Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc bảo vệ an ninh môi trường tại huyện hoài đức, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.63 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

HỒ TRUNG NGHĨA

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG VIỆC BẢO VỆ AN NINH MÔI TRƯỜNG TẠI
HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

HỒ TRUNG NGHĨA

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG VIỆC BẢO VỆ AN NINH MÔI TRƯỜNG TẠI
HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản trị An ninh phi truyền thống
Mã số: 8900201.05QTD

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thắng

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam kết rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên cứu
của chính tác giả thu được chủ yếu trong thời gian học tập, nghiên cứu và chưa được
công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Những kết quả nghiên cứu và tài liệu trích dẫn của các công trình nghiên cứu
khoa học/tài liệu khác (trích dẫn, bảng, biểu, công thức, đồ thị cùng những tài liệu
khác) được sử dụng trong luận văn này đã được các tác giả đồng ý và có trích dẫn cụ
thể.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn, Khoa Quản trị
và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội, và pháp luật về những cam kết nói trên.


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học cao học và làm luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn giúp đỡ quý báu của rất nhiều người.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo khoa, các thầy cô đã tận tình
giảng dạy trong quá trình tôi theo học tại nhà trường. Đặc biệt, tôi xin chân thành
cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thắng đã rất tận tình quan tâm, hướng dẫn và góp ý
cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng xin chân thành cảm
ơn các thầy cô giáo và những cán bộ Khoa Quản trị và kinh doanh.
Tôi xin chân thành cảm ơn các doanh nghiệp đã tham gia khảo sát, cung cấp
thông tin và tạo điều kiện để tôi hoàn thành công trình nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin được cám ơn các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã hỗ trợ
và động viên tôi trong toàn bộ thời gian khóa học này.



MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT
1
2
3

Ký hiệu viết tắt
BSCI
CSR
ISO

Nguyên nghĩa
Tuân thủ trách nhiệm xã hội trong kinh doanh
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế

6


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

7



8


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa khiến các doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhà hoạch định chính
sách, các tổ chức phi chính phủ… trên toàn thế giới ngày càng quan tâm hơn tới ảnh
hưởng của doanh nghiệp đến môi trường xã hội và phúc lợi cộng đồng. Trước xu
hướng này, các doanh nghiệp muốn phát triển bền vững thì ngoài nhiệm vụ tăng lợi
nhuận, duy trì tăng trưởng dài hạn còn phải tuân theo những chuẩn mực về trách
nhiệm xã hội liên quan đến bảo vệ môi trường, an toàn lao động, đảm bảo quyền lợi
và đối xử công bằng, có kế hoạch, chiến lược trong đào tạo, bồi dưỡng nhân viên và
phát triển cộng đồng... Bản thân việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội cũng sẽ góp
phần xây dựng hình ảnh và thương hiệu của doanh nghiệp đối với cộng đồng. Từ đó,
doanh nghiệp sẽ có uy tín cao, được hưởng lợi từ việc hàng hóa và dịch vụ của mình
được tiêu thụ tốt hơn, doanh nghiệp có cơ hội thu hút và giữ chân được người giỏi
tốt hơn. Vì vậy, việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng khả năng cạnh
tranh bền vững và lâu dài của doanh nghiệp trên thị trường.
Bên cạnh những chỉ tiêu ISO14001, BSCI về bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững được nhiều người biết tới ở Việt Nam, ngày 1 tháng 11 năm 2010, tổ chức
Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) đã chính thức cho ra mắt tiêu chuẩn về trách nhiệm xã
hội ISO 26000. Đây thực sự là một mắt xích quan trọng giúp các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tìm ra phương pháp chiến lược để tiếp cận và thực hiện trách nhiệm xã hội.
Bộ tài liệu này được coi là một chuẩn mực quan trọng trong việc truyền bá, định
hướng, hướng dẫn thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thực tế tại Việt Nam, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang
là một định hướng và được các bên liên quan khuyến khích doanh nghiệp thực hiện.
Các chủ trương, chính sách, quy định liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp được đề cập đến trong nhiều văn kiện và các bộ Luật hiện hành như Luật lao
động, Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ người tiêu dùng, Luật Bình đẳng giới...
Việc thực hiện trách nhiệm xã hội là một công việc không thể bỏ qua trên con đường
hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam, bởi nó vừa mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp, vừa mang lại lợi ích cho xã hội, đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh của
9


doanh nghiệp, của quốc gia. Thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các doanh nghiệp
Việt Nam là sự cần thiết khách quan, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội thì sẽ không thể tiếp
cận được với thị trường thế giới, thậm chí tự loại mình ra khỏi thị trường và cộng
đồng doanh nghiệp.
Huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội trong những năm vừa qua đã có những
bước phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế, đạt khoảng 11,3%. Cơ cấu kinh
tế dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ (chiếm trên 90% của cơ
cấu kinh tế cả huyện). Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển với
hơn 2.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, và 12 làng nghề nằm trong 12 cụm công nghiệp
với tổng diện tích hơn 278 ha. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp của các doanh
nghiệp trên địa bàn cho phát triển kinh tế của huyện, việc kiểm tra về lĩnh vực môi
trường trong thời gian vừa qua cho thấy, số doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong các
làng nghề đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải vẫn còn thấp. Việc chấp hành
các quy định về bảo vệ môi trường tại một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh được
kiểm tra còn chưa thường xuyên và nghiêm túc; còn hiện tượng xả nước thải vượt
quy chuẩn cho phép...
Đứng trước thực trạng đó, học viên nhận thấy việc thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp trên khía cạnh bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội sẽ không chỉ góp phần vào việc phát triển doanh nghiệp
tại địa phương mà còn giúp cho môi trường sống được trong sạch hơn. Chính vì vậy
mà học viên chọn đề tài “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc bảo vệ an

ninh môi trường tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ quản
trị an ninh phi truyền thống.

10


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility - CSR) được chính thức định hình lần đầu vào năm 1953, khi
H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã hội của doanh
nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) nhằm mục đích tuyên truyền và
kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người
khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp làm
tổn hại cho xã hội.
Thực tế thì trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp phản ánh sự mong đợi của xã
hội ở những thời điểm cụ thể, và do đó có thể thay đổi theo thời gian. Do đó, nội
hàm trách nhiệm xã hội hoàn toàn mở và được điều chỉnh và thay đổi theo thời gian.
Hoặc thậm chí, tùy theo mỗi tổ chức, công ty, chính phủ họ có những nhìn nhận CSR
dưới những góc độ và quan điểm riêng, phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình
độ phát trển của mình. Keith Davis (1973) cho rằng “CSR là sự quan tâm và phản
ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu
pháp lý, kinh tế, công nghệ”. Quan điểm này đã chỉ ra rằng CSR là kỳ vọng của xã
hội (gián tiếp thừa nhận tiêu chuẩn cho CSR có thể thay đổi). Tuy nhiên, khái niệm
này còn khá mơ hồ khiến cho các tổ chức, doanh nghiệp khó có căn cứ và định
hướng để thực hiện. Trong khi đó, Carroll (1999) cho rằng CSR bao gồm tất cả các
khía cạnh liên quan đến kinh tế, pháp lý, đạo đức, và từ thiện.
Ngày này, các doanh nghiệp đã và đang sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai
thác các nguồn lực tự nhiên và trong quá trình đó họ gây ra những tác động không
tốt đối với môi trường tự nhiên và cộng đồng. Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, doanh
nghiệp còn phải có trách nhiệm xã hội đối với môi trường, cộng đồng, người lao

động, v.v… Ngày nay, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã bao hàm nhiều khía
cạnh hơn như được nêu trong bộ tiểu chuẩn ISO 26000 gồm: (i) Bảo vệ môi trường;
(ii) Hoạt động và cạnh tranh minh bạch; (iii) Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người
tiêu dùng; (iv) Phát triển và có trách nhiệm với cộng đồng; (v) Thực hành lao động
và quan hệ tốt với người lao động; (vi) Quản trị tổ chức và Đảm bảo lợi ích cho cổ
đông; (vii) Thực hiện và tuân thủ quyền con người.
11


Đối với hoạt động kinh doanh có trách nhiệm và bảo vệ môi trường, khi doanh
nghiệp quan tâm đến việc ngăn ngừa ô nhiễm và sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền
vững, kết quả có thể đem lại là hiệu suất cho doanh nghiệp. Thực tế kinh nghiệm
quốc tế chỉ ra rằng, lợi ích từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã
mang lại lợi nhuận về tài chính có thể đo lường được cho doanh nghiệp là giảm chi
phí năng lượng hoặc xử lý chất thải, từ đó giúp doanh nghiệp có được giá cả cạnh
tranh hơn.
Tại Việt Nam, bên cạnh các dự án do các tổ chức phi chính phủ tài trợ về xây
dựng và nâng cao năng lực thực hiện trách nhiệm xã hội cho các Doanh nghiệp Việt
Nam, giới nghiên cứu cũng bắt đầu có những bài viết, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực
này. Nigel Twose và Tara Rao (2003) đã thực hiện nghiên cứu và đề xuất các giải
pháp nhằm thúc đẩy sự cam kết của chính phủ các quốc gia đang phát triển đối với
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam, trong khi Shizuo Fukada (2007) đã
có nghiên cứu về việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhật Bản tại
Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Thắng (2010) cũng đã có nghiên cứu về vấn đề gắn quản trị nhân
sự với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trong đó, tác giả đã chỉ ra các xu thế về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và hướng dẫn việc lồng ghép các hoạt động
quản trị nhân sự với thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Các tác giả
khác, Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008), đã có bài viết về trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp tiếp cận từ góc nhìn chính sách đối với việc khuyến khích doanh

nghiệp Việt Nam thực hiện trách nhiệm xã hội. Các tác giả này cũng chỉ ra những tồn tại
và yêu cầu đổi mới trong tư duy quản lý nhà nước về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp tại Việt Nam.
Từ thực tế tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy đã có một số học giả nghiên
cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với việc bảo vệ an ninh môi trường tại các
quận huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội rất ít. Vì vậy, học viên cho rằng chúng ta
cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với việc
bảo vệ an ninh môi trường trên địa bàn Hà Nội nhằm đề xuất các giải pháp góp phần
phát triển bền vững môi trường Hà Nội trong các năm tới.
12


3. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu chung

Nghiên cứu trích nhiệm xã hôi của doanh nghiệp trong việc bảo vệ an ninh
môi trường tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
b. Mục tiêu cụ thể
-

Hệ thống hoá cơ sở lý thuyết liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp.

-

Đánh giá thực trạng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại huyện Hoài
Đức, thành phố Hà Nội trong việc bảo vệ an ninh môi trường.

-


Đề xuất các giải pháp nhằm giúp cho doanh nghiệp thực hiện thành công
trách nhiệm xã hội đối với việc bảo vệ an ninh môi trường trên địa bàn
huyện.

4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp trên khía cạnh môi trường tại các doanh nghiệp huyện Hoài Đức,
thành phố Hà Nội. Luận văn cũng xem xét việc thực hiện hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp đối với vấn đề an ninh môi trường trên địa bàn huyện và đưa ra
các giải pháp giúp cho các bên liên quan tại địa bàn huyện Hoài Đức thực hiện thành
công vấn đề an ninh môi trường, góp phần vào sự phát triển bền vững của huyện.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Học viên sẽ nghiên cứu việc thực hiện trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Luận văn này
cũng sẽ làm rõ thêm sự đóng góp của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trên khía cạnh môi trường sẽ góp phần vào việc bảo vệ an ninh môi trường
trên địa bàn huyện.
Phạm vi thời gian: Luận văn sẽ nghiên cứu việc thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp trên khía cạnh môi trường sẽ góp phần vào việc bảo vệ an ninh
13


môi trường trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2015 –
2019. Luận văn cũng sẽ dùng số liệu khảo sát tại các doanh nghiệp trên địa bàn
huyện về việc thực hiện trách nhiệm xã hội và phỏng vấn trực tiếp chuyên gia về vấn
đề an ninh môi trường thời gian tháng 6/2019.
6. Phương pháp nghiên cứu
Học viên dự định sẽ khảo sát 100 doanh nghiệp trên địa bàn huyện về việc thực
hiện trách nhiệm xã hội trong tháng 6/2019. Các phiếu điều tra sử dụng thang đo

likert 5 mức độ, kết quả khảo sát thu về họp lệ sẽ được xử lý bằng phương pháp
thống kê toán học. Phương pháp phân tích thống kê mô tả được sử dụng để mô tả đặc
tính của các biến trong bảng khảo sát như giá trị trung bình, tỷ lệ phần trăm, nhằm
làm sáng tỏ các đặc điểm của mẫu khảo sát theo những tiêu chí đã được xây dựng
trong phiếu điều tra. Sử dụng phương pháp phân tích chi tiết, phương pháp so sánh,...
để làm rõ kết quả nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu sau khi được xử lý sẽ được
trình bày trong luận văn dưới dạng các bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị… Bên cạnh đó,
học viên cũng sẽ phỏng vấn chuyên gia nhằm kiểm chứng lại các kết quả khảo sát và
đưa ra bức tranh tổng thể về việc gắn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với việc
bảo vệ an ninh môi trường trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội trong
thời gian qua.

Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã áp dụng quy trình nghiên cứu và các
phương pháp cụ thể sau đây:

14


Lý thuyết về CSR và an ninh môi trường

Xác định các trụ cột chính của CSR trên khía cạnh môi trường

Nghiên cứu định tính

Câu hỏi khảo sát

Chọn mẫu, thu thập dữ liệu

Nghiên cứu định lượng


Phân tích và bình luận

Kết quả

Tổng hợp và so sánh

Gợi ý, khuyến nghị, kết luận

Hình 1: Quy trình nghiên cứu

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương chính dưới đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc
bảo vệ an ninh môi trường
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
trong việc bảo vệ an ninh môi trường trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà
Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trong việc bảo vệ an ninh môi trường trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố
Hà Nội
15


16


CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA
DOANH NGHỆP TRONG VIỆC BẢO VỆ AN NINH MÔI TRƯỜNG


1.1. Cơ sở lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
1.1.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility - CSR)
ra đời vào năm 1953 trong cuốn sách của H.R.Bowen với nhan đề “Trách nhiệm xã
hội của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) nhằm mục đích
tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi
ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các
doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Kể từ đó, chủ đề này đã gây ra cuộc tranh luận
sôi nổi giữa hai trường phái quản trị “đại diện” và “đa bên” trong quản trị công ty;
trên bình diện lớn hơn, đây là sự tranh chấp giữa chủ nghĩa tư bản tự do (bảo thủ,
cánh hữu) và chủ nghĩa tư bản xã hội (dân chủ, cánh tả). Nội dung chính của cuộc
tranh luận xoay quanh hai vấn đề then chốt trong CSR là: (i) bản chất của doanh
nghiệp hiện đại, và (ii) mối quan hệ ba bên: doanh nghiệp - xã hội - nhà nước.
Trường phái phản đối trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cho rằng các
chương trình của doanh nghiệp lấy tên “trách nhiệm xã hội” chỉ là những chương
trình truyền thông với mục tiêu cuối cùng vẫn là vì lợi nhuận của doanh nghiệp mà
thôi. Những người ủng hộ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không bác bỏ toàn
bộ những lập luận trên. Nhưng họ đưa ra một lập luận khác cũng hết sức thuyết phục
là bản thân công ty khi đi vào hoạt động đã là một chủ thể của xã hội, sử dụng nguồn
lực của xã hội và môi trường, do đó có thể tác động tiêu cực tới xã hội và môi
trường. Vì vậy, doanh nghiệp phải có ý thức về những tác động từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình và có trách nhiệm với chính hành vi của mình trước xã hội.
Henry Mintzberg đã lấy ví dụ công ty Dow Chemicals quyết định bán chất Napalm
cho quân đội Mỹ để sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, để lại hậu quả nặng nề cho
hàng triệu nạn nhân chất độc da cam. Có thể nói bản chất của doanh nghiệp không
thể chỉ vì lợi nhuận mà doanh nghiệp ngay từ đầu đã đóng vai trò quan trọng trong
việc góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn.
17



Một số học giả cho rằng doanh nghiệp có thể hoạt động vì lợi nhuận nhưng cần bù
đắp lại chi phí xã hội, cũng như “trả tiền” cho các dịch vụ công mà doanh nghiệp hưởng
lợi thông qua việc đóng thuế, chúng ta sẽ thấy những ô nhiễm môi trường và chi phí xã
hội mà doanh nghiệp gây ra có thể lớn hơn rất nhiều lần lợi ích mà công ty này mang lại
từ tiền thuế hay tạo việc làm (như trường hợp công ty Vedan). Nhà quản trị với tư cách
là người quản lý doanh nghiệp cần thực hiện các trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp vì nghĩa vụ và lợi ích của chính doanh nghiệp mình. Trách nhiệm của họ
không phải là việc quyết định điều gì tốt hay xấu cho xã hội, mà là đáp ứng những
điều mà xã hội mong muốn và trông đợi ở doanh nghiệp như một thành viên đầy đủ
trong đó. CSR chính là lực cản cuối cùng giúp giữ doanh nghiệp không đi quá đà vì
lợi ích kinh tế mà vi phạm các chuẩn mực đạo đức (vốn không phải lúc nào cũng
được thể hiện đầy đủ bằng các quy định pháp luật), bỏ quên những tác động tiêu cực
của mình đến các thành phần khác trong xã hội.
Thực hiện trách nhiệm xã hội cũng góp phần giúp cho doanh nghiệp phát triển
bền vững. Thực tế cho thấy người tiêu dùng và nhà đầu tư ngày càng tính đến các
tiêu chí thành tích của công ty về đạo đức, lao động, môi trường, xã hội trong các
quyết định tiêu dùng hay đầu tư của mình. Hơn thế nữa, không chỉ liên quan đến tính
cạnh tranh, CSR còn liên quan trực tiếp đến tính bền vững của công ty. Những vụ đổ
vỡ của tập đoàn Enron, công ty kiểm toán Arthur Anderson, hoặc ngay vụ các cây
xăng gian lận bị rút giấy phép là những minh chứng rõ nét nhất cho thấy rằng thiếu
CSR, doanh nghiệp sẽ tự loại mình ra khỏi thị trường và cộng đồng doanh nghiệp.
Chính vì vậy mà tổ chức ISO đã xây dựng bộ tiêu chuẩn ISO 26000 (ra đời năm
2010) về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp như một tài liệu hướng dẫn các doanh
nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội.
Tại Việt Nam, bên cạnh các dự án do các tổ chức phi chính phủ tài trợ về xây
dựng và nâng cao năng lực thực hiện CSR cho các Doanh nghiệp Việt Nam, giới
nghiên cứu cũng bắt đầu có những bài viết, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này. Nigel
Twose và Tara Rao (2003) đã thực hiện một báo cáo có tiêu đề “Thúc đẩy sự cam kết
của chính phủ các quốc gia đang phát triển đối với trách nhiệm xã hội của Doanh
nghiệp: Kết luận và kiến nghị từ Việt Nam”. Shizuo Fukada (2007) đã có nghiên cứu

về Trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp tại Việt nam, thực trạng, tầm nhìn và thách
thức đối với các Doanh nghiệp Nhật Bản, trong khi Nguyễn Ngọc Thắng (2010) đã
18


có nghiên cứu về vấn đề gắn quản trị nhân sự với trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Trong đó, tác giả đã chỉ ra các xu thế của CSR và hướng dẫn việc lồng ghép
các hoạt động quản trị nhân sự với thực hiện trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp.
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008) cũng đã có bài viết về Trách nhiệm xã hội
của Doanh nghiệp, một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước đối
CSR ở Việt nam, đăng trên tạp chí Quản lý Kinh tế số 23. Tại đó, các tác giả lược lại
các cuộc tranh luận về CSR và quá trình hình thành khái niệm CSR, điểm lại một số
thực trạng thực hiện CSR tại Việt nam. Các tác giả cũng chỉ ra những tồn tại và yêu cầu
đổi mới trong tư duy quản lý nhà nước về CSR tại Việt Nam.
Bên cạnh những công trình kể trên, một số tác giả khác với nhiều cách tiếp cận
khác nhau đã cung cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ liệu rất quan trọng liên
quan đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Tuy nhiên các công
trình này hầu hết chưa đi sâu vào nghiên cứu từng khía cạnh cụ thể của trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp, cụ thể là 7 khía cạnh được đề cập trong Tiêu chuẩn ISO
26000:2010. Những kết quả nghiên cứu đã nêu cũng là cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng mà tác giả tham khảo trong quá trình hoàn thành luận văn này và trong
những công trình nghiên cứu của mình về sau.
1.1.2. Xu hướng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa khiến cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào
đều có thể dễ dàng tìm kiếm và truy cập để biết về mọi thông tin về các quyết định
và các hoạt động của các doanh nghiệp. Điều này cũng có nghĩa là các quyết định và
các hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị giám sát một cách kỹ lưỡng bởi nhiều
bên liên quan. Việc này khiến cho các doanh nghiệp cần tìm ra được những cách
thức để triển khai công việc và giải quyết vấn đề sao cho an toàn và có lợi nhất trước
sự phán xét của công chúng thế giới. Chính sách hoặc thực tiễn áp dụng của các

doanh nghiệp tại các địa điểm khác nhau có thể dễ dàng được so sánh. Bên cạnh đó,
hội nhập và toàn cầu hóa khiến các doanh nghiệp phụ thuộc nhau không chỉ ở góc độ
địa lý mà còn do tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này khiến cho các vấn đề
xảy ra trên phạm vi thế giới đều có thể ảnh hưởng đến những doanh nghiệp cụ thể, ở
những địa chỉ cụ thể. Điều quan trọng là các tổ chức, doanh nghiệp cần xác định
được rõ các trách nhiệm xã hội của mình mà không cần phân biệt hoàn cảnh xã hội
hoặc trình độ phát triển kinh tế. Các công cụ như Tuyên bố Rio về Môi trường và
19


Phát triển, Tuyên bố Johannesburg về Phát triển bền vững, các Mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ và Tuyên bố ILO về các nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc
đã nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau trên toàn thế giới này.
Trong những thập kỷ gần đây, toàn cầu hóa đã dẫn đến sự gia tăng ảnh hưởng
của các tổ chức khác nhau - bao gồm cả những tổ chức của khu vực tư nhân, các tổ
chức phi chính phủ và tổ chức chính phủ đối với cộng đồng và môi trường. Trong
thời gian của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, tổ chức nên tìm cách duy trì
hoạt động của họ liên quan đến trách nhiệm xã hội. Cuộc khủng hoảng như vậy có
tác động đáng kể đến các nhóm có lợi ích dễ bị tổn thương, và do đó cho thấy một
nhu cầu lớn hơn đối với trách nhiệm xã hội tăng lên. Sự mong đợi của xã hội về việc
thực hiện của các doanh nghiệp tiếp tục phát triển. Một số lượng ngày càng tăng của
các tổ chức được giao tiếp với các bên liên quan của họ, bao gồm cả việc lập các báo
cáo trách nhiệm xã hội, để đáp ứng nhu cầu của họ để biết thông tin về hoạt động của
doanh nghiệp. Chính vì vậy mà CSR đã trở thành một phong trào thực thụ và trưởng
thành, phát triển rộng khắp thế giới. Hàng vạn bài báo, nghiên cứu, sách, tạp chí,
diễn đàn, trang web của các tổ chức phi chính phủ, giới khoa học, doanh nghiệp, nhà
tư vấn, báo chí và chính phủ nói về chủ đề CSR.
Thực tế cho thấy, người tiêu dùng tại các nước Âu-Mỹ hiện nay không chỉ quan
tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty làm ra sản
phẩm đó, có thân thiện với môi trường sinh thái, cộng đồng, nhân đạo, và lành mạnh.

Nhiều phong trào bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và môi trường phát triển rất
mạnh, chẳng hạn như phong trào tẩy chay thực phẩm gây béo phì nhằm vào các công
ty sản xuất đồ ăn nhanh, nước giải khát có ga; phong trào thương mại công bằng
FairTrade (bảo đảm điều kiện lao động và giá mua nguyên liệu của người sản xuất ở
các nước thế giới thứ 3), phong trào tẩy chay sản phẩm sử dụng lông thú, tẩy chay
sản phẩm bóc lột lao động trẻ em (nhằm vào công ty Nike, Gap), phong trào tiêu
dùng theo lương tâm.
Trước áp lực từ xã hội, hầu hết các công ty lớn đã chủ động đưa trách nhiệm xã
hội vào chương trình hành động của mình một cách nghiêm túc. Rất nhiều chương
trình đã được thực hiện như tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải carbon, sử dụng vật
liệu tái sinh, năng lượng mặt trời, cải thiện nguồn nước sinh hoạt, xóa mù chữ, xây
20


dựng trường học, cứu trợ, ủng hộ nạn nhân thiên tai, thành lập quỹ và trung tâm
nghiên cứu vắc-xin phòng chống Aids và các bệnh dịch khác ở các nước nhiệt đới,
đang phát triển. Có thể kể đến một số tên tuổi đi đầu trong các hoạt động này như
TNT, Google, Intel, Unilever,

CocaCola, GE, Nokia, HSBC, Levi Strauss,

GlaxoSmithKline, Bayer, DuPont, Toyota, Sony, UTC, Samsung, Gap, BP,
ExxonMobil… Hơn nữa, hầu hết các công ty đa quốc gia đều xây dựng các bộ quy
tắc ứng xử (code of conduct) có tính chất chuẩn mực áp dụng đối với nhân viên của
mình trên toàn thế giới. Lợi ích đạt được qua những cam kết CSR đã được ghi nhận.
Không những hình ảnh công ty được cải thiện trong mắt công chúng và người dân
địa phương giúp công ty tăng doanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tư
được thuận lợi hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân
viên với công ty cũng tăng lên, cũng như các chương trình tiết kiệm năng lượng giúp
giảm chi phí hoạt động cho công ty không nhỏ. Vì vậy, CSR đã có chỗ đứng khá

vững chắc trong nhận thức của giới doanh nghiệp. Một số trung tâm, viện nghiên
cứu về trách nhiệm doanh nghiệp đã được các trường đại học ở Mỹ thành lập. 78%
sinh viên ngành quản trị doanh nghiệp cho rằng chủ đề CSR nên được đưa vào các
chương trình giảng dạy.
1.1.3. Quá trình hình thành nội hàm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Thực tế cho thấy sự kỳ vọng của xã hội ở mỗi thời kỳ sẽ quyết định nội hàm
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và do đó có thể thay đổi theo thời gian. Chính
vì vậy mà khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một khái niệm mở,
được điều chỉnh và thay đổi theo thời gian. Lịch sử ghi nhận trách nhiệm xã hội được
sử dụng rộng rãi từ đầu những năm 70, mặc dù nhiều khía cạnh khác nhau của trách
nhiệm xã hội đã là chủ đề hành động của các tổ chức và chính phủ ngay từ cuối thế
kỷ 19 và thậm chí còn sớm hơn. Ban đầu, trách nhiệm xã hội ban đầu chỉ được tập
trung cho giới kinh doanh. Giờ đây, thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp” trở nên quen thuộc với mọi người hơn là thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội”.
Việc thực hiện trách nhiệm xã hội được coi là góp phần vào chiến lược phát triển bền
vững của doanh nghiệp.
Theo thời gian, khái niệm CSR đã trải qua quá trình thay đổi và phát triển với
những nội hàm khác nhau hoặc được bổ sung dần theo thời gian. Hoặc thậm chí, tùy
theo mỗi tổ chức, công ty, chính phủ, họ có những nhìn nhận CSR dưới những góc
21


độ và quan điểm riêng, phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát tr iển của
mình. Keith Davis (1973) đưa ra một khái niệm khá rộng “CSR là sự quan tâm và phản
ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý,
kinh tế, công nghệ”. Khái niệm này đã chỉ được ra CSR là kỳ vọng của xã hội (gián tiếp
thừa nhận tiêu chuẩn cho CSR có thể thay đổi). Tuy nhiên, khái niệm này còn khá mơ hồ
khiến cho các tổ chức, Doanh nghiệp khó có căn cứ và định hướng để thực hiện. Trong
khi đó, Carroll (1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hơn “là tất cả các vấn đề
kinh tế, pháp lý, đạo đức, và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi ở doanh

nghiệp trong mỗi thời điểm nhất định.”
TỪ THIỆN
ĐẠO ĐỨC
PHÁP LÝ
KINH TẾ

Hình 2: Mô hình kim tự tháp CSR của Carroll

Nguồn: Carroll (1999)

Theo mô hình kim tự tháp CSR của Carroll (1999), trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện:
(i) Trách nhiệm kinh tế - tối đa hóa lợi nhuận, cạnh tranh, hiệu quả và tăng trưởng,
là điều kiện tiên quyết bởi doanh nghiệp được thành lập trước hết từ động cơ tìm kiếm lợi
nhuận của doanh nhân. Hơn thế, doanh nghiệp là các tế bào kinh tế căn bản của xã hội. Vì
vậy, chức năng kinh doanh luôn phải được đặt lên hàng đầu. Các trách nhiệm còn lại đều
phải dựa trên ý thức trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp.
(ii) Trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính là một phần của bản “khế ước” giữa
doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước có trách nhiệm “mã hóa” các quy tắc xã hội, đạo
đức vào văn bản luật, để doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu kinh tế trong khuôn khổ
đó một cách công bằng và đáp ứng được các chuẩn mực và giá trị cơ bản mà xã hội
mong đợi ở họ. Trách nhiệm kinh tế và pháp lý là hai bộ phận cơ bản, không thể
thiếu của CSR.
22


(iii) Trách nhiệm đạo đức là những quy tắc, giá trị được xã hội chấp nhận
nhưng chưa được “mã hóa” vào văn bản luật. Thông thường, luật pháp chỉ có thể đi
sau để phản ánh các thay đổi trong các quy tắc ứng xử xã hội vốn luôn mới. Hơn
nữa, trong đạo đức xã hội luôn tồn tại những khoảng “xám”, đúng - sai không rõ

ràng; mà khi các cuộc tranh luận trong xã hội chưa ngã ngũ, chúng chưa thể được cụ
thể hóa vào luật. Cho nên, tuân thủ pháp luật chỉ được coi là sự đáp ứng những đòi
hỏi, chuẩn mực tối thiểu mà xã hội đặt ra. Doanh nghiệp còn cần phải thực hiện cả
các cam kết ngoài luật. Trách nhiệm đạo đức là tự nguyện, nhưng lại chính là trung
tâm của CSR.
(iv) Trách nhiệm từ thiện là những hành vi của doanh nghiệp vượt ra ngoài sự
trông đợi của xã hội, như quyên góp ủng hộ cho người yếu thế, tài trợ học bổng,
đóng góp cho các dự án cộng đồng… Điểm khác biệt giữa trách nhiệm từ thiện và
đạo đức là doanh nghiệp hoàn toàn tự nguyện. Nếu họ không thực hiện CSR đến
mức độ này, họ vẫn được coi là đáp ứng đủ các chuẩn mực mà xã hội trông đợi.
Đây là mô hình có tính toàn diện và khả thi cao, có thể được sử dụng làm
khuôn khổ cho tư duy chính sách của nhà nước về CSR. Hơn nữa, việc đặt trách
nhiệm kinh tế làm nền tảng không những thỏa mãn cả nhu cầu về lý thuyết “đại
diện” trong quản trị công ty, mà còn giải quyết được những hoài nghi về tính trung
thực trong các chương trình CSR của doanh nghiệp. Từ đó, vấn đề vì doanh nghiệp
hay vì xã hội sẽ được doanh nghiệp giải quyết bởi vì hai mục đích đó là không thể
tách rời. Ranh giới giữa các tầng trong “kim tự tháp” là luôn chồng lấn, tác động
bành trướng lẫn nhau. Việc tuân thủ quy định pháp luật chắc chắn đưa đến các chi
phí kinh tế cho doanh nghiệp. Và quy tắc đạo đức xã hội ngoài luật luôn mở rộng
(theo trình độ phát triển của xã hội), tạo áp lực lên hệ thống pháp luật, bắt buộc các
nhà làm luật phải luôn bám sát thực tiễn xã hội. Chính vì tính toàn diện và khả thi
cao mà mô hình CSR của Caroll đã được sử dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên, cách diễn
đạt của Caroll dường như khiến người ta hiểu rằng để phấn đấu thực hiện được nghĩa
vụ ở cấp cao hơn thì doanh nghiệp phải thỏa mãn được cấp thấp hơn trước và có sự
phân biệt khá rạch ròi giữa đạo đức và từ thiện, giữa nghĩa vụ kinh tế và nghĩa vụ
pháp lý. Trên thực tế, các khía cạnh cần lồng ghép với nhau và thực hiện đồng thời
trong doanh nghiệp.
23



Sau đó, Matten và Moon (2004) đã đưa ra khái niệm trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp: “CSR là một khái niệm chùm bao gồm nhiều khái niệm khác như đạo
đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững
và trách nhiệm môi trường. Đó là một khái niệm động và luôn được thử thách trong
từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù.” Như vậy, bản chất của CSR là quan
điểm về vai trò của doanh nghiệp trong mối tương quan với vai trò của nhà nước
khiến khái niệm CSR luôn biến đổi, luôn mới tùy thuộc không những phạm vi không
gian mà còn thời gian nơi cuộc tranh luận về CSR diễn ra.
Để tạo sự thống nhất cho một tiêu chuẩn chung đối với khái niệm Trách nhiệm
xã hội, tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) nhận thấy cần có sự thống nhất thành chuẩn
mực chung. Quá trình xây dựng tiêu chuẩn ISO 26000 được bắt đầu từ tháng 4/2001,
khi Hội đồng ISO đề nghị Ủy ban ISO về chính sách đối với người tiêu dùng
(COPOLCO) cân nhắc về việc phát triển một tiêu chuẩn về Trách nhiệm xã hội
Doanh nghiệp. Sau 9 năm rưỡi chuẩn bị, ISO 26000 đã được ban hành năm 2010 với
sự đóng góp tích cực của hàng trăm chuyên gia từ 99 quốc gia (thuộc 6 nhóm hữu
quan khác nhau) và 42 tổ chức liên lạc. Tiêu chuẩn này đã định nghĩa: Trách nhiệm
xã hội của tổ chức (trong đó có doanh nghiệp) về các hoạt động và quyết định của
mình đối với các hoạt động xã hội và môi trường, thông qua sự minh bạch hóa và
ứng xử có đạo đức, gồm việc: (i) có đóng góp đối với mục tiêu phát triển bền vững,
bao gồm chăm sóc sức khỏe và phúc lợi cho xã hội; (ii) quan tâm đến những mong
muốn và kỳ vọng của các bên liên quan trong các quyết định và hoạt động của tổ
chức; (iii) phù hợp với các quy định của pháp luật sở tại và phù hợp với các tiêu
chuẩn quốc tế, và (iii) được tích hợp thống nhất trên phạm vi toàn tổ chức và được
triển khai ở mọi sự liên hệ của tổ chức.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện trong ISO 26000 bao gồm
các yếu tố như: (i) Bảo vệ môi trường; (ii) Đóng góp cho cộng đồng xã hội; (iii)
Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; (iv) Bảo đảm lợi ích và an toàn cho
người tiêu dùng; (v) Thực hành lao động; (vi) Đảm bảo lợi ích cho cổ đông; và (vii)
Quyền con người trong doanh nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách
nhiệm bên ngoài của doanh nghiệp, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong,

nội tại của doanh nghiệp. Tất nhiên, sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách
nhiệm bên trong chỉ có ý nghĩa tương đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng
24


hơn trách nhiệm nào. Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc
thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát
triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung.

6.8*
Phát triển cộng đồng

6.7*
Người tiêu dùng

Tiếp cận tổng thể

6.2*
Quản trị
Tổ chức

6.6*
Hoạt động minh bạch

6.3*
Quyền con người

6.4*
Thực hành lao động


6.5*
Môi trường
Phụ thuộc lẫn nhau

* Các con số biểu thị số điều khoản trong ISO 26000

Hình 3: Cấu trúc 7 vấn đề trọng yếu Trách nhiệm xã hội của tổ chức.

Hình 3: Cấu trúc 7 vấn đề trọng yếu Trách nhiệm xã hội của tổ chức.
Nguồn: ISO 26000-2010
Các đặc tính thiết yếu của trách nhiệm xã hội là sự sẵn lòng của một tổ chức để
kết hợp các đặc điểm xã hội và môi trường trong việc đưa ra quyết định của mình và
chịu trách nhiệm về tác động của quyết định và các hoạt động của nó đối với xã hội
và môi trường. Điều này có nghĩa cả hai hành vi minh bạch và đạo đức góp phần vào
sự phát triển bền vững, phù hợp với pháp luật áp dụng và phù hợp với tiêu chuẩn
quốc tế của hành vi. Nó cũng ngụ ý rằng trách nhiệm xã hội được tích hợp toàn bộ tổ
chức, được thực hành trong mối quan hệ của nó và tính đến lợi ích của các bên liên
quan. Những bên liên quan sẽ quan tâm khi bị ảnh hưởng do những quyết định và
hoạt động của tổ chức. Mối quan tâm này khiến cho họ tạo thành bên có liên quan
với tổ chức và điều đó dẫn tới việc hình thành nên mối quan hệ với tổ chức. Các bên
liên quan có thể được đề cập tới như là “các bên quan tâm”. Nhằm xác định và ghi
nhận mối quan tâm của các bên liên quan, tổ chức cần cân nhắc tới trách nhiệm thực
thi đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý tới những mối quan tâm đó và họ cần phải trung
25


×