Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

QLNN đối với thị trường chứng khoán Thực trạng thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.21 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

1


DANH SÁCH NHÓM

2


MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán luôn tiềm ẩn những rủi ro gắn liền với biến động của
nền kinh tế, phạm vi ngày càng rộng của các luồng chu chuyển, sự khó lường
trong hành vi ứng xử của các thành viên thị trường. Chính vì vậy, thanh tra,
giám sát trong quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán nhằm giám sát
rủi ro, phòng ngừa những tình huống không mong đợi (đặc biệt là khủng hoảng)
để thị trường có thể phát triển một cách lành mạnh và bền vững. Việc thanh tra,
giám sát trong quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán là hoạt động
cần thiết đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động trật tự, công bằng,
đúng pháp luật. Tuy nhiên, công tác thanh tra, giám sát đối với thị trường chứng
khoán tại Việt nam hiện nay chưa được chặt chẽ và thống nhất.

3


NỘI DUNG
1. Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Theo luật hợp nhất chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18 tháng 12 năm
2013 bổ sung một số quy định của Luật chứng khoán 2006 và hợp nhất luật sửa
đổi bổ sung với Luật chứng khoán 2006: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận


quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ
chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán
ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử”. Chứng khoán bao gồm các loại: cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Thực chất chứng khoán là
một loại hàng hóa đặc biệt. Sự phát triển của thị trường chứng khoán làm nảy
sinh nhiều loại chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều có những đặc
điểm chung nhất: Tính sinh lời, tính rủi ro, tính hoán lệ.
Thị trường chứng khoán được hiểu là thị trường, nơi người ta giao dịch,
chuyển nhượng, mua bán, trao đổi chứng khoán nhằm đạt được mục đích. Có
thể coi thị trường chứng khoán là một bộ phận trong thị trường vốn, giúp các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế hoặc Chính phủ có thể huy động vốn từ các
nguồn lực khác nhau trong xã hội để sử dụng sản xuất, đầu tư kinh doanh… Các
giao dịch có thể thông qua thị trường sơ cấp (nơi người mua trực tiếp mua từ
nhà phát hành chứng khoán) hoặc thị trường thứ cấp (nơi những chứng khoán
phát hành từ thị trường sơ cấp được mua đi bán lại giữa các nhà đầu tư). Hàng
hóa giao dịch gồm có cổ phiếu, trái phiếu và một số công cụ tài chính khác (thời
hạn trên 1 năm).
Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết
kiệm, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng
các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán
đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Thị
4


trường chứng khoán thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ. Các
chứng khoán mua bán trên thị trường chứng khoán có thể đem lại thu nhập cho
người nắm giữ nó sau một thời gian nhất định và được lưu thông trên thị trường
chứng khoán theo giá cả thị trường, do đó bề ngoài nó được coi như là một tư
bản hàng hoá.
Có thể nói, thị trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư

bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá.
1.2. Đặc điểm của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi hình thức tài chính
trực tiếp, người cần vốn và người cung cấp vốn đều trực tiếp tham gia thị
trường, giữa họ không có trung gian tài chính thực hiện qua hành động mua bán
cổ phiếu, cổ phần.
Thứ hai, thị trường chứng khoán là thị trường cạnh tranh hoàn hảo: tất mọi
người đều tự do tham gia vào thị trường và hưởng quyền như nhau thông qua hệ
thống luật quy định chung. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng
khoán, mà giá cả ở đây được hình thành dựa trên quan hệ cung – cầu giữa bên
mua và bên bán.
Thứ ba, về cơ bản thị trường chứng khoán là một thị trường liên tục, sau khi
các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi
bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp và qua tay nhiều nhà đầu tư. Thị trường
chứng khoán đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ
thành tiền mặt bất cứ lúc nào họ muốn khi họ thực hiện giao dịch thành công.
1.3. Vị trí, vai trò của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, hoạt
động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập
5


trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính
phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
Thị trường chứng khoán có các vai trò chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn
rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở
rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, thị

trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính
quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử
dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Thứ hai, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư
lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị
trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư
có thể lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích
của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức
tiết kiệm quốc gia.
Thứ ba, tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng
khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn.
Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những
đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy
tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng
năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của
các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
Thứ tư, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp.
6


Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ảnh
một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một
môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích
thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Thứ năm, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô.

Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế
một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư
đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ
cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán
được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp
chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng
khoán, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù
đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử
dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm
định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.4. Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán
Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán gồm:
 Nhà phát hành: là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán. Nhà phát hành có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương hoặc
Công ty. Chính phủ phát hành các loại trái phiếu chính phủ nhằm huy động tiền
bù đắp thâm hụt ngân sách hoặc thực hiện những công trình quốc gia lớn. Chính
quyền địa phương phát hành trái phiếu địa phương để huy động tiền đầu tư cho
các công trình hay chương trình kinh tế, xã hội của địa phương. Các công ty
muốn huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất phát hành trái phiếu công ty hoặc
cổ phiếu.
 Nhà đầu tư:
7


Nhà đầu tư cá nhân: Nhà đầu tư chấp nhận rủi ro và Nhà đầu tư không thích
rủi ro.
Nhà đầu tư có tổ chức: Công ty đầu tư, Công ty bảo hiểm, Quỹ bảo hiểm xã
hội, Công ty tài chính, Ngân hàng thương mại.
 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán gồm: Công ty chứng
khoán, Quỹ đầu tư chứng khoán, Các trung gian tài chính.

 Các tổ chức liên quan đến chứng khoán: Cơ quan quản lý Nhà nước, Sở giao
dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, Tổ chức lưu ký và
thanh toán bù trừ chứng khoán, Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, Các tổ
chức tài trợ chứng khoán, Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
1.5. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
Nguyên tắc cạnh tranh tự do: Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường
phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán thể hiện tương quan cạnh tranh giữa
các công ty.
Nguyên tắc công khai: Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều
phải đảm bảo tính công khai. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả
những người tham gia thị trường, thể hiện tính công bằng nghĩa là mọi người
tham gia thị trường đều tuân thủ những quy định chung, được cung cấp đầy đủ
thông tin, kịp thời và chính xác. Sở giao dịch chứng khoán công bố các thông tin
về giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố công
khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất
thường xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, người quản lý, cổ
đông đa số. Các thông tin càng được công bố công khai minh bạch, thì càng thu
hút được nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian mua bán: Đây là nguyên tắc cơ bản cho hoạt động và
tổ chức của thị trường chứng khoán với vai trò của công ty chứng khoán, các
nhà môi giới làm cầu nối giữa cung và cầu hàng hóa. Mọi hoạt động giao dịch,
mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán đều được thực hiện thông
8


qua các trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện
giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới
còn có thể cung cấp các dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tư vấn cho
khách hàng trong việc đầu tư...
Nguyên tác đấu giá: Giá chứng khoán được xác định thông qua việc đấu giá

giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị trường đều
không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là đấu
giá trực tiếp và đấu giá tự động. Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp
nhau trên sàn giao dịch và trực tiếp đấu giá. Đấu giá tự động là việc các lệnh
giao dịch từ các nhà môi giới được nhập vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch
chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá
này, chứng khoán giao dịch với khối lượng cao nhất.
 Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán được hình
thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu
hết các nước trên thế giới hiện nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng
khoán duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền đất nước đều có thể tiếp cận thị
trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới các điểm
dân cư). Một số nước khác còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử
để lại thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những chứng khoán riêng biệt.
1.6. Tác động của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế
Tác động tích cực
+ Thị trường chứng khoán là kênh tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
+ Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc
gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
+ Thị trường chứng khoán thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt
hơn, có hiệu quả hơn. Đồng thời, thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá
doanh nghiệp, dự đoán tương lai.
9


+ Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
Tác động tiêu cực
Thị trường chứng khoán là nơi nảy sinh nhiều tiêu cực như:
+ Xảy ra hiện tượng đầu cơ lũng đoạn thị trường, đó là hiện tượng một hoặc
nhiều người cấu kết với nhau để cùng mua hoặc bán liên tục một loại chứng

khoán nào đó.
+ Phao tin đồn không chính xác hoặc lệch lạc về hoạt động của một doanh
nghiệp, về giá chứng khoán… có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến các doanh
nghiệp và nhà đầu tư, dẫn đến khủng hoảng nền kinh tế nếu gây hậu quả nặng.
2. Hệ thống thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán
2.1. Một số khái niệm cơ bản
Theo Điều 3 Luật thanh tra 2010: Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét,
đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành
chính và thanh tra chuyên ngành.
Có thể hiểu, thanh tra chứng khoán là sự xem xét, đánh giá và xử lý việc
thực hiện pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán;
do tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện theo trình tự pháp luật quy định và
nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và
thị trường chứng khoán; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trên thị trường chứng khoán.
Theo Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
2015: Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm
quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
10


Trong lĩnh vực chứng khoán, giám sát còn được hiểu là phân tích, tổng hợp
các dữ liệu, số liệu từ báo cáo của các tổ chức liên quan, các thông tin được
công bố ra công chúng theo quy định của pháp luật, thông tin, tin đồn có thể ảnh
hưởng đến giá và khối lượng của các chứng khoán được giao dịch trên thị
trường tập trung. Qua đó, chủ thể giám sát phát hiện kịp thời những hành vi vi

phạm của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh trên thị trường
chứng khoán.
Giám sát thị trường chứng khoán bao gồm các hoạt động theo dõi, xem xét
và nhận định các vấn đề liên quan đến lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán, đảm bảo giám sát việc thực thi quy định của pháp luật hiện
hành. Giám sát không chỉ là công cụ để các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện
chức năng quản lý nhà nước của mình mà các tổ chức tham gia thị
trường chứng khoán như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư
chứng khoán, tổ chức lưu kỹ, thanh toán bù trừ chứng khoán… cũng sử dụng nó
như một công cụ hữu hiệu trong hoạt động của mình nhằm bảo đảm sự tuân thủ
pháp luật cũng như các quy định khác của chính tổ chức đó.
Hoạt động giám sát được thực hiện dựa trên các hoạt động cụ thể, các số
liệu, tài liệu báo cáo để phân tích, đối chiếu với các quy định trong văn bản pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, sớm phát hiện các dấu hiệu
thiếu sót hoặc vi phạm của tổ chức phát hành, tổ chức kinh doanh và giao dịch
chứng khoán, cá nhân hoạt động chứng khoán.
2.2. Sự cần thiết của công tác thanh tra, giám sát hoạt động chứng khoán và
thị trường chứng khoán
Công tác thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật chứng khoán có vai trò
quan trọng bậc nhất của cơ quản quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường
chứng khoán.
Thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán không phải là để xoá bỏ hết các
rủi ro trên thị trường chứng khoán hay chỉ để trừng phạt những người vi phạm
11


pháp luật chứng khoán, mà là để góp phần tạo ra môi trường kinh doanh công
bằng, công khai, minh bạch, có hiệu quả và bảo vệ nhà đầu tư.
Thứ nhất, quản lý và giám sát thị trường chứng khoán để đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của các nhà đầu tư. Một trong những chủ thể quan trọng của thị trường

chứng khoán là các nhà đầu tư.Vai trò của họ đối với sự ổn định và phát triển
của thị trường chứng khoán là rất lớn. Khi quyết định mua chứng khoán nhà đầu
tư đã giao phó tiền của mình cho nhà phát hành, cho nhà môi giới. Nhưng vì
thông tin không cân xứng nên họ không thể biết được độ chính xác của những
thông tin do nhà phát hành, người môi giới cung cấp. Mặt khác các hành vi thao
túng, gian lận trên thị trường có thể xảy ra. Do vậy nhà đầu tư chỉ yên tâm khi
có một chủ thể trung lập, không vì mục tiêu lợi nhuận đứng ra quản lý, giám sát
thị trường nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực. Khi đó lòng tin của
nhà đầu tư sẽ tăng lên, thị trường sẽ hoạt động hiệu quả.
Thứ hai, thanh tra, giám sát trên thị trường chứng khoán đảm bảo tính hiệu
quả, công bằng và minh bạch trong giao dịch chứng khoán. Trên thực tế giao
dịch trên thị trường chứng khoán là những giao dịch “vô hình”. Những yếu tố
đầu cơ sẽ kéo theo sự gian trá, tung tin sai sự thật, mua bán nội gián làm cho các
nhà đầu tư chân chính bị thiệt hại, từ đó gây mất ổn định thị trường. Vì vậy cần
có sự giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán.
Thứ ba, thanh tra, giám sát trên thị trường chứng khoán để dung hoà lợi ích
của các chủ thể tham gia trên thị trường, đảm bảo tính ổn định tương đối của thị
trường. Nhìn chung, quyền lợi và mục tiêu của các chủ thể trên thị trường có
mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng lại luôn bị chia sẻ. Người này thu được
lợi nhuận đạt được mục tiêu đề ra rất có thể người khác sẽ bị thua thiệt, họ luôn
tìm cách để cố gắng tối đa hoá lợi ích của mình. Chính vì vậy, họ thực hiện
những hoạt động đa dạng, phức tạp và cạnh tranh lẫn nhau. Nhưng cũng chính
sự cạnh tranh phức tạp đó đã dẫn đến hành vi gian lận. Khi sự cạnh tranh quá
lớn, nó sẽ chuyển sang một thái cực xấu, thị trường sẽ hoạt động hỗn loạn, mất
12


ổn định. Do vậy, cần có sự giám sát các hoạt động chứng khoán nhằm dung hoà
lợi ích giữa các chủ thể trên thị trường.
Thứ tư, thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán nhằm hạn chế những gian

lận phát sinh gây tác động xấu đến thị trường và các hoạt động kinh tế xã hội.
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính hoạt động phức tạp và tinh vi.
Hàng hoá trên thị trường chứng khoán là các giấy tờ có giá, nó khác biệt với các
hàng hóa thông thường do vậy dễ phát sinh các hành vi lừa đảo, gian lận trên thị
trường. Trên thực tế điều này là không tránh khỏi. Vấn đề quan trọng là phải
khống chế và kiểm soát chúng nhằm giúp thị trường chứng khoán hoạt động
hiệu quả hơn.
Thứ năm, thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán nhằm ngăn chặn và
kiểm soát các rủi ro dẫn đến rủi ro hệ thống làm sụp đổ thị trường. Thực tế cho
thấy rủi ro luôn tồn tại trên thị trường chứng khoán. Khi rủi ro xảy ra không chỉ
làm cho nhà môi giới, nhà phát hành, nhà đầu tư bị chao đảo mà còn làm cả thị
trường bị chao đảo. Đặc biệt là các rủi ro hệ thống có thể khéo theo hàng loạt
các biến cố khác có thể gây sụp đổ thị trường. Chúng ta chỉ có thể kiểm soát chế
ngự được rủi ro hệ thống chứ không xoá bỏ hoàn toàn đựơc nó. Tính tiềm ẩn của
các rủi ro hệ thống đòi hỏi phải có sự phân tích đánh giá, dự báo từ đó đưa ra
các biện pháp đảm bảo tính ổn định của thị trường. Điều này chỉ được thực hiện
khi chúng ta có một bộ phận chuyên nghiệp thực hiện công việc này.
Thứ sáu, thanh tra giám sát trên thị trường chứng khoán để đảm bảo an toàn
trong điều kiện hội nhập kinh tế. Hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế ngày một sâu
rộng, việc xây dựng và vận hành thị trường chứng khoán ở mỗi quốc gia đều
theo hướng mở. Tuy nhiên hội nhập thị trường chứng khoán là con dao hai lưỡi,
vì vậy để hội nhập hiệu quả thì cần có tăng cường công tác an ninh sát hoạt động
của thị trường đảm bảo nguyên tắc chuẩn mực quốc tế và thực tế của mỗi quốc
gia.

13


2.3. Tổ chức bộ máy thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán
 Tổ chức bộ máy thanh tra thị trường chứng khoán

Thanh tra chứng khoán là tổ chức thanh tra nhà nước chuyên ngành về
chứng khoán và thị trường thuộc tổ chức bộ máy của Ủy ban chứng khoán nhà
nước.
Thanh tra chứng khoán ở Việt Nam chỉ thành lập ở Ủy ban Chứng khoán nhà
nước. Quy chế làm việc của thanh tra chứng khoán do Chủ tịch ủy ban chứng
khoán nhà nước quyết định, sau khi thống nhất ý kiến với Tổng thanh tra nhà
nước và Bộ trưởng, Trưởng ban tổ chức cán bộ chính phủ.
Trung tâm hoặc Sở giao dịch chứng khoán: có trách nhiệm tổ chức một bộ
phận để kiểm tra, giám sát cách hoạt động giao dịch tại Trung tâm hoặc Sở giao
dịch chứng khoán.
Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán: có trách nhiệm tổ chức thành
lập bộ phận kiểm soát nội bộ, để thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc chấp
hành pháp luật trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hệ thống tổ chức giám sát thị trường chứng khoán
Tại mỗi nước, việc điều hành và giám sát thị trường chứng khoán được tổ
chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Các tổ chức tham gia quản lý và giám sát thị
trường chứng khoán gồm hai nhóm: các cơ quan quản lý của chính phủ và các tổ
chức tự quản. Trên cơ sở phân cấp của Bộ tài chính, hệ thống giám sát thị trường
chứng khoán tại Việt Nam được xây dựng theo mô hình giám sát hai cấp phổ
biến trên thế giới. Theo đó, Ủy ban chứng khoán nhà nước và các Sở giao dịch
chứng khoán tạo nên bộ máy vận hành hệ thống giám sát thị trường với sự phân
cấp như sau:
Cấp giám sát thứ nhất: thông qua tổ chức trung gian như: Sở giao dịch
chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán.

14


Cấp giám sát thứ hai: Ủy ban chứng khoán nhà nước giám sát sự tuân thủ
của mọi thành viên thị trường đối với Luật Chứng khoán và các văn bản hướng

dẫn luật. Nhiệm vụ giám sát của Ủy ban chứng khoán nhà nước được thực hiện
bởi Vụ quản lý kinh doanh; Vụ Quản lý các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư
chứng khoán; Vụ quản lý chào bán chứng khoán; Vụ giám sát thị trường chứng
khoán.
Việc tổ chức giám sát trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
của cơ quan quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động như sau:
Giám sát tuân thủ: Ủy ban chứng khoán nhà nước thực hiện việc kiểm tra,
giám sát sự tuân thủ quy định pháp luật của các đối tượng quản lý bao gồm:
Giám sát phát hành, công bố thông tin và quản trị công ty của công ty niêm yết
và công ty đại chúng; Giám sát tuân thủ của các định chế trung gian thị trường
và Giám sát tuân thủ của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng
khoán.
Giám sát giao dịch: Được thực hiện theo Quy chế phối hợp giữa các đơn vị
thuộc Ủy ban chứng khoán nhà nước với Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm
lưu ký chứng khoán trong việc giám sát và xử lý vi phạm của các tổ chức, các
nhân trên thị trường chứng khoán ban hành theo Quyết định số 689/QD-UBCK,
ngày 31/8/2012 của chủ tịch Ủy ban chứng khoán nhà nước (Quyết định 689).
Giám sát rủi ro: là giám sát sức khỏe tài chính của tổ chức trung gian thị
trường, mà cụ thể ở đây là giám sát chỉ tiêu an toàn tài chính của tổ chức kinh
doanh chứng khoán theo Thông tư số 226/2010/TT-BTC, ngày 31/12/3010 quy
định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh
chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính và Thông tư số
165/2012/TT-BTC, ngày 09/10/2012 sửa đổi bổ sung một số điều của thông tư
số 266/2010/TT-BTC.

15


2.4. Nội dung thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán
Những nội dung của khung khổ pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng

khoán quy định công tác thanh tra, giám sát thực thi luật chứng khoán tập trung
vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, thanh tra, giám sát việc phát hành chứng khoán trên thị trường sơ
cấp tập trung các vấn đề sau: người phát hành chứng khoán: bao gồm các điều
kiện, tiêu chuẩn để có thể cấp phép hành nghề; các thủ tục phát hành chứng
khoán; thông tin trong bản cáo bạch; quy định về công bố thông tin trước và sau
khi phát hành. Các quy định về bảo vệ nhà đầu tư nhằm ngăn chặn hành vi lừa
đảo, bảo vệ quyền lợi cổ đông, chống hoạt động thâu tóm, sáp nhập…
Thứ hai, thanh tra, giám sát tuân thủ tập trung vào các vấn đề: thanh tra,
giám sát việc chấp hành quy định về thành lập, tổ chức hoạt động của các Trung
tâm và Sở giao dịch chứng khoán, các quy định về xác định giá, về hệ thống
giao dịch, về thành viên và điều kiện trở thành thành viên của Trung tâm và Sở
giao dịch chứng khoán; thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về chế
độ, điều kiện cấp phép kinh doanh, các quy định an toàn trong hoạt động kinh
doanh, các quy định về chế độ báo cáo thông tin và về ban giám đốc, chức năng
nhiệm vụ của tổ chức kinh doanh chứng khoán đối với tổ chức kinh doanh
chứng khoán; thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về tiêu chuẩn,
điều kiện các loại chứng khoán được niêm yết và giao dịch trên thị trường; thanh
tra, giám sát việc chấp hành các quy định về đăng ký, thanh toán bù trừ, lưu giữ
chứng khoáng niêm yết, giao dịch trên thị trường.
Thứ ba, thanh tra, giám sát giao dịch chứng khoán tập trung vào các vấn đề
chính: giám sát theo dõi từng hoạt động giao dịch mua, bán từng loại chứng
khoán, mức độ biến động; phát hiện xử lí các trường hợp giao dịch nội gián,
hoặc thao túng thị trường, thao túng giá cả; kiểm soát tình trạng sở hữu của các
nhà đầu tư trong và ngoài nước; thanh tra, giám sát các tin đồn có thể ảnh hưởng
đến giá cả thị trường.
16


2.5. Nhân tố tác động đến thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán

Nhân tố chủ quan: trình độ quản lí của nhà nước, quyền hạn của ủy ban
chứng khoán, ảnh hưởng của mô hình giám sát, phương pháp giám sát, nhân sự
thực hiện thanh tra, giám sát; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin.
Nhân tố khách quan: trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng, ảnh hưởng của môi trường pháp lí về thanh tra,
giám sát. Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh chứng khoán của nhân viên
công ty chứng khoán, công ty quản lí quỹ, các tổ chức trung gian phụ trợ…
3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường chứng khoán tại Việt
Nam hiện nay
Trải qua hơn 18 năm xây dựng và phát triển, thể chế của thị trường chứng
khoán Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện. Thị trường đã xây dựng các quy
tắc để vận hành thông qua việc tạo lập khuôn khổ pháp lý khá đồng bộ, thống
nhất, từng bước khắc phục được những mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản
pháp luật khác có liên quan; tạo cơ sở cho thị trường chứng khoán Việt Nam
phát triển và hội nhập với thị trường tài chính quốc tế, đồng thời nâng cao khả
năng quản lý, giám sát thị trường của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Năm 2018, kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam
nói riêng đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Các chỉ tiêu về kinh tế vĩ mô
như tăng trưởng GDP, xuất nhập khẩu, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, thu chi ngân
sách... đều vượt hoặc đạt chỉ tiêu của Quốc hội đề ra, tiếp tục tạo đà phát triển
cho những năm tới.
Thị trường chứng khoán năm 2018 tuy có giảm về chỉ số do ảnh hưởng của
thị trường chứng khoán quốc tế, nhưng các chỉ tiêu quan trọng khác như quy
mô, thanh khoản, huy động vốn cho khối doanh nghiệp tư nhân đều tăng trưởng
ấn tượng, tiếp tục là kênh huy động vốn hiệu quả, đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế chung.

17



Đối với thị trường cổ phiếu, mặc dù có những biến động lớn trong năm 2018
nhưng cơ bản vẫn duy trì được đà tăng trưởng về quy mô và thanh khoản. Mức
vốn hóa toàn thị trường đạt 3,96 triệu tỷ đồng, tăng 12,7% so với cuối năm
2017, tương đương 79% GDP năm 2017 và 72% GDP năm 2018, vượt chỉ tiêu
đặt ra cho năm 2020. Thanh khoản thị trường cải thiện mạnh với tổng giá trị
giao dịch bình quân cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đạt 6.547 tỷ đồng/phiên, tăng 29%
so với bình quân năm 2017. Tổng giá trị niêm yết, đăng ký giao dịch đạt hơn
1.210 nghìn tỷ đồng, tăng 12,8% so với cuối năm 2017.
Tuy thị trường cổ phiếu Việt Nam đã tăng trưởng nhanh trong vài năm gần
đây, nhưng quy mô thị trường vẫn ở mức thấp so với khu vực và thế giới xét cả
về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trên GDP. Cụ thể, vốn hóa thị trường của Thái
Lan là 548 tỷ USD, Malaysia là 456 tỷ USD, Singapore là 787 tỷ USD và đều
chiếm trên 100% GDP.
Đối với thị trường trái phiếu, Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong
năm 2018. Thị trường trái phiếu hiện có quy mô niêm yết đạt 1.122 nghìn tỷ
đồng, tăng 10,4% so với cuối năm 2017 với 573 mã trái phiếu niêm yết. Trong
đó, trái phiếu Chính phủ chiếm 98% và trái phiếu doanh nghiệp chiếm 2% giá trị
niêm yết. Tuy nhiên, quy mô thị trường còn khá khiêm tốn so với một số nước
trong khu vực và trên thế giới. Dư nợ trái phiếu đạt 35,2% GDP năm 2018; trong
đó dư nợ trái phiếu Chính phủ là 27,2% và trái phiếu doanh nghiệp là 8,0%,
trong khi quy mô thị trường trái phiếu Malaysia đạt 97,7% GDP, Singapore đạt
86% GDP, Hàn Quốc đạt 125,7% GDP, Nhật Bản đạt 211,4% GDP.
Nhìn chung, năm 2018, thị trường chứng khoán Việt Nam là kênh huy động
vốn hữu hiệu cho cả Chính phủ và doanh nghiệp và được đánh giá là thị trường
thành công nhất khu vực Đông Nam Á về huy động vốn trong năm 2018. Tổng
giá trị huy động vốn qua thị trường chứng khoán năm 2018 đạt hơn 278 nghìn tỷ
đồng, tăng 14% so với năm 2017, trong đó Chính phủ huy động 192 nghìn tỷ
đồng trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp đã mở rộng sản xuất, kinh doanh và
phát triển, giảm áp lực ngân hàng.
18



Để tiếp tục góp phần củng cố, tăng cường sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô
cũng như duy trì và khơi thông các động lực tăng trưởng… thời gian tới Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước cần chú trọng một số nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể gồm:
Thông qua Luật chứng khoán sửa đổi trong năm 2019, tạo khuôn khổ pháp lý
hoàn thiện, tiệm cận với thông lệ quốc tế để nâng hạng thị trường; hoàn thiện hệ
thống luật gồm Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư...
Đồng thời, tiếp tục tái cơ cấu mạnh mẽ thị trường chứng khoán đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2025. Một số mục tiêu cụ thể, phấn đầu năm 2020, thị
trường cổ phiếu đạt 100% GDP, số lượng nhà đầu tư đạt 3% dân số, đảm bảo
hợp lý nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức; tạo cơ chế phát triển nhà đầu tư
chuyên nghiệp; đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán, triển khai chứng quyền
có đảm bảo...
Mới đây, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP; trong đó có
hai nội dung liên quan đến phát triển thị trường chứng khoán là: Tập trung đẩy
mạnh phát triển các thị trường tài chính, chứng khoán, đẩy mạnh phát triển thị
trường phái sinh, trái phiếu doanh nghiệp và các sản phẩm mới; đẩy mạnh sắp
xếp, cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước gắn với niêm yết
trên thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, Ủy ban Chứng khoán sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ban,
ngành để tạo hành lang pháp lý ổn định, thông thoáng để thu hút dòng vốn nước
ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo cơ sở để thị trường chứng
khoán sẽ có những bước đi phát triển bền vững cho những năm tiếp theo.
Để hướng tới một thị trường phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả, trong
năm 2019, Ủy ban Chứng khoán sẽ tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp cả
trong ngắn hạn và dài hạn, để tiếp sức cho thị trường chứng khoán phát triển
theo chiều hướng lành mạnh, đi vào chiều sâu; hoạt động tái cấu trúc thị trường
chứng khoán tiếp tục được thúc đẩy; trong đó dồn sức chuẩn bị các điều kiện để
thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam. Tiếp tục cơ cấu lại hoạt động

19


của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ theo hướng tăng chất lượng,
giảm số lượng.
Về nâng hạng thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng
sẽ thúc đẩy triển khai các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
từ hạng “thị trường cận biên” (frontier market) lên hạng “thị trường mới nổi”
(emerging market) trên bảng xếp hạng MSCI (Morgan Stanley Capital
International và FTSE (Financial Times Stock Exchange).
Cụ thể, về các giải pháp, chính sách, sẽ tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư
nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tháo gỡ vướng mắc
trong việc tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc ban hành
Luật Chứng khoán (sửa đổi). Phát triển, đa dạng hóa và gia tăng chất lượng các
sản phẩm trên thị trường chứng khoán để thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Cùng với đó là tăng cường tính công khai, minh bạch hóa trên thị trường
chứng khoán, đảm bảo quyền bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin của nhà
đầu tư nước ngoài. Cắt giảm và đơn giản hóa các thủ tục hành chính để tạo điều
kiện thuận lợi, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán.
Về phối hợp thông tin với các tổ chức xếp hạng, Ủy ban Chứng khoán sẽ
tích cực triển khai các công việc liên quan đến nâng hạng thị trường chứng
khoán Việt Nam thông qua việc phối hợp thông tin với các tổ chức xếp hạng;
trong đó có tổ chức xếp hạng MSCI. Thiết lập quan hệ thường xuyên với MSCI,
giải thích, cập nhật thông tin, giúp MSCI đánh giá xác thực hơn về tổng thể thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Đồng thời, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ chủ động và tăng cường thông
tin, tuyên truyền về các vấn đề liên quan đến nâng hạng thị trường chứng khoán
Việt Nam nhằm xây dựng được một hình ảnh đẹp về thị trường chứng khoán
Việt Nam minh bạch và phát triển bền vững.


20


Đối với việc xây dựng và phát triển sản phẩm mới, trong năm 2019, Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp với các Sở trong việc triển khai hai
sản phẩm là Chứng quyền có đảm bảo (Convered Warrant) và Hợp đồng tương
lai trái phiếu Chính phủ (Bond future). Nếu điều kiện thuận lợi, năm 2019 dự
kiến sẽ cho ra mắt một số sản phẩm mới như hợp đồng tương lai trên chỉ số khác
ngoài VN30.
4. Thành tựu và hạn chế trong công tác thanh tra, giám sát đối với thị
trường chứng khoán
4.1. Thành tựu đạt được trong công tác thanh tra, giám sát đối với thị
trường chứng khoán
Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng và chuẩn hóa quy trình giám sát giao
dịch chứng khoán, hoàn thiện bổ sung sửa đổi các quy trình xử lý công việc liên
quan đến công tác giám sát thuộc hệ thống văn bản quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn TCVN ISO 9001:2008 của Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
Hai là, Uỷ ban chứng khoán nhà nước tiếp tục phân định và làm rõ trách
nhiệm của các tuyến giám sát trong việc giám sát các hành vi vi phạm cũng như
các giao dịch có dấu hiệu bất thường theo quy định tại Thông tư số 13/2013/TTBTC và Quyết định số 689/QĐ-UBCK.
Ba là, tăng cường công tác giám sát giao dịch chứng khoán, phòng ngừa và
phát hiện kịp thời các hành vi giao dịch không công bằng, nội gián, thao túng
giá chứng khoán. Bên cạnh đó, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cũng tăng cường
giám sát tuân thủ đối với các Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký
chứng khoán để đảm bảo tính toàn diện của công tác giám sát, cũng như việc
tuân thủ quy định của pháp luật đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán
của các tổ chức này.
Bốn là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin cho công tác giám sát giao
dịch và phối hợp chia sẻ thông tin đối với các cơ quan liên quan.

21


Năm là, tổ chức hội nghị giám sát hằng năm giữa Uỷ ban chứng khoán nhà
nước, các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán.
Ví dụ: Thanh tra Bộ Tài chính cho biết, năm 2018, UBCKNN tiến hành 78
cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó phát hiện vi phạm tại 14 tổ chức; ban hành 14
quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền hơn 2,2 tỷ đồng. Số tiền đã
thu nộp ngân sách nhà nước là trên 2 tỷ đồng. Qua công tác thanh tra, kiểm tra
đã phát hiện, chấn chỉnh, xử lý kịp thời các vi phạm, góp phần hỗ trợ công tác
quản lý giám sát và bảo đảm thực thi pháp luật về chứng khoán, nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật của các tổ chức và cá nhân tham gia trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán.
4.2. Hạn chế trong công tác thanh tra, giám sát đối với thị trường chứng khoán
Một là, công tác giám sát tuân thủ pháp luật trên thị trường chứng khoán,
cưỡng chế thực thi còn nhiều bất cập, kém hiệu quả. Một hạn chế mà chúng ta
có thể thấy rất rõ trong giai đoạn vừa qua đó là việc nhận diện và phát hiện
những vi phạm còn yếu kém. Rất nhiều trường hợp vi phạm một cách rất rõ
ràng, song lại không được hệ thống giám sát hai cấp phát hiện, mà chủ yếu do
các phương tiện thông tin đại chúng hoặc bản thân các nhà đầu tư trên thị trường
phát hiện và kiến nghị, đặc biệt đối với các trường hợp làm giá cổ phiếu. Tình
trạng này khiến cho việc vi phạm ngày càng xuất hiện một cách tinh vi, tràn lan,
coi thường chắc năng giám sát, quản lý trong cơ quan quản lý.
Hai là, hiệu lực giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực
chứng khoán còn thấp. Hoạt động thanh tra giám sát không mang tính thường
xuyên liên tục, cơ quan quản lý nhà nước thiếu một số quyền nhất định như
quyền điều tra, xét hỏi, truy tố … Ngoài ra, ở Việt Nam bước đầu đã có tổ chức
thực hiện chức năng phối hợp hoạt động giám sát toàn bộ thị trường tài chính là
Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Tuy nhiên, vai trò của Ủy ban khá mờ nhạt
vì được tổ chức dưới góc độ là một cơ quan tư vấn, không có chức năng xây

dựng chính sách và không thực sự có quyền lực giám sát cũng như xử lý các
trường hợp vi phạm. Ủy ban được thành lập nhưng chỉ dừng lại ở chức năng
22


tham mưu tư vấn cho chính phủ, khi phát hiện sai phạm cũng không có thẩm
quyền xử lý mà có trách nhiệm đề xuất kiến nghị chính phủ hoặc các cơ quan
thanh tra giám sát chuyên ngành xử lý. Ủy ban này chưa có quyền ban hành, xây
dựng chính sách pháp lý chung liên quan đến hoạt động giám sát thị trường tài
chính.
Ba là, việc xử lý vi phạm không nghiêm minh, chế tài xử phạt trong lĩnh vực
chứng khoán còn quá nhẹ, không đủ sức răn đe. Việc xử phạt đối với hành vi vi
phạm phát hành, kinh doanh chứng khoán còn quá lỏng lẻo, chưa nghiêm và
quyết liệt nên xảy ra tình trạng liên tục vi phạm. Hầu như những vi phạm này
không bị xử lý, hoặc nếu có thì cũng chỉ ở hình thức nhắc nhở, cảnh báo hay
cùng lắm là đưa vào diện kiểm soát. Chẳng hạn, trong thời gian qua, vi phạm về
công bố thông tin diễn ra một cách tràn lan và phổ biến trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, song hình thức xử phạt hành chính quá nhẹ, hầu như chỉ mang
tính chất nhắc nhở. Trong khi đó, trên thị trường chứng khoán Mỹ, công ty cổ
phần CAVICO – Công ty duy nhất của của Việt Nam niêm yết trên NASDAQ đã
bị buộc phải hủy niêm yết do không nộp báo cáo tài chính năm 2010 đúng thời
hạn.
Hình thức đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán chủ yếu là phạt tiền với mức phạt cao nhất là dưới 100 triệu đồng đối với
một hành vi, trường hợp đặc biệt thì dưới 500 triệu nhưng mức phạt quá thấp so
với mức độ nghiêm trọng cũng như các khoản thu lời bất chính thực tế của tổ
chức, cá nhân có hành vi thao túng thị trường, không phù hợp với điều kiện thực
tế của thị trường chứng khoán. Với mức phạt không tương ứng thì ngoài việc
hưởng lợi rất lớn khi những khoản thu lời bất chính có thể lên tới hàng tỉ, hàng
chục tỉ đồng nhưng chỉ bị phạt hành chính từ 50 - 70 triệu đồng đã làm mất đi

tính trừng trị nhằm cảnh báo đối với các hành vi khác, hầu hết các hình thức xử
lý chưa mang lại hiệu quả về mặt răn đe, phòng ngừa đối với các hành vi tương
tự có thể tiếp tục diễn ra trên thị trường chứng khoán. Mặc dù đã có những quy
định về hình phạt bổ sung là tịch thu toàn bộ giá trị thu lời bất chính nhưng cũng
23


không có bất kỳ cơ chế thực hiện nào cụ thể, các văn bản quy định về việc này
thể hiện sự chồng chéo đối với thẩm quyền xử lý và điều đáng quan tâm nhất là
Uỷ ban chứng khoán nhà nước không hề có thẩm quyền đối với việc tổ chức
thực hiện quyết định cưỡng chế tịch thu toàn bộ lợi nhuận bất chính của các tổ
chức, cá nhân vi phạm.
Trong năm 2009, Bộ Luật hình sự sửa đổi cũng đã đưa ra các quy định mới
về việc xử lý hình sự đối với các hành vi thao túng thị trường, giao dịch nội gián
nhưng trên thực tế các quy định này hầu như không thực hiện được vì chưa có
hướng dẫn áp dụng cụ thể, phân biệt rõ mức độ nguy hiểm để có thể truy tố hình
sự đối với các hành vi này.
Bốn là, sự phối hợp và phân công trách nhiệm giữa hai cấp giám sát còn
nhiều còn bị trùng chéo, thiếu rõ ràng. Giữa hai cấp giám sát Ủy ban chứng
khoán nhà nước và các Sở giao dịch chứng khoán chưa hình thành một quy trình
giám sát đồng bộ, nhất quán; chưa có sự phân định rõ ràng về phạm vi, trách
nhiệm và thẩm quyền của từng cấp. Cơ chế trao đổi thông tin giữa hai cấp không
còn đảm bảo sự phối kết hợp.Thông tin cục bộ sẽ làm kết quả phân tích, đánh
giá không chính xác, công tác giám sát đi chệch hướng và có thể dẫn đến tình
trạng hoạch định chính sách sai lệch.
5. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thanh tra, giám sát đối với thị
trường chứng khoán
Một là, tiếp tục hoàn chỉnh khung pháp lý cho lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Trong thời gian tới, thị trường chứng khoán không ngừng
phát triển với quy mô, tính chất phức tạp ngày càng tăng, một số sản phẩm mới,

như: chứng khoán phái sinh, các sản phẩm quỹ mới (ETF, quỹ hưu trí, quỹ bất
động sản…) ra đời, đòi hỏi cơ quan quản lý phải tích cực chủ động để ban hành
các văn bản pháp luật để điều chỉnh, giám sát các nội dung này.
Hai là, tăng cường, bổ sung quyền cho cơ quan quản lý giám sát hoạt động
của thị trường chứng khoán trong công tác giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm.
24


Mặc dù một số hành vi vi phạm đã được lượng hóa và có chế tài xử lý hình sự
để đảm bảo tính răn đe (Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán; Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng
khoán; Tội thao túng giá chứng khoán), song với nhiều vi phạm, Ủy ban chứng
khoán nhà nước lại không đủ thầm quyền để tham gia xử lý. Do đó, cần cân
nhắc xem xét đến khả năng trao cho Ủy ban chứng khoán nhà nước thẩm quyền
cao hơn trong thẩm vấn hoặc điều tra các vi phạm, hoặc tạo ra một cơ chế phối
hợp chặt chẽ giữa Ủy ban chứng khoán nhà nước, công an và tòa án để giải
quyết, xử lý vi phạm.
Ba là, hiện đại hóa, điện tử hóa hạ tầng công nghệ và đào tạo nhân lực cho
công tác giám sát và thanh tra xử lý vi phạm. Hiện tại, Ủy ban chứng khoán nhà
nước đã bước đầu triển khai một số hệ thống hỗ trợ cho công tác giám sát, như:
MSS (giám sát giao dịch), IDS (công bố thông thông tin). Tuy nhiên, cần tiếp
tục hoàn thiện hệ thống công nghệ giám sát, kết nối dữ liệu với các Sở giao dịch
chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán để tăng cường quản lý tổ chức
kinh doanh chứng khoán, tổ chức phát hành… Từ đó, xây dựng hoàn chỉnh hệ
thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác giám sát, thay thế cho công tác giám
sát thủ công. Song song với đó, là việc nâng cao năng lực cán bộ giám sát các
cấp. Yêu cầu của công tác giám sát giao dịch đòi hỏi cán bộ giám sát phải có các
kỹ năng chuyên môn về phân tích, xử lý dữ liệu; kỹ năng tiếp xúc với các đối
tượng giám sát thuộc nhiều thành phần khác nhau; cũng như khả năng vận hành
hệ thống công nghệ phục vụ cho công tác giám sát.

Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin và phân công trách
nhiệm giữa Ủy ban chứng khoán nhà nước với các bộ, ngành liên quan, với các
Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, các công ty chứng
khoán, nhà đầu tư, các ngân hàng giám sát trong triển khai công tác giám sát
giao dịch. Dù đã có cơ chế phối hợp hoạt động trong công tác giám sát giữa hai
cấp giám sát Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán và Trung
tâm Lưu ký Chứng khoán (Quyết định số 689), nhưng sự phối hợp này chưa có
25


×