Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú hiện nay tại bệnh viện k cơ sở 1 quán sứ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.79 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

QUẢN ĐỨC DOANH

TIẾP CẬN DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH CỦA
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ HIỆN NAY TẠI BỆNH VIỆN K CƠ
SỞ 1 QUÁN SỨ – HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Chuyên ngành: Xã hội học

Hà Nội – 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

QUẢN ĐỨC DOANH


TIẾP CẬN DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH CỦA
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ HIỆN NAY TẠI BỆNH VIỆN K CƠ
SỞ 1 QUÁN SỨ – HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01

Giáo viên hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Văn Tùng



Hà Nội – 2017

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn với đề tài: “Tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của
bệnh nhân nội trú hiện nay tại bệnh viện K cơ sở 1 Quán Sứ - Hà Nội” là công trình
nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là trung thực và chưa hề được công bố. Mọi thông tin trích dẫn trong luận
văn được ghi rõ ràng nguồn gốc.
Học viên

Quản Đức Doanh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sỹ của tôi được hoàn thành nhờ vào sự nỗ lực của bản thân, sự
giúp đỡ của thầy cô, sự động viên gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:
Các thầy cô giáo Khoa Xã hội học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã truyền đạt cho tôi có những tri thức để thực hiện
đề tài này.
PGS.TS Trịnh Văn Tùng là người trực tiếp hướng dẫn tôi ngay từ lúc ban đầu
cũng như trong suốt quá trình thu thập thông tin và hoàn thiện báo cáo nghiên cứu
này.
Đặc biệt, tôi xin cám ơn Quý lãnh đạo, đội ngũ y bác sĩ, nhân viên bệnh viện,
bệnh nhân đang điều trị nội trú tại bệnh viện K cơ sở 1 Quán Sứ - Hà Nội đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thu nhập thông tin.
Gia đình và bạn bè cùng lớp cao học Xã hội học khoá 2014-2016 đã có nhiều



động viên, góp ý chân thành cũng như những thông tin quý giá trong quá trình học
tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Người thực hiện

Học viên Quản Đức Doanh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
K1
CSSKBĐ
YTCS
CSSK

Ý nghĩa
Bệnh viện K cơ sở 1 Quán Sứ - Hà Nội
Chăm sóc sức khỏe ban đầu
Y tế cơ sở
Chăm sóc sức khỏe


MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm trở lại đây, song song với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường, thì mạng lưới dịch vụ y tế đã được mở rộng, và xã hội hóa, đặc
biệt chất lượng của đội ngũ y bác sĩ cũng như số lượng giường bệnh đang được cải
thiện rõ rệt.
Thực tế hiện nay hệ thống cung cấp dịch vụ y tế đang quá tải, gây nhiều khó
khăn cho người bệnh, trước thực tế này, ngày 21/8/2012 Bộ Y tế đã họp bàn về đề
án quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030. Mục tiêu quan trọng của đề án là hướng tới đáp ứng đủ nhu cầu khám chữa
bệnh ngày càng cao của người dân. Đặc biệt, trong thời gian qua đã có nhiều chính
sách, giải pháp hỗ trợ cho người nghèo, người dân ở vùng khó khăn, vùng dân tộc ít
người. Tuy nhiên, sự tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh của các đối tượng này
vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. [36]
Từ khi các bệnh viện thực hiện Nghị định số 141/2016/NĐ-CP, quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công, thì việc phải
nâng cao chất lượng dịch vụ của các cơ sở y tế là một đòi hỏi cấp thiết. Trong
những năm gần đây, sự đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ (nhà nước,
dân lập và tư nhân) nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chăm sóc sức khoẻ
nhân dân. Chính sự đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ đã tạo ra thị
trường cạnh tranh trong lĩnh vực y tế. Do vậy, đã bắt buộc các cơ sở khám chữa
bệnh công lập phải nâng cao chất lượng về mặt dịch vụ bao gồm cơ sở vật chất,
trang thiết bị, môi trường, nguồn nhân lực và đặc biệt là mối quan hệ ứng xử giữa

cán bộ y tế với bệnh nhân. Với mục tiêu lấy người bệnh là trọng tâm, là khách hàng
trên cơ sở đó mọi hoạt động của bệnh viện đều nhằm mang lại chất lượng điều trị,
sự tiện nghi, thoải mái và làm hài lòng người bệnh. [37]
Bệnh viện K1 là cơ sở chuyên khoa đầu ngành của cả nước về phòng chống
ung thư, là nơi cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh thuộc chuyên khoa ung bướu
chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên phạm vi cả nước. Đây là bệnh
viện có hệ thống máy móc trang thiết bị phục vụ cho công tác chuẩn đoán và điều
1


trị ung thư vào loại hiện đại nhất trong cả nước, đặc biệt có ưu thế trong chuẩn đoán
mô bệnh học ung thư - phương pháp chuẩn đoán quan trọng nhất trong ung thư và
có đủ mọi phương tiện và thiết bị thực hiện trọn gói các phác đồ điều trị đa mô thức
của hầu hết các loại ung thư.
Bệnh viện K cơ sở 1 Quán Sứ là một trong những cơ sở tập trung nhiều bệnh
nhân ung thư từ nhiều tỉnh thành đến điều trị tại đây, để thấy rõ được việc tiếp cận
các dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú tại bệnh viện K1 đang ở mức độ
nào, tôi nghiên cứu đề tài: “Tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội
trú hiện nay tại bệnh viện K cơ sở 1 Quán Sứ – Hà Nội”. Với mục đích là tìm hiểu
mức độ tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú, đồng thời cũng lý
giải một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của
bệnh nhân.
2. Ý nghĩa nghiên cứu
2.1 Ý nghĩa lý luận
Đề tài mang một ý nghĩa khoa học nhất định, từ cách tiếp cận xã hội học với tư
cách là một bộ môn khoa học nghiên các mối quan hệ xã hội, quá trình xã hội hóa
cá nhân, đề tài này vận dụng hệ thống lý thuyết Xã hội học cơ bản như thuyết lựa
chọn hợp lý, lý thuyết nhu cầu của Maslow, lý thuyết hành động xã hội để lý giải
những vấn đề có liên quan tới khả năng tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh của
bệnh nhân nội trú tại bệnh viện K1 hiện nay.

Kết quả nghiên cứu của đề tài không những giúp đưa ra những luận điểm bổ
sung cho các lý thuyết Xã hội học mà còn nhằm làm rõ những phát hiện bằng những
nghiên cứu thực nghiệm.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Với kết quả nghiên cứu về việc tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh
nhân nội trú, sẽ làm sáng rõ khả năng tiếp cận dịch vụ, cũng như các yếu tố tác động
đến khả năng tiếp cận của bệnh nhân.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm cơ sở thực tiễn giúp cho các nhà
hoạch định chính sách, quản lý có cái nhìn xác thực hơn, từ đó có thể đưa ra những
chính sách phù hợp để giải quyết các vấn về tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh cho

2


bệnh nhân.
3. Tổng quan nghiên cứu
Nguyễn Đức Truyến (2000), “Quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân với tác động
của những yếu tố kinh tế xã hội”, tạp chí Xã hội học (2/2000). Bài viết đã giải thích
và phân tích về mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, đồng thời cũng chỉ rõ
các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ này bao gồm tôn giáo, văn hóa, xã
hội…vv. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa làm rõ được yếu tố thuộc về nhân khẩu học,
chính sách y tế có tác động như thế nào tới mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân.
Mặt khác, bài viết chưa phân tích sâu cơ hội tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của
bệnh nhân, mới chỉ nêu ra được giải pháp tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế cho
người dân bằng việc tăng cường chế độ phúc lợi cho người nghèo trong dịch vụ y tế
thay vì hạ giá các dịch vụ y tế. Trên cơ sở này, luận văn của tác giả sẽ làm rõ và cụ
thể hơn về khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người bệnh hiện nay. [20]
Nguyễn Quý Thanh (2001), “Những tác động xã hội của viện phí không
chính thức”, Tạp chí Xã hội học (3/2001). Dựa trên kết quả nghiên cứu “Tác động
của viện phí và bảo hiểm y tế tới sự công bằng về tài chính, tiếp cận và sử dụng các

dịch vụ y tế”, tác giả đã có những giải thích và phân tích về thực trạng của viện phí
không chính thức như thế nào? Những tác động của nó tới khả năng sử dụng các
dịch vụ y tế ra sao cũng như tới hoàn cảnh kinh tế của chính người bệnh, gia đình
họ thế nào? Bài viết đã đưa ra các kết luận xác đáng cho mức viện phí chính thức và
phi chính thức, hơn nữa tác giả còn cho biết hình thức chi phí bồi dưỡng cho đội
ngũ nhân viên y tế rất phổ biến, các chi phí cơ hội hội càng lớn càng làm người
bệnh không thể tiếp cận được các dịch vụ y tế. Kế thừa những luận điểm phân tích
nêu trên, với tác giả luận văn sẽ phân tích cụ thể hơn các yếu tố tác động khiến cho
người bệnh ít có cơ hội tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh. [24]
Trịnh Hòa Bình, Đào Thanh Trường (2004), “Vấn đề công bằng và khả năng
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các bệnh viện tư hiện nay”, Tạp chí Xã hội
học (2/2004). Bài viết được dựa trên một số kết quả của dự án nghiên cứu: “Bài
toán công bằng và hiệu quả trong vấn đề tài chính của bệnh viện tư ở Việt Nam hiện
nay” được thực hiện bởi phòng Xã hội học sức khỏe, Viện Xã hội học để đề cập tới

3


một số khía cạnh quan trọng xung quanh vấn đề cung cấp các dịch vụ Chăm sóc sức
khỏe của hệ thống bệnh viện tư ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, bài viết đề cập tới
một số đặc điểm và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các bệnh viện tư hiện
nay. Việc ra đời ngày càng nhiều của bệnh viện tư hiện nay đã gia tăng thêm cơ hội
cho người dân tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Mặt khác, các nguồn lực
từ cộng đồng sẽ được huy động thêm cho công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Mặc dù, bài viết đã chỉ ra được tình hình khám chữa bệnh, cơ hội tiếp cận, mức độ
hài lòng của người bệnh, song vẫn dừng ở mức độ mô tả tổng quát chung về khả
năng tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh, chưa phân tích cụ thể tình hình khám chữa
bệnh, khả năng tiếp cận của người bệnh như thế nào. [30]
Nguyễn Đình Tấn, (2014), “Một số yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận
dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người nghèo ở nước ta hiện nay”, tạp chí nghiên

cứu con người. Với mục đích nâng cao được tuổi thọ để hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững con người, cho nên việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khỏe cho người nghèo, tác giả bài viết đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới
cơ hội tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người nghèo. Những yếu tố mà tác
giả đã chỉ ra được như: chi phí khám chữa bệnh cao; khoảng cách địa lý đến cơ sở y
tế; phân bố cơ sở và cán bộ y tế; nhận thức của người dân. Mặc dù, đã chỉ ra được
các yếu tố tác động trực tiếp tới cơ hội tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh cho người
nghèo, song vẫn còn thiếu nhiều yếu tố khác. Chính vì vậy, luận văn này tác giả sẽ
phân tích thêm một số yếu tố tác động khác ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận dịch vụ
y tế như về nhân khẩu học, quan hệ xã hội hay chính sách. [18]
Đặng Kim Khánh Ly (2016), “Quan hệ xã hội trong việc tiếp cận dịch vụ
chăm sóc sức khỏe của người dân tại bệnh viện công hiện nay (Nghiên cứu trường
hợp một bệnh viện công Hà Nội)”, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được mối liên hệ giữa
các đặc điểm của mối quan hệ xã hội giữa người cung cấp dịch vụ và người hưởng
thụ dịch vụ đến sự hài lòng của người bệnh trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc. Bên
cạnh đó, luận án cũng đã nhận diện được những quan hệ xã hội cơ bản giữa người
cung cấp và người sử dụng dịch vụ. [10]
Tiếp cận các loại hình dịch vụ y tế của người dân trong điều trị, khám chữa
4


bệnh tại bệnh viện
Tác giả Ông Thị Mai Thương (2017), trong nghiên cứu “Tiếp cận và sử dụng
dịch vụ y tế của công nhân nhập cư tại khu công nghiệp” đã chỉ ra khả năng tiếp cận
các dịch vụ y tế của công nhân làm việc trong khu công nghiệp. Kết quả chỉ ra rằng,
công nhân muốn được sử dụng dịch vụ tốt, vì vậy họ có xu hướng tìm đến địa điểm
thuận lợi nhất có thể, cụ thể là: Có 92,3% số người được hỏi muốn được sử dụng
dịch vụ y tế gần nhà, 97,4% khi bị bệnh sẽ đi tới phòng khám tư nhân. Về việc sử
dụng thẻ BHYT, có 99% số người được hỏi có thẻ BHYT nhưng chỉ có 23,8% số

người sử dụng để đi khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những rào
cản ảnh hưởng tới việc công nhân đi khám, chữa bệnh hay tiếp cận các dịch vụ y tế
như thu nhập thấp, thói quen tự điều trị, áp lực kiếm tiền, thời gian làm việc dài, áp
lực công việc căng thẳng, tình trạng sống lưu động. Hay một số nguyên nhân từ
cộng đồng như cơ sở vật chất thiếu, đội ngũ y bác sĩ thiếu, thiếu thông tin về
chương trình chăm sóc sức khỏe. [26]
Mai Tuyết Hạnh (2017) trong bài viết “Sự hài lòng của người cao tuổi khi sử
dụng dịch vụ chăm sóc y tế bằng thẻ BHYT tại Hà Nội” đã chỉ ra một số khía cạnh
trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế tại bệnh viện ở Hà Nội. Cụ thể, tác giả chỉ ra tỷ
lệ người già sử dụng thẻ BHYT là rất lớn (84,1%). Đồng thời bài viết cũng chỉ ra
những ưu đãi của đối tượng người cao tuổi tham gia BHYT khi đi khám chữa bệnh
như họ được miễn giảm chi phí khám, chữa bệnh (54%), cấp thuốc miễn phí
(37,4%). Theo đánh giá của những người cao tuổi thì có 77,9% số người nói rằng
họ được hưởng lợi nhiều từ thẻ BHYT. [15]
Phan Thị Thúy Hà (2013), “Những yếu tố tác động đến việc tiếp cận dịch vụ y
tế của hộ nghèo ở thành thị (nghiên cứu tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An)”, trong
kỷ yếu hội thảo Chăm sóc sức khỏe những vấn đề xã hội và công tác xã hội. Tác giả
chỉ ra rằng có 97,4% số người nghèo được khảo sát (582 người nghèo) có thẻ
BHYT, trong đó tỷ lệ người sử dụng thường xuyên là 21,6% và 49,6% số người
thỉnh thoảng sử dụng. Một tỷ lệ khá lớn 32,5% số người chỉ sử dụng trong trường
hợp đặc biệt. Điều đó cho thấy rằng hiện còn nhiều rào cản để người dân có thể tiếp
cận với thẻ BHYT nhiều hươn nữa. [28]
Sự hài lòng của bệnh nhân trong việc tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của
5


bệnh nhân
Nguyễn Hải Long (2014) với nghiên cứu về sự hài lòng của khách hàng tới
dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh viện Mắt tỉnh Nghệ An. Kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra được những nhân tố mới để hình thành và lập ra mô hình nghiên cứu, đo

lường về sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện
Mắt Nghệ An. Những số liệu thu thập được từ nghiên cứu là đáng tin cậy để đo
lường về sự hài lòng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều yếu tố quan trọng:
(1) Về năng lực phục vụ, khách hàng đánh giá cao về tính liên hoàn trong phong
cách phục vụ của các bộ phận và đánh giá thấp thời gian y bác sỹ sử dụng khám
chữa bệnh hợp lý; (2) Về thông tin và hiệu quả, khách hàng được đánh giá qua
nhiều biến quan sát, họ đánh giá cao việc trả kịp thời và đầy đủ kết quả khám, chữa
bệnh nhưng lại đánh giá thấp phong cách làm việc thiếu khoa học. (3) Khách hàng
đánh giá cao “thái độ phục vụ ân cần của các nhân viên y tế khi có khách hàng tới
khám chữa bệnh” và đánh giá thấp “bệnh viện có đường dây nóng giải quyết các
vấn đề khách hàng phản ánh”. (4) Về cơ sở vật chất, khách hàng đánh giá cao sự
hợp lý trong việc bố trí, bảng chỉ dẫn thuận tiện cho người thăm hỏi” và đánh giá
thấp sự “khang trang, sạch sẽ”. Như vậy có thể thấy được, khách hàng đánh giá cao
nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu vẫn đánh giá ở mức độ bình thường về cả cơ sở vật
chất, thái độ phục vụ và các thông tin liên lạc trong quá trình khám chữa bệnh.[21]
Trương Việt Dũng và Cộng sự (2003) trong nghiên cứu “Nghiên cứu nhu cầu
và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại nội thành Hà Nội” đã chỉ ra rằng tần suất
ốm của một người/năm là 1,05 lượt, có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, trẻ em
(dưới 15 tuổi) và người cao tuổi (trên 60 tuổi) có tần suất ốm nhiều hơn gấp 2-3 lần
so với các nhóm tuổi khác. Bên cạnh đó không có sự khác biệt về giới ở các nhóm
tuổi khác nhau. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, khi ốm đa số người bệnh
lựa chọn việc mua thuốc về uống (36,5%), tiếp đến là tới khám chữa bệnh ngoại trú
tại các bệnh viện (27,6%), có thể tới các trạm y tế phường, xã (21%) và sau cùng
mới tới khu vực tư nhân (11,3%). Yếu tố tác động đến cách lựa chọn cơ sở khám
chữa bệnh quan trọng nhất là tính tiện lợi, trình độ chuyên môn, thái độ tốt, tình
trạng bệnh. Giá cả không thật quan trọng, trừ khi phải nằm điều trị nội trú tại bệnh
6


viện. [31]

Lê Thị Kim Ngân – Lê Thị Thu Trang (2014) với nghiên cứu “Đánh giá mức
độ hài lòng của bệnh nhân nội trú về chất lượng phục vụ tại bệnh viên đa khoa Cần
Thơ”. Nghiên cứu đã chỉ ra 04 nhóm nhân tố ảnh hưởng tới sự hài lòng của bệnh
nhân là: đáp ứng, chất lượng chăm sóc, chất lượng khám/điều trị, hữu hình đều có
mức ý nghĩa thống kê. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có sự khác nhau về sự
hài lòng của bệnh nhân ở các nhóm đối tượng có trình độ học vấn khác nhau và tình
trạng sức khỏe sau khi xuất viện khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy đánh giá
của người bệnh về sự hài lòng đối với các dịch vụ trong bệnh viện ở mức trung bình
cao hơn mức không có ý kiến nhưng lại thấp hơn mức hài lòng. Điều này cho thấy,
bệnh nhân vẫn chưa thực sự hài lòng về chất lượng phục vụ của bác sỹ, y tá khi
khám và điều trị nội trú tại đây. Từ đó, nhóm tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp đối
với bác sĩ, y tá nhằm nâng cao sự hài lòng của bệnh nhân về dịch vụ khám chữa
bệnh tại bệnh viện đa khoa Cần Thơ nói riêng và các bệnh viện nói chung. [14]
Nguyễn Đức Thành (2013) trong nghiên cứu “Đánh giá sự hài lòng của bệnh
nhân nội trú tại các bệnh viện tỉnh Hòa Bình”. Nghiên cứu đưa ra 04 yếu tố để đánh
giá mức độ hài lòng của bệnh nhân đối với chất lượng dịch vụ tại các bệnh viện tại
Hòa Bình: (1) Khía cạnh tiếp cận dịch vụ, trong đó có cả thời gian chờ đợi đăng ký
khám bệnh, thời gian chờ đợi khám chữa bệnh cần được giảm xuống dưới 30 phút,
tốt nhất ở mức khoảng 15 phút; (2) Khía cạnh giao tiếp và tương tác giữa nhân viên
y tế, bác sĩ và khách hàng: Các nhân viên y tế và bác sĩ cần được đào tạo về chất
lượng phục vụ và kỹ năng giao tiếp với khách hàng, nhất là thái độ tiếp xúc với
khách hàng; (3) Khía cạnh các vật thể hữu hình, đây là vấn đề các nhà quản lý cần
phải chú trọng nhiều nhất. Các bệnh viện cần phải được đảm bảo về cơ sở vật chất,
cần phải được xây mới hoặc cải tạo nhằm đáp ứng được nhu cầu khám và chữa
bệnh của bệnh nhân, trong quá trình đó cần phải đảm bảo tính liên hoàn giữa các
phòng ban. Các khoa cận lầm sàng được xây dựng sao cho việc đi lại của người
bệnh từ khoa khám bệnh tới khoa đó được thuận lợi và ít thời gian nhất. Trong các
khoa cần đảm bảo tốt về chăn ga, gối, đệm...(4) Khía cạnh chăm sóc sức khỏe thì
cần đảm bảo tốt công tác cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo theo Quyết định số
139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ; thủ tục thành toán chi phí khám chữa

7


bệnh tại bệnh viện. [19]
Đỗ Mạnh Hùng (2014) trong nghiên cứu “Thực trạng nhận thức và thực hành
y đức của điều dưỡng viên tại bệnh viện nhi trung ương và một số biện pháp can
thiệp” cho thấy hầu hết bệnh nhân hài lòng về tác phong phục vụ của điều dưỡng
viên tại bệnh viện Nhi Trung ương. Tuy nhiên vẫn còn có một số tồn tại liên quan
tới y đức của điều dưỡng viên như khách hàng phản ánh hành vi quát tháo bệnh
nhân của điều dưỡng viên 22,6%, hành vi đưa tiền cho điều dưỡng viên 18,5%.
Nghiên cứu quan sát trên các điều dưỡng viên và sự phản ánh của đồng nghiệp thì
tỷ lệ vi phạm dưới 6%. Trong mối quan hệ với đồng nghiệp thì điều dưỡng viên có
quan hệ tốt, tuy vậy vẫn có sự chia bè cánh gây mất đoàn kết nội bộ, tư tưởng cục
bộ chiếm 6,1%; phản ánh sai sự thật, mất uy tín đồng nghiệp 2,8%. Bên cạnh đó,
nhiều điều dưỡng viên vẫn chưa hiểu hết mối quan hệ giữa điều dưỡng viên với
bệnh nhân; việc nhận phong bì của bệnh nhân vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau giữa
các điều dưỡng viên. Trong số 08 tiêu chí đem ra đánh giá, tỷ lệ cao nhất là không
tôn trọng nhân phẩm, danh dự của bệnh nhi với 5,6% điều dưỡng viên. Các chỉ tiêu
khác cũng được đánh giá ở mức trên dưới 3%. [11]
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hân, Nguyễn Thị Hoàng Vân, Bũi Hữu Minh
Trí (2012) trong nghiên cứu “Thời gian chờ đợi khám bệnh và sự hài lòng của bệnh
nhân tại khoa khám bệnh BVMT An Giang từ 4-5/2012” cho thấy nhóm tác giả đã
xác định thời gian chờ đợi khám trung bình tại khoa khám bệnh là là 172 phút,
trong buổi sáng 111 phút, trong buổi chiều 98 phút, đăng ký sáng khám chiều 362
phút. Các yêu tố anh hưởng lên thời gian chờ đợi khám bao gồm thời điểm đăng ký
khám, có làm CLS hay không trong đó xét nghiệm có thời gian chờ lâu hơn chẩn
đoán hình ảnh. Có khoảng 23% BN tuy không làm CLS nhưng phải đợi đến chiều
để được khám. Có 65,2% bệnh nhân đánh giá thời gian chờ là lâu và rất lâu. Nhu
cầu khám dịch vụ là cao 61,3% và có liên quan với việc chưa hài lòng về thời gian
khám. Đa số người bệnh đánh giá lâu và rất lâu (65,2%). Qua đó có thể thấy bệnh

nhân chưa thực sự hài lòng về thời gian khám chưa bệnh của các bệnh viên. [25]
Nguyễn Mậu Duyên, Nguyễn Hoàng Lan (2008) trong “Nghiên cứu khả năng
tiếp cận với dịch vụ y tế của các hộ gia đình tại xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên Huế” cho thấy các hộ gia đình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh
8


ngoại trú là nhiều nhất ở trạm y tế (81,8%). Ngoài ra, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng dịch
vụ chữa bệnh nội trú vượt tuyến đến bệnh viện Trung ương Huế khá cao với 72%.
Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới việc tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh tại
các bệnh viện của người dân; gánh nặng tài chính y tế của các hộ gia đình nghèo và
cận nghèo lớn hơn so với các hộ gia đình có mức sống giàu, đặc biệt trong dịch vụ
chữa bệnh nội trú: chi tiêu cho y tế chiếm 19,3% tổng thu nhập ở hộ nghèo, so với
chỉ 0,6% ở các hộ giàu. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các hộ gia đình có nhiều
khoản chi cho y tế, nhưng khoản lớn nhất là thuốc. Từ những kết quả trên, nhóm
nghiên cứu đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế
của người dân như tăng cường đầu tư đồng bộ cho tuyến y tế cơ sở bao gồm tuyến y
tế xã, phòng khám đa khoa khu vực và bệnh viện tuyến huyện để đảm bảo cung cấp
các dịch vụ y tế chất lượng và hiệu quả. Bên cạnh đó cần tăng cường hoạt động
quản lý giá thuốc, BHYT cho người nghèo, hỗ trợ chi phí khám chữa bệnh cho các
đối tượng yếu thế. [22]
Unicef & Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014) đã tiến hành khảo sát “Sự hài lòng
của người dân đối với dịch vụ y tế tuyến xã” đã cho thấy đánh giá của người dân ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Về khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ; các phát hiện
của nghiên cứu này cho thấy người dân hiện không gặp khó khăn trong việc tiếp cận
dịch vụ y tế như khám chữa bệnh, khám thai, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em;
tiêm chủng và truyền thông. Khi sử dụng dịch vụ tại đây người dân hầu như không
phải chờ đợi lâu và thường không phải trả bất cứ chi phí gì. Tỷ lệ người dân đang sử
dụng 05 dịch vụ này của trạm y tế xã ở mức khá cao. Trong đó, dịch vụ được người
dân sử dụng nhiều nhất đó là: (1) Khám chữa bệnh; (2) Chăm sóc sức khỏe bà mẹ

trẻ em trong và sau sinh; (3)Tiếp đó là các dịch vụ tiêm chủng; (4) Khám thai; (5)
Truyền thông. Dịch vụ có tỷ lệ người dân sử dụng thấp nhất là (5) truyền thông.
Điều này cho thấy cần phải quan tâm nhiều hơn nữa tới việc tăng cường tiếp cận
của người dân đến với dịch vụ truyền thông giáo dục sức khỏe cho người dân của
trạm y tế. Bên cạnh đó, về thái độ của cán bộ y tế cũng được người dân đánh giá ở
mức khá cao với điểm số trung bình (3,77 điểm/5 điểm), người dân cho rằng cán bộ
y tế có thái độ quan tâm và chu đáo đối với người bệnh. Thang điểm ở các khâu
cũng được người dân đánh giá khác nhau. Ngoài ra, về chất lượng dịch vụ, phần lớn
9


người sử dụng dịch vụ đánh giá chất lượng của 05 dịch vụ cung cấp bởi trạm y tế ở
mức khá và tốt. Tỷ lệ người sử dụng dịch vụ đánh giá chất lượng dịch vụ ở mức tốt
đối với dịch vụ KCB chiếm 65%, khám thai (70,8%), dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà
mẹ trẻ em (57,3%), dịch vụ tiêm chủng 72,6% và hoạt động truyền thông 58,4%.
Người dân hài lòng đối với chất lượng dịch vụ ở mức khá cao. [33]
Vũ Hoàng Lan (2012) trong nghiên cứu “Tìm hiểu rào cản tiếp cận dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ di cư và các mô hình can thiệp” chỉ ra rằng
các mô hình chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người di cư cần được xem xét giải
quyết toàn diện cho các rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản đã được đề cập trong phạm vi nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu đã đề
xuất một khuyến nghị trong tương lai: (1) Hiện mới chỉ có các biện pháp can thiệp ở
nơi đến của người di cư. Biện pháp tiếp cận này gặp một số trở ngại do tính chất di
động của người di cư cũng như thời gian làm việc bận rộn của họ. Ngoài ra cần có
các biện pháp can thiệp tại các địa phương có tỷ lệ xuất cư lớn trước khi họ di cư để
tiến hành thông tin và tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, tiếp cận với các dịch vụ kĩ
năng sống. (2) Việc phối hợp với các cơ sở y tế nhà nước để cung cấp các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người di cư là rất cần thiết. (3) Tất các các mô hình
can thiệp hiện tại đều chỉ hướng tới đối tượng di cư và những người thân thuộc với
họ. Người di cư vẫn bị cả chính quyền địa phương và người dân gắn với tệ nạn xã

hội, nên họ thường bị cô lập, cần có sự tham gia của tất cả cộng đồng trong tất cả
các biện pháp can thiệp. (5) Cần có sự tham gia của các chủ tư nhân và người đứng
đầu các công ty trong các khu công nghiệp nhằm nâng cao nhận thức và khuyên
khích họ cung cấp các dịch vụ thân thiện hơn đối với khách hàng tại các cơ sở y tế
cơ sở. [32]
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu mức độ tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú và lý
giải các yếu tố ảnh hưởng. Trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp để cải thiện và nâng
cao khả năng tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Xây dựng cơ sở lý luận bằng cách thao tác hóa các khái niệm: tiếp cận, dịch vụ

khám chữa bệnh, bệnh nhân nội trú.
10


-

Phân tích mức độ, thực trạng tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân

nội trú.
- Giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh
của bệnh nhân nội trú.
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú tại bệnh viện K cơ sở 1.

5.2 Khách thể nghiên cứu
- Bệnh nhân điều trị nội trú bằng thẻ bảo hiểm y tế, người nhà bệnh nhân.
- Cán bộ y tế của viện.
5.3 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Từ tháng 12/2016 – 06/2017
- Phạm vi thời gian thu thập số liệu: Tháng 4/2017
- Phạm vi không gian: Bệnh viên K cơ sở 1 Quán Sứ - Hà Nội
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp luận
Đề tài vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin để giải thích và làm cơ sở phương pháp luận chung cho toàn bộ bài
nghiên cứu.
Quan điểm duy vật biện chứng đòi hỏi việc xem xét sự việc, hiện tượng trong
sự vận động và phát triển của nó, đồng thời xem xét nó trong mối quan hệ giữa các
sự vật hiện tượng, không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liện hệ.
Thứ nhất, vận dụng quan điểm về sự vận động và phát triển vào nghiên cứu ta
để thấy được việc tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh không đứng yên mà nó luôn vận
động và phát triển theo thời gian, theo sự phát triển của xã hội. Giữa các thời kỳ
phát triển của xã hội, dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú lại có những
khác biệt. Trong nghiên cứu này, cho thấy được bệnh nhân nội trú ngày càng có nhu
cầu khám chữa bệnh nhiều hơn, họ yêu cầu phải có sự đối sử, chất lượng phục vụ
của bệnh viện/cơ sở y tế tốt hơn.
Thứ hai, Vận dụng quan điểm về “mối liên hệ phổ biến” vào nghiên cứu này
giúp người nghiên cứu không chỉ phân tích nhu cầu của người dân khi tiếp cận với
dịch vụ khám chữa bệnh mà còn nói tới những đáp ứng của xã hội nói chung và của
các nhân viên y tế tại bệnh viện K1 nói riêng. Bởi giữa bệnh nhân nội trú và nhân
viên y tế có mối quan hệ khá chặt chẽ trong việc giao tiếp với nhau trong đời sống
hàng ngày.
11



6.2 Phương pháp nghiên cứu xã hội học

6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu nhằm tìm hiểu
các thông tin thứ cấp liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, giúp cho việc
tổng quan nghiên cứu và định hướng phương pháp tiếp cận nghiên cứu, thiết kế
nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiếp cận các tài liệu bao gồm các văn
bản quy phạm pháp luật quy định về lĩnh vực y tế, nhất là phân tích sâu các chỉ thị,
thông tư hướng dẫn thực hiện các luật chuyên ngành Y tế, nghị định quy định về các
cơ sở khám chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, các chính
sách hiện có đối với người bệnh điều trị nội trú… Thông qua các văn bản quy phạm
pháp luật, chúng tôi có cơ sở pháp lý để căn cứ thiết kế các nội dung nghiên cứu.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã tiếp cận và phân tích các tài liệu nghiên cứu lý luận
và thực trạng việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người dân qua các
công trình nghiên cứu và các công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học
trong nước, các báo cáo chuyên ngành của Bộ Y tế, các nghiên cứu trường hợp về
khả năng tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh của người dân,… Đây là những tài
liệu thứ cấp quan trọng chứa đựng các thông tin, các phát hiện từ các nghiên cứu đi
trước cũng như gợi mở hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài đi sâu tìm hiểu khả
năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại bệnh viện của bệnh nhân điều trị
nội trú.
6.2.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến
Để có cơ sở khoa học từ các thống kê xã hội học, chúng tôi lựa chọn phương
pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi đối với bệnh nhân/người nhà bệnh nhân điều
trị nội trú tại bệnh viện K cơ sở 1 Quán sứ. Bảng hỏi được thiết kế tập trung chủ yếu
ở 3 nội dung thông tin cần thu thập từ khách thể nghiên cứu bao gồm:
Thứ nhất, các thông tin chung về người trả lời. Phần này chúng tôi thiết kế các
thông tin về đặc điểm nhân khẩu xã hội cơ bản của người trả lời như tuổi, giới tính,
nghề nghiệp, trình độ học vấn,… các thông tin về thu nhập và hoàn cảnh kinh tế của

người trả lời; thông tin về khoảng cách địa lý và quá trình tham gia điều trị tại bệnh
viện của người trả lời,... Đây là các chỉ báo được thiết kế để đo lường mối liên hệ
12


giữa các biến số điều khiển đến việc tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh
viện của người bệnh.
Thứ hai, các thông tin liên quan đến việc tiếp cận các dịch vụ hành chính, dịch
vụ khám chữa bệnh, dịch vụ kỹ thuật y và dịch vụ thuốc tại bệnh viện. Trong nội
dung chúng tôi chia tách bảng hỏi thành 4 nội dung lớn để tìm hiểu rõ hơn về thực
trạng tiếp cận các dịch vụ y tế tại bệnh viện; đánh giá của người bệnh về mức độ hài
lòng đối với các dịch vụ y tế tại bệnh viện; mức độ cần thiết phải cải thiện các dịch
vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện.
Thứ ba, các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh tại
bệnh viện của bệnh nhân nội trú.
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, chúng tôi xử lý, phân tích dữ liệu qua
các phép toán thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows để làm rõ thực trạng
việc tiếp cận các dịch vụ y tế của bệnh nhân nội trú tại bệnh viện, mức độ hài lòng
đối với các dịch vụ y tế tại bệnh viện, nhu cầu và các yếu tố tác động đến việc tiếp
cận các dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú tại bệnh viện.
Về dung lượng mẫu
Căn cứ vào lượng bệnh nhân nội trú đang điều trị tại bệnh viện K1 tính tại thời
điểm tháng 04/2017 là 395 bệnh nhân. Với độ tin cậy là 95% sai số không vượt quá
10%. Áp dụng công thức:
n=
Trong đó: n - Dung lượng mẫu cần chọn
t - Hệ số tin cậy của thông tin
ε - Phạm vi sai số chọn mẫu
pq - Phương sai của tiêu thức thay phiên (Do p + q = 100%, và p = 1 –
q. Tức tổng của p và q là một số không đổi, cho nên tích của chúng lớn

nhất khi hai số này bằng nhau. Tức là p = q = 0,5 và pq = 0,25). [27]
Thay số vào ta có:

13


≅ 80

n=

Căn cứ vào cách tính trên, ta có dung lượng mẫu là 80. Tuy nhiên với dung
lượng mẫu này xét trong đề tài này là nhỏ, tính đại diện chưa cao. Vì vậy tôi nhân
nên gấp đôi, như vậy số bệnh nhân/người nhà bệnh nhân nội trú cần phải chọn trong
thực hiện nghiên cứu này là 160 người (trong đó bệnh nhân nội trú là 138 người,
người nhà bệnh nhân là 22 người).
Về phương pháp chọn mẫu
Trong đề tài này, tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống bởi vì
đây là phương pháp đảm bảo mọi phần tử của tổng thể đều có cơ hội được lựa chọn
như nhau, giúp đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu.
Với tổng mẫu là 395 bệnh nhân, số mẫu được lựa chọn tiến hành điều tra nghiên
cứu là 160 bệnh nhân, áp dụng công thức:
k=
Thay số vào ta có:
≅ 2,4

k=

Như vậy trong trường hợp này k sẽ được làm tròn xuống 2, vì nếu làm tròn tăng
lên thì dung lượng mẫu chọn được nhỏ đi và không đảm bảo được số lượng đơn vị
cần chọn trong mẫu chính.

6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng trong nghiên cứu nhằm tìm hiểu kỹ
hơn các thông tin từ khách thể nghiên cứu bao gồm: Bệnh nhân nội trú và đội ngũ
nhân viên, y tá, bác sĩ tại bệnh viện K.
Đối với bệnh nhân nội trú, chúng tôi tìm hiểu các thông tin về tiểu sử của bệnh
nhân, thực trạng việc tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện của người
bệnh, những khó khăn, mong đợi của người bệnh đối với các dịch vụ khám chữa
14


bệnh tại bệnh viện. Bên cạnh việc khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến, chúng tôi
tiến hành trao đổi, phỏng vấn sâu 05 trường hợp (gồm 4 bệnh nhân nội trú, và 1
người nhà bệnh nhân) là bệnh nhân/người nhà bệnh nhân nội trú tại bệnh viện K cơ
sở 1 Quán Sứ nhằm làm rõ các nội dung thông tin nghiên cứu nêu trên.
Để có các thông tin kiểm chứng so với các thông tin thu thập từ người bệnh
điều trị nội trú tại bệnh viện K1 và làm rõ hơn các điều kiện cung cấp dịch vụ khám
chữa bệnh tại bệnh viện, các quan điểm, thái độ trong khám chữa bệnh cho bệnh
nhân tại bệnh viện K1. Tôi cũng tiếp cận, trao đổi thông tin với cán bộ y tế của bệnh
viện K1. Số lượng cán bộ y tế được phỏng vấn sâu là 03 trường hợp.
6.2.4. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là một trong những phương pháp được tác giả sửa dụng
để thu thập thông tin, thông tin được thu thập ở đây là những cách thức, hành vi,
biểu hiện, thái độ trong quá trình tiến hành các thủ tục nhập viện, trong việc thực
hiện các chỉ định xét nghiệm và điều trị nội trú cho đến khi xuất viện của bệnh nhân
và người nhà bệnh nhân. Đối với nhân viên của bệnh viện, quan sát ở đây được hiểu
là quan sát cách thức họ thực hiện các công việc liên quan đến bệnh nhân từ các thủ
tục giấy tờ, hướng dẫn, tiếp đón, thăm khám và giao tiếp ứng sử với người bệnh và
người nhà người bệnh.
7. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
7.1 Câu hỏi nghiên cứu

- Câu hỏi 1: Bệnh nhân nội trú của bệnh viện K1 có mức độ hài lòng như thế nào
trong việc tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh tại cơ sở này?
- Câu hỏi 2: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ khám
chữa bệnh của bệnh nhân nội trú tại bệnh viện K1?
7.2 Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết 1: Nhìn chung các bệnh nhân nội trú của bệnh viện K1 có mức độ hài
lòng khác nhau trong tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh về tuổi, giới tính, xuất cư.
- Giả thuyết 2: Các yếu tố về nhân khẩu xã hội, quan hệ xã hội, chính sách, tổ
chức thực hiện dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh viện có ảnh hưởng đến khả năng
tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú tại bệnh viện K1.
8. Khung phân tích
15


- Các yếu tố về nhân khẩu xã
hội (Tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, trình độ học vấn, xuất
cư)
- Các yếu tố thuộc về chính
sách của Bệnh viện và Bộ Y tế

Bối cảnh thực hiện chính sách
khám chữa bệnh hiện nay

Quan hệ xã hội

Tổ chức thực hiện dịch vụ khám
chữa bệnh cho bệnh nhân nội trú
tại Bệnh viện K1


Mức độ tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh nhân nội trú

Dịch vụ hành chính

Dịch vụ khám chữa
bệnh

16

Dịch vụ kỹ thuật y

Dịch vụ thuốc


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ
TIẾP CẬN DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH CỦA BỆNH NHÂN NỘI TRÚ
VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm công cụ
1.1.1. Khám bệnh, chữa bệnh
Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 là văn bản pháp lý cao nhất quy định
các tiêu chuẩn, điều kiện, quyền và nghĩa vụ cũng như các vấn đề liên quan đến
người hành nghề, các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và người bệnh cũng như công
tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Tại Điều 2, Luật khám bệnh, chữa bệnh
[29] giải thích các thuật ngữ khám bệnh, chữa bệnh và người bệnh như sau:
Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, khi
cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng để chẩn
đoán và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp đã được công nhận.
Chữa bệnh là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công
nhận và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức

năng cho người bệnh.
Người bệnh là người sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.
Theo cách giải thích thuật ngữ nêu trên, khám bệnh và chữa bệnh là hai quá
trình riêng biệt, tuy nhiên giữa chúng có mối liên hệ với nhau. Nếu như việc thăm
khám được coi là giai đoạn ban đầu để phát hiện các vấn đề liên quan đến sức khỏe
của người bệnh thì việc chữa bệnh được coi là bước tiếp theo sau khi có các kết quả
chẩn đoán lâm sàng từ người bệnh. Điều này được hiểu đơn giản hơn đó là nếu
không có cơ sở khoa học từ quá trình khám bệnh thì không đến được quá trình chữa
bệnh. Trong đó, người bệnh là đối tượng có khả năng tiếp cận cả hai dịch vụ khám
bệnh và chữa bệnh.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi căn cứ trên cách hiểu về các
thuật ngữ nêu trên theo Luật khám bệnh, chữa bệnh, đồng thời đưa ra cách tiếp cận
cụ thể hơn về người bệnh (bệnh nhân) là những người sử dụng dịch vụ khám chữa
bệnh tại cơ sở y tế công lập.

17


×