng là những khía cạnh thể hiện
được vai trò phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả của cân đối ngân sách nhà
nước.
Cân bằng ngân sách nhà nước giúp điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển
kinh tế.
Thông qua hoạt động chi ngân sách, nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho
cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên
cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động
nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định
hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Cân bằng ngân sách nhà nước góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc
biệt như chi để trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt
hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc
làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá thị trường hàng hóa:
nhà nước điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chiến
lược.

5


Tóm lại, thực hiện chính sách cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách
thuế, chính sách chi tiêu và quyết định mức bội chi ngân sách nhà nước hàng năm
sẽ tác động đến tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư cũng như cán cân thương mại
quốc tế. Từ đó, góp phần thực hiện các mục tiêu vĩ mô như: Tăng trưởng GDP thực
ở tốc độ ổn định, tỉ lệ thất nghiệp được giữ ở mức tự nhiên, lạm phát duy trì ở mức

vừa phải và dự đoán được và ổn định cán cân thương mại chủ động trong quản lý
nợ nước ngoài và hạn chế những áp lực của phần còn lại của thế giới lên hoạt động
xuất khẩu quốc gia.
4. Nội dung lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
Thế kỷ 20, đặc biệt sau cuộc chiến tranh Thế giới thứ nhất, vai trò của nhà nước
có nhiều thay đổi phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội: Nền kinh tế vận hành theo
cơ chế thị trường có sự can thiệp của nhà nước, hệ thống tiền tệ khi đó không ổn
định và nền kinh tế phát triển theo xu hướng quốc tế hóa. Trong bối cảnh đó, ngân
sách nhà nước không những là công cụ để nhà nước huy động các nguồn lực của xã
hội nhằm tài trợ mọi nhu cầu chi tiêu của nhà nước mà còn là công cụ để nhà nước
can thiệp vào các hoạt động kinh tế xã hội.
Theo quan điểm cổ điển, nhà nước chỉ nên thực hiện các hoạt động như cảnh
sát, đối ngoại, tư pháp và quốc phòng còn những hoạt động khác thì nên để khu vực
tư nhân đảm nhận. Nhất là trong hoạt động kinh tế nhà nước không nên can thiệp
mà phải để cho quy luật thị trường, sự tự do cạnh tranh và sáng kiến tư nhân chi
phối. Theo quan điểm đó thì nhà nước là bộ máy ăn bám, không có đóng góp gì vào
việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Do vậy ngân sách nhà nước chỉ là công cụ
cung cấp những nguồn tài chính cần thiết nhằm tài trợ những chi phí cho hoạt động
hành chính, tư pháp, quốc phòng. Nhà nước cũng chỉ cần huy động đủ nguồn lực
cho những nhu cầu chi tiêu hạn hẹp đó của mình mà thôi. Để thu hẹp ảnh hưởng
của ngân sách nhà nước người ta đã cắt giảm tới mức tối thiểu các khoản chi của
ngân sách nhà nước, không để chúng vượt qua các khoản thu của ngân sách nhà
6


nước. Trong bối cảnh đó, cân đối ngân sách nhà nước cần tuân thủ triệt để nguyên
tắc tổng thu bằng tổng chi ngân sách nhà nước mỗi năm.
Nguyên tổng thống Pháp, Ông G.Doumergue trong bài diễn văn đọc năm 1934
đã tóm tắt lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách nhà nước như sau: ''Người đàn
bà nội trợ đi chợ không được tiêu quá số tiền có trong túi. Nhà nước cũng trong

tình trạng y hệt không được chi tiêu quá số thu''.
Quan điểm này bao gồm 2 nguyên tắc: Nhà nước chỉ được phép chi tiêu trong
phạm vi số thu và chỉ được khai thác nguồn thu thuế để trang trải chi tiêu, số thu
cũng không được lớn hơn số chi của ngân sách nhà nước.
Trước hết tổng số chi không được quá tổng số thu. Nếu chi vượt quá số thu, Nhà
nước phải tìm ra tiền đề thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu. Nhưng vì các khoản thu
không đủ bù đắp các khoản chi, nên phải vay nợ ngắn hạn. Điều này xảy ra thì ngân
sách của năm nay và những năm sau có nguồn thu mới để bù đắp thâm hụt. Tuy
nhiên, hoàn trả tiền vay hay không phụ thuộc rất nhiều vào thực trạng của nền kinh
tế.
Trong trường hợp ngân sách bị chi ngân lớn và kéo dài, thường là nhà nước phải
phá giá đơn vị tiền tệ. Sử dụng giải pháp này, Nhà nước sẽ chiếm số lãi do phá giá
tiền mang lại và trang trải được hết hay một phần nào đó của số nợ. Nhưng một sự
phá giá lớn đơn vị tiền tệ sẽ gây ra mức lạm phát nguy hại cho nền kinh tế.
Mặt khác, tổng số thu ngân sách cũng không được lớn hơn tổng số chi ngân
sách. Khi số thu lớn hơn số chi sẽ gây hại cho đất nước trên cả hai phương diện
Kinh tế và Chính trị.
Về phương diện kinh tế, khi số thu lớn hơn số chi và giả sử không mang ra chi
tiêu, tức là để dành. Số tiền này không sinh lời, nền kinh tế sẽ mất một phần lợi tức,
một số sản phẩm tạo ra không bán được, một số doanh nghiệp thu hẹp hoặc ngừng
hoạt động, nền kinh tế có thể bị đình trệ.
7


Về phương diện chính trị, khi số thu lớn hơn số chi, xu hướng là số thu trội sẽ bị
chi tiêu hết, mà nhiều khi còn vượt quá. Hơn nữa, còn có thể dẫn đến tâm lý quản
lý ngân sách nhà nước một cách dễ dãi gây ra sự lãng phí và bất bình của xã hội đối
với Nhà nước.
Nội dung thăng bằng ngân sách được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tổng số các khoản thu vào ngang với tổng số các khoản chi ra.

Thứ hai, một ngân sách thăng bằng không được dùng đến công trái, trừ phi phải
xuất tiền ra để thực hiện những nhiệm vụ to lớn của đất nước.
Tất cả các khoản chi tiêu thường xuyên của Nhà nước phải do thuế tài trợ. Lý
thuyết cổ điển cho là không chính đáng khi Nhà nước đứng lên vay để chi thường
xuyên. Vay ngắn hạn chỉ chính đáng khi nào ngân sách Nhà nước cần tiền mặt và
trong thời gian ngắn có thể hoàn trả một cách chắc chắn.
Công trái chỉ có ý nghĩa về phương diện kinh tế khi được đem dùng để tài trợ
cho sản xuất, chế tạo ra sản phẩm mới. Vậy nhà nước có thể vay tiền dài hạn để đầu
tư. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Nhà nước có thể vay nợ để chi tiêu cho quốc
phòng, vì đó là vấn đề sống còn của cả đất nước.
Như vậy, theo quan điểm này ngân sách nhà nước phải cân bằng tuyệt đối, bội
thu hay bội chi ngân sách nhà nước đều là biểu hiện của sự lãng phí nguồn lực của
nhân dân. Bên cạnh đó, thuyết cổ điển về sự cân đối ngân sách nhà nước cũng cho
rằng ngân sách nhà nước phải cân bằng cả khi lập kế hoạch và trong quá trình thực
hiện. Nếu ngân sách nhà nước chỉ cân bằng khi lập kế hoạch còn trong quá trình
thực hiện lại không cân bằng được thì không thể coi là cân bằng thực sự. Sự cân
bằng ngân sách phải có thực nghĩa là ngân sách sau khi thi hành sẽ thăng bằng.
Phải cố tránh những ngân sách chỉ cân bằng trên giấy tờ chưa được đem thi hành.
Phải chờ thi hành xong mới biết được ngân sách có thăng bằng hay không.
8


5. Đánh giá lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
5.1. Ưu điểm của lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
Ở thế kỷ 19, ngân sách nhà nước chiếm một tỉ trọng rất nhỏ so với tổng sản
phẩm trong nước. Vì vậy mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước và chu kỳ nền kinh
tế còn chưa chặt chẽ. Lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách tỏ ra thích ứng với
thời kỳ này.
Việc áp dụng lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách đảm bảo cho nhà nước
không dùng ngân sách chi tiêu vào những việc không cần thiết, tránh tình trạng

lãng phí nguồn lực và tránh nảy sinh sự bất bình của xã hội đối với Nhà nước.
5.2.

Nhược điểm của lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách

Cân bằng thu chi ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt được
mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến động, Nhà nước phải
điều chỉnh hoạt động thu, chi cho phù hợp. Chính vì vậy, lý thuyết này có nhiều hạn
chế, và rõ ràng không thể ứng dụng trong hoàn cảnh hiện nay.
Thứ nhất, theo lý thuyết này, nguồn ngân sách nhà nước chưa được đánh giá
đúng mức về tầm quan trọng, chỉ đủ để thực hiện các công việc như thực hiện
những hoạt động như cảnh sát, tư pháp, đối ngoại và quốc phòng, hầu như không
can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Do đó, nền kinh tế sẽ dễ bị lũng đoạn bởi các
tập đoàn, các ông chủ kinh doanh, dẫn đến sự không ổn định, mất cân đối về tầm vĩ
mô. Nhà nước chỉ là những “kẻ ăn bám” hay là tay sai của các thế lực nắm giữ kinh
tế quốc gia.
Thứ hai, ngân sách nhà nước cũng như các khía cạnh khác, không thể nào có
được tình trạng cân bằng tuyệt đối, nếu cứ vin vào luận điểm ấy, thì việc chi tiêu
của chính phủ, sử dụng ngân sách nhà nước sẽ bị gò bó, dồn ép, thiếu linh hoạt.
Hơn nữa, với điệu kiện hiện thời, đôi khi tình trạng mất cân bằng ngân sách nhà
nước lại có tính tích cực. Ví dụ bội chi để gia tăng nhu cầu tiêu dùng hoặc đầu tư
9


trực tiếp để kích thích và làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh, qua đó thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng mạnh và bền vững. Lúc này bội chi có tác dụng đưa nền kinh tế
vào một vòng xoáy.
Nói chung, lý thuyết này chủ yếu mới chỉ đưa ra quan điểm cân đối chứ chưa
mổ xẻ các nội dung quan trọng của cân bằng ngân sách nhà nước và sự ứng dụng
vào mỗi nền kinh tế.

6. Biện pháp tài trợ phù hợp theo lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
Theo như học thuyết này, chính phủ nên giảm chi tiêu công và vay nợ.
6.1.

Giảm chi tiêu công

Giảm chi tiêu công nghĩa là cắt hoặc giảm các khoản chi kém hiệu quá hoặc
chưa thật sự cần thiết, triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công.
Ưu điểm:
+ Phù hợp cho cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn;
+ Dễ dàng thực hiện vì nằm trong quyền quyết định của chính phủ;
+ Không tạo gánh nặng nợ cho quốc gia.
Hạn chế:
+ Có giới hạn, không thể giảm chi quá nhiều;
+ Dễ gây ra sự phản ứng tiêu cực từ công chúng.
6.2.

Vay nợ

Chính phủ có thể vay trong nước: bằng việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho
bạc nhà nước, trái phiếu đầu tư.
Ưu điểm:
10


+ Duy trì việc giảm thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc
giảm dự trữ quốc tế.
+ Tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư; tránh được nguy cơ
khủng hoảng nợ nước ngoài; dễ triển khai.
Hạn chế:

+ Chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của nền kinh tế.
+ Việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho chính phủ (trừ khi những
thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt nguồn từ việc chi tiêu cho các dự án đầu tư có
sức sinh lời).
Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái
phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công
trình.
Bên cạnh đó, chính phủ có thể vay nợ nước ngoài: thực hiện vay từ chính phủ
các nước, các tổ chức tài chính quốc tế hoặc phát hành trái phiếu quốc tế.
Ưu điểm:
+ Không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế;
+ Nguồn vốn với quy mô lớn, lãi suất ưu đãi.
Hạn chế:
+ Gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính
phủ.
+ Dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài; có thể phải
nhượng bộ trước những yêu cầu từ phía nhà tài trợ.
11


Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên
chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực
hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là
nguồn vốn phát triển chính thức ODA (Official Development Assistance – nguồn
vốn vay ưu đãi từ nước ngoài).
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng...
7. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam
Dựa vào cơ sở lý thuyết cổ điển về sự thăng bằng ngân sách và những điều kiện

nội tại của đất nước, nhà nước ta đã vận dụng một cách khéo léo từ một nước có số
bội chi từng rơi vào giai đoạn đỉnh điểm nay đã có thể điều chỉnh ở ngưỡng thấp có
thể chấp nhận được. Có thể thấy năm 2017 vừa qua ngân sách nhà nước đã tương
đối ổn định, không có nhiều biến động, bội chi ở mức thấp.
Theo đó, cùng với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, để thực hiện mục tiêu cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công, đảm bảo an
toàn, an ninh tài chính quốc gia theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính
phủ, ngành Tài chính đã và đang rà soát kiến nghị điều chỉnh chính sách thu theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, trong điều kiện
hội nhập ngày càng sâu rộng; tăng cường quản lý thu nhất là đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh cá thể lớn, chống chuyển giá, buôn lậu, gian
lận thương mại. “Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các chính quyền địa
phương, với sự đồng hành của doanh nghiệp, nên đến nay có thể báo cáo dự kiến
hoàn thành vượt dự toán thu ngân sách nhà nước 5%, cao hơn số đã báo cáo Quốc
hội trong kỳ họp 4 vừa qua là 2,3%”, Bộ trưởng bộ Tài chính cho biết.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, số vượt thu chủ yếu từ tiền sử dụng đất. Thu từ khu
vực FDI và khu vực ngoài quốc doanh tuy có mức tăng trưởng khá so với năm
12


2016 nhưng vẫn không đạt dự toán do dự toán tính ở mức quá cao (dự toán tăng
23,4% và 23,8% so với năm 2016).
Trong khi đó, thu ngân sách trung ương, dù có nhiều khó khăn nhưng đến nay
cơ bản đã đảm bảo nhiệm vụ cân đối ngân sách trung ương, bội chi ngân sách nhà
nước giảm 4.000 tỷ đồng so với dự toán và ước bằng 3,48% GDP thực hiện. Thu
ngân sách địa phương vượt 12,9% dự toán, tương đương 60.000 tỷ đồng, dù vậy cá
biệt vẫn còn một số địa phương thu thấp, khó khăn trong cân đối ngân sách địa
phương. Để xử lý thanh khoản, đảm bảo chi trả tiền lương và chế độ chính sách cho
con người trong năm 2017, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ xử lý ứng nguồn
ngân sách trung ương cho một số địa phương.

Về chi ngân sách nhà nước, cơ cấu chi được cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng
chi đầu tư, giảm tỷ trọng chi thường xuyên, tăng cường vận dụng các nguyên tắc thị
trường trong quản lý chi tiêu như là khoán chi phí, khoán xe công, từng bước tính
đúng tính đủ chi phí vào giá dịch vụ sự nghiệp công, trên cơ sở đó cơ cấu lại ngân
sách nhà nước trong từng ngành, từng lĩnh vực. Tuy nhiên, khởi đầu của việc cơ
cấu lại ngân sách nhà nước chính là từ các bộ ngành, địa phương gắn với việc cơ
cấu lại bố trí chi đầu tư, chi thường xuyên, cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công
lập, sắp xếp lại tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế theo các Nghị quyết của Trung
ương và Quốc hội. “Vì vậy, chúng tôi rất mong sự ủng hộ và vào cuộc thực sự của
các bộ, ngành, địa phương”, Bộ trưởng đề nghị.
Đối với nợ công, lãnh đạo Bộ Tài chính cho biết thông qua các biện pháp tái cơ
cấu, kỳ hạn nợ đã được kéo dài. Kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP)
bình quân trong nước năm 2017 là 12,7 năm, so với năm 2016 là 8,7 năm. Kỳ hạn
danh mục TPCP cuối năm 2017 là 6,7 năm so với 5,98 năm cuối năm 2016. Cùng
với đó, lãi suất giảm, cơ cấu nợ trong nước và nước ngoài đảo ngược từ mức 39 –
61 năm 2011, thành 60 – 40 năm 2016 (vay nước ngoài xuống còn 40%). Nhà đầu
13


tư cũng được đa dạng hoá, tỷ lệ trái phiếu ngân hàng thương mại nắm giữ giảm từ
78% năm 2016 xuống còn 54% năm 2017.
Với diễn biến này, tình hình nợ công đã bớt áp lực hơn nhiều so với các năm
trước. Do đó, Bộ trưởng cho rằng đây là thời điểm cần tập trung quản lý để nâng
cao hiệu quả của việc sử dụng và huy động các khoản vay nợ. “Lúc này chúng ta có
đủ bản lĩnh và điều kiện để từ chối các khoản vay lãi suất cao, hiệu quả thấp. Vì
vậy, qua hội nghị này, chúng tôi đề nghị các bộ ngành địa phương thận trọng hơn
khi đề xuất vay, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn, đẩy nhanh tiến độ triển khai
nhằm giảm thiểu chi phí vay”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Để tiếp tục cân đối ngân sách và vấn đề vay nợ công, Bộ trưởng bộ tài chính đề
nghị thực hiện chi tiêu trong khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và dự toán

được giao, các địa phương chỉ vay trong phạm vi dự toán, phù hợp khả năng trả nợ
trong giới hạn quy định. Tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả vốn vay, tạo chuyển
biến căn bản trong quản lý và sử dụng nợ công kể từ năm 2018.

14


PHẦN KẾT LUẬN
Cân bằng ngân sách nhà nước là một trong những cân bằng vĩ mô quan trọng
của nền kinh tế, đó là một bộ phận của chính sách tài khóa, phản ánh mối quan hệ
giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội mà
Nhà nước đề ra ở tầm vĩ mô cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Vì vậy
cân đối ngân sách nhà nước phải thiết lập mối tương quan giữa tổng thu và tổng chi
và cân đối chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước,
kiểm tra tình trạng cân đối ngân sách nhà nước.
Đối với Việt nam, thời gian qua Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc cải
cách thể chế, đổi mới chính sách cân đối thu, chi ngân sách để góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển nhanh, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền
kinh tế vững chắc bước vào kỉ nguyên mới – kỉ nguyên hội nhập và toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, cân bằng ngân sách nhà nước là một vấn đề phức tạp, liên quan đến cả
khía cạnh thể chế và kỹ thuật quản lý. Vì vậy, trong bối cảnh nền kinh tế đang
chuyển đổi và hội nhập nhanh, nhận thức về cân đối ngân sách nhà nước cũng như
sử dụng công cụ này ở Việt Nam còn nhiều bất cập, làm giảm đi hiệu quả quản lý
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của Nhà nước.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Trần Văn Giao, Giáo trình Quản lý tài chính công, Học viện hành

chính Quốc gia, Hà Nội năm 2015.
2.

/>
16



×