Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TÌNH HÌNH CƠ BẢN VỀ TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.08 KB, 26 trang )

TÌNH HÌNH CƠ BẢN VỀ TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG NSNN TỈNH HÀ GIANG
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH HÀ GIANG.
1. Về điều kiện tự nhiên.
* Vị trí địa lý: Hà Giang là tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nằm ở vị
trí từ 21
0
23' đến 22
0
10' vĩ bắc và 104
0
25' đến 105
0
34' kinh đông, cách thủ đô Hà
Nội trên 320 km.
Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đường biên giáp Trung
Quốc dài trên 270 km.
Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái,
phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang.
Hà Giang có 10 huyện, thị: Bắc Giang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Hoàng Su Phì,
Xí Mần, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và thị xã Hà Giang.
* Địa hình:
- Hà Giang có địa hình núi cao chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, nhiều dãy núi
đá có độ cao trên 2000m, tạo nên nhiều tiểu vùng với các điều kiện về địa hình,
khí hậu, đất đai, nguồn nước và dân cư khác biệt, độc đáo, có điều kiện thuận lợi
để phát triển kinh tế đa dạng theo cơ cấu nông - lâm - công nghiệp với nhiều sản
phẩm phong phú, có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp để phát triển du lịch, dã
ngoại...
- Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên còn không ít khó khăn do địa
hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, nhiều dãy núi đá nên không ít khó khăn trong phát
triển sản xuất nông nghiệp đặc biệt ở các huyện vùng cao.


* Đất đai:
Tổng diện tích tự nhiên là: 788.437 ha (7884,37 km
2
).
Trong đó:
- Đất nông nghiệp : 106.425,113 ha
+ Đất trồng cây hàng năm : 39.817,77 ha
Đất ruộng lúa, mầu : 28.372,09 ha
Đất nương rẫy : 52.192,03 ha
Đất cây hàng năm khác : 9.353,65 ha
+ Đất vườn tạp : 4.908,20 ha
+ Đất dùng vào chăn nuôi : 1.140,45 ha
+ Đất cây lâu năm : 9.874,87 ha
+ Đất có mặt nước nuôi thuỷ sản : 683,75 ha
- Đất nông nghiệp : 279.450,7 ha
+ Đất có rừng tự nhiên : 229.587,96 ha
Đất có rừng sản xuất : 34.071,03 ha
Đất có rừng phòng hộ : 177.439,97 ha
Đất có rừng đặc dụng : 17.191,36 ha
+ Đất có rừng trồng : 49.861,09 ha
Đất có rừng sản xuất : 41.030,68 ha
Đất có rừng phòng hộ : 8.793,46 ha
+ Đất cây ươm giống : 1,65 ha
- Đất chuyên dùng : 4.183,33 ha
- Đất ở : 5.973,1 ha
- Đất chưa sử dụng : 392.404,74 ha
Đất bằng chưa sử dụng : 1.663,77 ha
Đất đồi núi chưa sử dụng : 313.165,67 ha
Đất có mặt nước chưa SD : 10,9 ha
Sông suối : 5.500,67 ha

Núi đá không cây : 71.480,88 ha
Đất chưa sử dụng khác : 627,9 ha
Qua số liệu trên thấy được đất đai tự nhiên của Hà Giang rất rộng, tuy
nhiên việc khai thác và sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp chưa
được nhiều, hiện tại vẫn còn trên 314.828 ha đất bằng và đồi núi chưa sử dụng,
đó là nguồn tài nguyên lớn cần phải tập trung đầu tư các nguồn lực nhằm khai
thác phục vu chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
* Về đặc điểm khí hậu thuỷ văn:
Do địa bàn rộng, khí hậu thuỷ văn các vùng phân bố không đồng đều:
Ở các huyện vùng cao: Lượng mưa trung bình 2000mm - 2400mm; Nhiệt độ
trung bình 15 - 20
0
C, có tháng mùa đông xuống 3- 4
0
C, có tuyết. Vùng này khí hậu
mang tính ôn đới.
Các huyện vùng thấp: Nhiệt độ trung bình 27
0
C; Lượng mưa 4.633
mm/năm. Ở huyện Bắc Quang là vùng có lượng mưa bình quân cao nhất nước.
Thông thường mùa đông Hà Giang chịu ảnh hưởng nhiều của gió mùa đông bắc.
Sông suối: Toàn tỉnh có 7 sông lớn nhỏ: Sông Lô, Sông Gâm, Sông Chảy,
Sông Nho Quế, Sông Niệm, Sông Con, Sông Bạc, còn lại là suối cạn. Lưu lượng
nước sông phụ thuộc lớn vào mùa mưa lũ, mùa khô thường cạn kiệt, các dòng
sông phân bổ không đều, đặc biệt là vùng cao núi đá, rất ít nước. Những tháng
mùa khô còn trên 100.000 người thiếu nước sinh hoạt.
* Về thổ nhưỡng: Trên địa hình tỉnh Hà Giang hình thành các nhóm đất
chính như đất phù sa tập trung ở vùng Bắc Quang, nhóm đất đỏ vàng ( có tác
dụng tốt phát triển cây công nghiệp ăn quả) ở Vị Xuyên, Bắc Quang, Thị xã Hà
Giang, Xín Mần, Hoàng Su Phì, nhóm đất phù sa cổ trên cao nguyên Đồng Văn

và các huyện vùng cao.
* Tài nguyên khoáng sản: Qua khảo sát điều tra Hà Giang phát hiện được
28 loại khoáng sản khác nhau như ( Ăngtimon, vàng, chì, kẽm, sắt, Măngan, thuỷ
ngân..., nước khoáng) với số lượng 149 mỏ và các điểm quặng. Hiện nay đang
tiến hành thăm dò khai thác các loại khoáng sản như Măngan, Firit, Kẽm, Thiếc,
đồng, chì, sắt, vàng, nước khoáng... khoáng sản có nhiều triển vọng nếu được đầu
tư thăm dò khai thác thích hợp.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang
* Dân số và lao động: Dân số toàn tỉnh tính đến 1/4/1999 có: 60,268 vạn
người với 22 dân tộc, trong đó 90% là đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó dân
tộc Mông chiếm 31,3%; Tày 26,5%; Dao 15,3%; Kinh 11,8% còn lại các dân tộc
ít người khác.
Hà Giang có 9 Huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ, trong đó có 7 Huyện vùng cao
biên giới thì có 4 huyện đặc biệt khó khăn trong 9 Huyện khó khăn nhất cả nước.
Hiện nay toàn tỉnh có 128/191 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn (vùng III).
* Về sự phân vùng kinh tế:
Xuất phát từ điều kiện, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang
hình thành làm 3 vùng kinh tế - xã hội và mỗi vùng có các tiềm năng thế mạnh
khác nhau:
- Vùng cao núi đá gồm 4 huyện phía Bắc là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh,
Quản Bạ. Đây là vùng khó khăn nhất so với cả nước. Diện tích toàn vùng này là
2.353 km
2
, độ cao trung bình: 1000 - 1600m; Dân số: 203.027 người, khí hậu đất đai
phù hợp với trồng cây ôn đới, dược liệu. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng ngô
một vụ trên đất hốc đá, chăn nuôi là bò, ngựa, dê, ong và gia cầm. Trong vùng có
tiềm năng về khoáng sản.
Khó khăn lớn của vùng: Khí hậu khắc nghiệt của mùa đông kéo dài, nhiệt
độ thấp 5 - 10
0

C, có năm tuyết rơi, sương muối ảnh hưởng tới phát triển nông
nghiệp, là vùng cao núi đá tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nghiêm trọng nhất là
trong những tháng mùa khô lên tới 10 vạn dân. Thu nhập bình quân chỉ đạt 70 -
80 USD/người/năm. Tỷ lệ người mù chữ thất học vẫn còn rất cao, địa hình hiểm
trở, diện tích canh tác manh mún, giao thông đi lại khó khăn.
- Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần; diện tích vùng
này là 1460 km
2
, độ cao trung bình 500 - 900 m; Dân số: 105.083 người, khí hậu
thích hợp với những cây ôn đới, thuận lợi cho phát triển rừng, nuôi ong, trồng cây
công nghiệp như chè, thông nhựa, trẩu, đậu tương... cây lượng thực chính là lúa,
ngô, chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, ngựa, dê... và gia cầm.
Khó khăn lớn nhất của vùng này là độ dốc rất lớn, hệ thống giao thông dễ
sạt lở và sinh lầy trong mùa mưa lũ. Thu thập bình quân 80 -90 USD/người/năm,
về văn hoá xã hội cũng khó khăn tương tự như vùng cao.
- Vùng thấp gồm 3 huyện, thị xã: Bắc Quang, Bắc Mê, Vị Xuyên và thị xã
Hà Giang. Diện tích tự nhiên là 4071 km
2
, độ cao trung bình 100 - 500 m; dân số:
294.574 người. Đây là vùng phù hợp với cây nhiệt đới phát triển như cam, quýt,
dược liệu, cây công nghiệp như chè, cà phê, quế, dâu tằm, đậu tương, lạc... cây
lương thực chủ yếu là lúa nước, ngô. Chăn nuôi: trâu bò, dê, cá và gia cầm. Trong
vùng có cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn
hoá với Trung Quốc, có điều kiện về xuất nhập khẩu và phát triển thương mại,
dịch vụ...
Đây là vùng thuận lợi nhất của tỉnh, song vẫn là khu vực còn những khó
khăn về đời sống kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân ở mức 100 - 130
USD/người/năm. Hầu hết hệ thống thuỷ lợi, kênh mương chưa được kiên cố hoá.
* Thực trạng sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh trong những năm vừa qua:
- Một số kết quả chung về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:

Thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, trong đó vấn
đề quan trọng có tính chiến lược lầu dài là chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế Tỉnh đã phát huy
được cơ bản các thành phần kinh tế tham gia trong sản xuất kinh doanh, khẳng
định hộ nông dân là một đơn vị tự chủ trong kinh tế... đồng thời đã thực hiện tốt
các chính sách của Đảng và Nhà nước nhất là Nghị quyết 22 NQ Trung ương của
Bộ Chính trị, và Nghị quyết 72CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng về một số
chính sách phát triển kinh tế xã hội miền núi, các Quyết định 327CP về sử dụng
đất trống đồi núi trọc, và các chính sách vay vốn, trợ giá trợ cước vận chuyển và
đảm bảo các hàng thiết yếu cho miền núi, chương trình 06CP về không trồng
thuốc phiện và cai nghiện ma tuý; chương trình y tế và giáo dục VHXH đã trực
tiếp thúc đẩy kinh tế xã hội ở địa phương.
Về sản xuất: Trong những năm qua nền kinh tế của tỉnh phát triển tăng dần,
đã duy trì nhịp độ tăng trưởng GDP từ 9 - 10,0% ( Năm 1994 GDP tăng 9,1% thì
năm 1999 tăng 10,3%). GDP bình quân đầu người tăng từ 685.000 đồng năm
1994 lên 1.535.000 đồng năm 1999, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế nông
lâm nghiệp lạc hậu mang tính tự cấp tự túc của những năm trước đây thì vài ba
năm nay sản xuất hàng hoá đã bắt đầu phát triển, đã hình thành được một số vùng
sản xuất tập trung. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng.
+ Tỷ trọng các ngành nông lâm nghiệp trong GDP giảm từ 63% năm 1994
xuống còn 61,8% năm 1995 và đến năm 1998 là 52,60%, năm 1999 là 51,46%.
Nông lâm nghiệp phát triển tương đối toàn diện, nhiều giống cây, con có chất
lượng và năng suất cao được đưa vào sản xuất đại trà, việc đưa những tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo nên sự chuyển biến rõ rệt trong sản xuất. Sản
lượng lương thực quy thóc tăng từ 14,5 vạn tấn năm 1994 lên 18,4 vạn tấn trong
năm 1999 tăng gần 4 vạn tấn. Chăn nuôi phát triển khá năm sau đều tăng hơn năm
trước từ 4 - 5% năm.
+ Tỷ trọng ngành công nghiệp + xây dựng từ 17,02% năm 1994 lên 21,3%
năm 1999. Trong công nghiệp từ chỗ hầu như chưa có gì, sản xuất quy mô thiết

bị nhỏ bé lạc hậu nay đã bắt đầu được mở mang xây dựng phát huy tác dụng như:
Nhà máy Xi măng 4 vạn tấn/năm, dây truyền Nhà máy gạch 15 triệu viên/năm,
nhiều cơ sở chế biến chè, chế biến nông sản thực phẩm.. ra đời thu hút sản phẩm
nông nghiệp và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Nguồn điện lưới đã
tới 10/10 huyện, thị trên toàn tỉnh...
+ Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 19.9% năm 1994 lên 27,13% năm 1999.
Các hoạt động lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tiền tệ tín dụng cơ bản đáp ứng được
các nhu cầu, phát triển cho các thành phần kinh tế thu ngân sách tăng từ 24 tỷ đồng
năm 1994 lên 64 tỷ đồng năm 1999... Giá trị hàng hoá xuất khẩu và có tính chất
xuất khẩu đạt 6,1 triệu USD/năm...
+ Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đã có bươc phát triển khá về số lượng chất
lượng, góp phần to lớn trong việc phát triển nền kinh tế xã hội theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đang từng bước được nâng
cấp, mở rộng nhựa hoá. Đến nay có 232 km đường quốc lộ và 91 km đường tỉnh
lộ được nhựa hoá. Đường cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ, cửa khẩu tiểu ngạch
được khai thông... Đặc biệt đến nay có 183/191 xã có đường về đến trung tâm
xã...
Công tác thuỷ lợi có những chuyển biến mạnh. Từ những công trình trước
đây còn tạm bợ, chưa được kiên cố hoá, khả năng tưới 22.000 ha thì đến nay đã
có 215 công trình lớn nhỏ được sửa chữa nâng cấp, cộng với 5283 công trình siêu
nhỏ do dân tự làm với năng lực tưới đạt trên 28.000 ha.
+ Sự nghiệp y tế - Giáo dục - phát thanh , truyền hình trên địa bàn tỉnh đã
từng bước được phát triển mở rộng, đã xoá được tất cả các xã trắng không có
trạm xá và từng bước xây dựng kiên cố vững chắc. Tỉnh được công nhận đạt tiêu
chuẩn quốc gia về hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ trên
địa bàn toàn tỉnh vào năm 1999. Tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt 67,7%, sóng
truyền hình đạt 61% năm 1999. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được
đảm bảo. Từ những kết quả chung nêu trên đã có tác dụng kích thích môi trường
thuận lợi cho sản xuất kinh tế phát triển, có nhu nhập đời sống dần tăng lên. Tỷ lệ
đói nghèo giảm từ 35% năm 1998 xuống còn 22% năm 1999, tỷ lệ hộ khá giàu

đạt 3-4%, các khoản thu cho NSNN cũng tăng lên.
- Thực trạng của cơ cấu ngành và sản xuất nông, lâm nghiệp trong những
năm qua của địa phương:
+ Về nông nghiệp: Là một ngành kinh tế truyền thống đồng thời là ngành
quan trọng hàng đầu trong các ngành kinh tế của tỉnh. Trên cơ sở về tiềm năng
đất đai, khí hậu, được sự đầu tư giúp đỡ của Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng bộ, Chính quyền tỉnh cộng với sự vượt khó đi lên của nhân dân các dân tộc
trong những năm gần đây bộ mặt nông thôn và đời sống nhân dân đã có nhiều
chuyển biến phát triển rõ nét. Sản xuất nông, lâm nghiệp năm sau đều cao hơn
năm trước.
Tỉnh đã tập trung chỉ đạo phát triển nông, lâm nghiệp một cách tòan diện,
bằng nhiều biện pháp tích cực, như làm thuỷ lợi, cung ứng vật tư kỹ thuật, công
tác khuyến nông, khuyến lâm; có chính sách hỗ trợ sản xuất kịp thời để mở rộng
diện tích thâm canh, thay đổi cơ cấu mùa vụ, đưa giống mới có năng suất cao vào
sản xuất.
Tổng sản lượng quy thóc toàn tỉnh tăng lên đáng kể qua các năm. Nếu năm
1995 đạt 15,4 vạn tấn thì đến năm 1999 sản lượng lương thực quy thóc đạt 18,4
vạn tấn tăng 3,0 vạn tấn. Tăng bình quân mỗi năm 6000 tấn. Thể hiện qua biểu
sau:
Biểu 1. Sản lượng lương thực quy thóc
Sản
lượng
Tổng số Chia ra
Năm (tấn) Thóc (tấn) Màu (tấn)
1995 154.158,4 85.422,3 68.736,1
1996 159.057 89.424 69.633
1997 165.479 95.581 69.898
1998 175.840,6 100.885,4 74.955,2
1999 184.000 109.800 74.800
Chỉ số phát triển về sản lượng lương thực quy thóc qua biểu trên ta thấy

năm sau thường tăng hơn so năm trước từ 5-6%.
Có được sản lượng tăng như trình bày trên đó là nhờ việc mở rộng diện
tích ở những nơi có điều kiện canh tác, làm thuỷ lợi, đồng thời tăng cường các
biện pháp thâm canh, áp dụng giống mới để đẩy mạnh năng suất cây trồng.
Bỉểu 2. Tổng diện tích cây lương thực từ năm 1995 đến 1999
Năm
Tổng số Trong đó
(ha) Lúa (ha) Màu (ha)
1995 75.600,1 29.208,3 46.451,8
1996 76.999,5 29.896,0 47.103,5
1997 77.100,4 29.447,7 47.652,7
1998 77.880,4 29.684,6 48.205,8
1999 76.280,0 30.364,6 45.916,0
Chỉ số phát triển về diện tích cây lương thực: Năm trước là 100% thì năm
sau thường tăng hơn 1,02%- 1,068%.
Năng suất lúa ruộng cả năm: nếu năm 1995 đạt 31,3 tạ/ha cả năm thì năm
1999 đạt 38,05 tạ/ha, tăng hơn 7,2 tạ/ha. Năng suất ngô cả năm năm 1995 đạt
13,64 tạ/ha thì năm 1999 đạt 18-20 tạ/ha.
Bên cạnh cây lương thực cây công nghiệp ngắn ngày cũng đuợc phát triển
khá tạo ra những vùng tập trung có sản lượng hàng hoá trao đổi như huyện Hoàng
Su Phì, Bắc Quang, Vị Xuyên đặc biệt là cây đậu tương: Năm 1995 diện tích
3.271 ha đến năm 1999 diện tích 5079,9 ha tăng 1,826 ha, năng suất đạt 6,53
tạ/ha. Đưa tổng sản lượng năm 1999 lên 3.338 tấn tăng gấp 2 lần so với năm
1995. Sản lượng bán ra hàng năm trên 2.500 tấn.
Một số cây công nghiệp ăn quả chính dài ngày như cây chè, cà phê, cây ăn
quả cam, quýt đang có chiều hướng tăng lên đáng kể tạo ra hàng hoá lớn trên địa
bàn nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân. Cây soài, cây lê, cây hồng cũng đã
phát triển mở ra hướng chuyển đổi mới về cơ cấu cây trồng cho vùng cao. Kết
quả thể hiện:
Biểu 3. Diện tích cây công nghiệp lâu năm

Diện tích Tổng số Chia ra
Năm (ha) Chè (ha) Cà phê (ha)
1995 6.473,3 6.220,9 249
1997 8.617,3 7.613,6 1003,7
1998 9.361,1 8.621,3 739,4
1999 9.654,7 9.654,7 769,4
Chỉ số phát triển (nếu lấy năm trước là 100%) thì năm sau tăng hơn năm
trước bình quân 13%.
Về sản lượng cây chè và cà phê tăng khá nhanh, đạt chất lượng tốt cho xuất
khẩu và tiêu thụ nội địa. Đặc biệt là cây chè Santuyết trên núi cao 500-1000 m đạt
độ sạch và chất lượng cao được nhiều người ưa dùng.
Năm 1995 sản lượng chè búp tươi đạt 9,624 nghìn tấn, thì năm 1999 đạt
16,2 nghìn tấn, và đã tạo ra trên 2500 tấn chè khô hàng hoá xuất khẩu và tiêu thụ
nội địa.
Cây ăn quả: được phát triển mạnh, năm 1995 tổng cây ăn quả đạt 3.395 ha
đến năm 1999 lên tới 6.345 ha tăng gần gấp 2 lần. Trong đó diện tích cam, quýt
đạt 4.638 ha, sản lượng quả 12,8 ngàn tấn, cây soài hiện có 354 ha, nhãn, vải,
hồng không hạt 103,6 ha, lê 66,28 ha.
Ngành trồng trọt phát triển đã thúc đẩy cho ngành chăn nuôi cũng được
phát triển nhanh, tổng đàn năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt tổng đàn trâu bò,
đàn lợn, gia cầm... có sản lượng thịt hơi xuất chuồng đều tăng, tốc độ tăng của
đàn gia súc hàng năm từ 4-5% năm, đàn gia cầm 3-4%. Thể hiện qua các biểu
sau:
Biểu 4. Số lượng gia súc, gia cầm
Đơn vị: con
Trâu Bò Lợn Ngựa Dê Gia cầm
T. số con năm 1995 110.541 42.749 195.335 24.283 72.732 1.031.326
1997 116.998 45.779 211.144 25.009 78.185 1.073.000
1998 120.542 48.301 220.180 25.115 82.436 1.118.332
1999 127.428 51.955 236.000 25.250 88.716 1.250.350

Tính đến năm 1999 chỉ
số PT bình quân %
3,2 5,5 4,2 0,4 5,4 4,2
Biểu 5. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng chủ yếu
Đơn vị: tấn
1995 1997 1998 1999 99/95%
Trâu 390,1 411 423 450 115
Bò 369,4 392,8 412 430 116
Lợn 3.353,1 3.857,0 4.050 4.350 135
Gia cầm 1.102 1.175,4 1.223 1.320 119,7
Hiện nay tỉnh tập trung thực hiện chương trình hỗ trợ cho vay đầu tư phát
triển trâu bò hàng hoá với chương trình 3 vạn con trâu bò. Năm 1999 đã thực hiện
được gần 10.000 con.
Năm 1999 diện tích nuôi trồng thuỷ sản có 900 ha, tăng hơn năm 1995 là
120 ha. Sản lượng thuỷ sản năm 1999 đạt 820 tấn.
Đàn ong năm 1999 có 9.009 tổ, tăng 3% so với năm 1998 cho sản lượng 40
tấn mật.

×