Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.18 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong vô vàn những mối quan hệ hình thành nên thế giới, mối quan hệ biện chứng
giữa tự nhiên và xã hội chính là mối quan hệ trọng yếu, là nền tảng cho sự tồn tại và phát
triển của thế giới ngày nay. Vì vậy, tìm hiểu về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội chính
là tìm hiểu điều căn bản nhất trong quá trình phát triển của thế giới, là cơ sở để đưa ra
phương hướng giải quyết những vấn đề của thế giới.
Song hành với sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của thế giới là sự tác động tích
cực và tiêu cực tới môi trường tự nhiên. Thế nhưng, sự tác động tiêu cực đang dần lấn át và
trở nên nghiêm trọng. Trong mấy chục năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế dưới tác động
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với sự gia tăng dân số quá nhanh làm môi
trường bị biến đổi theo chiều hướng xấu. Nhiều nguồn tài nguyên bị vắt kiệt, nhiều hệ sinh
thái bị tàn phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bị rối loạn. Môi trường ô nhiễm dần trở
thành nguy cơ thực sự đối với cuộc sống hiện tại và sự tồn vong của xã hội trong tương lai.
Với một nước đang phát triển như Việt Nam, đây lại càng là một vấn đề nhức nhối. Trong
quá trình nỗ lực hoà nhịp cùng sự tiến bộ của thế giới, chúng ta rất dễ mắc những sai lầm
chủ quan để lại nững ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường.
Đứng trước vấn đề cấp bách như vậy, bảo vệ môi trường trở thành trách nhiệm
không chỉ của riêng ai. Vì vậy, em xin lựa chọn đề tài về “Quan hệ giữa xã hội với tự
nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam” với mục đích tạo ra những thay
đổi tích cực trong nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, từ đó tạo những chuyển biến
thuận lợi cho công cuộc bảo vệ môi trường ở Việt Nam.


Tiểu luận tập trung tìm hiểu tổng quan về tự nhiên, xã hội, làm rõ mối quan hệ giữa
tự nhiên và xã hội, bàn về tác động qua lại giữa chúng, xem xét những yếu tố tác động đến
môi trường. Qua đó, vận dụng vào để nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân, hậu quả ô
nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay, rút ra bài học cho bản thân và đưa ra phương
hướng để giải quyết vấn đề.

NỘI DUNG
I.



LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ
NHIÊN VÀ XÃ HỘI
1. Tự nhiên
Theo nghĩa rộng, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất luôn tồn tại và phát triển theo

những quy luật khách quan vốn có của nó. Nó là một trong những yếu tố cơ bản và cần
thiết nhất cho sự sống, là điều kiện tất yếu và thường xuyên trong quá trình sản xuất ra của
cải vật chất xã hội. Đặc biệt, theo nghĩa này thì con người và xã hội loài người là bộ phận
đặc thù của tự nhiên.
Tự nhiên cung cấp cho con người nơi cư trú, cung cấp các điều kiện sống cần thiết
như thức ăn, nước, ánh sáng, không khí,... Tự nhiên chứa đựng những nguyên vật liệu giúp
con người tiến hành và duy trì hoạt động sản xuất nhằm duy trì sự sống và phát triển mọi
vật chất, tăng cường ý thức, vốn hiểu biết cho con người.

2. Xã hội


Xã hội là một kết cấu vật chất đặc thù, được hình thành trong quá trình phát triển lâu
dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của sự tác động giữa người với người. “Xã hội không
phải gồm các cá nhân mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của
những cá nhân đối với nhau” (C.Mac)
Xã hội là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên đồng thời với quá trình của tự nhiên, xã
hội cũng có một quá trình phát triển lịch sử của mình, thể hiện bằng vận động và phát triển
không ngừng của cơ cấu xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, có một dạng cơ cấu xã hội
cơ bản, đặc thù được coi như nấc thang của sự phát triển xã hội. Sự vận động phát triển của
xã hội phải tuân theo những quy luật nội tại vốn có của nó.

3. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội
3.1.


Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên

Như đã nói, con người và xã hội là bộ phận của tự nhiên. Nguồn gốc của con người
chính là tự nhiên. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật
tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật (Về nguồn
gốc các loài – Đác-uyn). Con người sống trong tự nhiên như mọi sinh vật khác vì con
người chính là sinh vật của tự nhiên. Ngay cả bộ óc con người cũng chính là sản phẩm cao
nhất của vật chất. Vì vậy, tự nhiên chính là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con
người.
Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật sinh học, từ tự nhiên mà còn nhờ
lao động. Lao động là một quá trình được tiến hành giữa con người với tự nhiên, trong quá
trình này, con người khai thác, sử dụng và tối ưu tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của
mình. Qua quá trình lao động, con người dần hoàn thiện cả về vật chất và ý thức. Đó là sự
hoàn thiện về cấu tạo cơ thể và hình thành ngôn ngữ. Chính lao động và ngôn ngữ đã khiến


bộ não con người phát triển vượt bậc so với những động vật khác, tâm lý động vật đã
chuyển thành tâm lý con người.
Cùng với đó là sự hình thành các quan hệ giữa người với người, cộng đồng người
dần thay đổi, từ mang tính bầy đàn sang một cộng đồng mới khác hẳn về chất, đó là xã hội.
Xã hội lấy sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng, “là sự tác động qua lại
giữa những con người”.
Xã hội mang tính đặc thù ở chỗ: nhân tố hoạt động là của con người có ý thức, hành
động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người không
chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.

3.2.

Tự nhiên – Nền tảng của xã hội


Xã hội và tự nhiên thống nhất và tương tác với nhau. Đây là mối quan hệ biện chứng
hai chiều. Trước hết, ta xét những tác động của tự nhiên lên xã hội loài người. Tự nhiên vô
cùng quan trọng với xã hội. Bởi tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là
môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Xã hội được hình thành trong sự tiến hóa của
thế giới vật chất. Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chính tự nhiên
đã cung cấp những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự
nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho các hoạt động sản xuất xã hội. Vì
“con người không thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế
giới hữu hình bên ngoài.
Xã hội và con người được hình thành là nhờ quá trình lao động. Trong khi đó, tự
nhiên là nguồn cung cấp mọi thứ cần thiết cho sự tồn tại của xã hội và cho hoạt động lao
động của con người. Do đó, tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản
xuất xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội.


3.3.

Tác động của xã hội đến tự nhiên

Tự nhiên và xã hội có mối quan hệ khăng khít. Trong sự tác động qua lại giữa
chúng, yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và sự phát triển của xã hội, còn
yếu tố xã hội ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc biến đổi và phát triển của tự
nhiên. Tự nhiên là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và tiến lên của xã hội, của con
người. Vai trò này của tự nhiên không có gì có thể thay thế được và cũng không bao giờ
mất đi, cho dù xã hội có phát triển đến trình độ nào. Bởi lẽ, nếu coi xã hội như một cơ thể
sống, thì tự nhiên là nguồn cung cấp không khí, nước và thức ăn; còn nếu coi nó như một
cỗ máy sản xuất, thì tự nhiên lại là bộ phận đưa nguyên, nhiên liệu vào. Không có không
khí, nước và thức ăn thì cơ thể sẽ còi cọc, ốm yếu rồi tàn lụi; không có nguyên vật liệu thì
cái máy cũng chỉ là thứ bỏ đi. Ngày nay, với khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, con

người đã chế tạo được ra những vật liệu mới vốn không có sẵn trong tự nhiên, nhưng, suy
đến cùng, thì những thành phần tạo nên chúng cũng lại đều xuất phát từ tự nhiên. Xã hội dù
có phát triển đến trình độ nào thì cũng vẫn không thể thoát ra ngoài cái vòng tự nhiên, vì
mọi hoạt động xã hội đều diễn ra trong tự nhiên, lấy tài liệu từ tự nhiên và có đạt kết quả
hay không cũng lại phụ thuộc vào tự nhiên ấy. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc cản
trở sản xuất xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động, do đó thúc đẩy hoặc làm
chậm nhịp độ phát triển xã hội.
Xã hội loài người gắn bó với tự nhiên nhờ có các dòng vật chất, năng lượng và
thông tin, nhờ sự kết hợp giữa lao động với thiên nhiên. Nếu tự nhiên là nguồn cung cấp
các tư liệu sinh hoạt và sản xuất cho xã hội, thì xã hội là bộ phận tiêu thụ, biến đổi tự nhiên
mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả những thành phần khác của chu trình sinh
học. Xã hội có thể sử dụng tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển: từ động, thực


vật đến vi sinh vật: từ đất, đá, sỏi, cát đến các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt; từ những
nguồn vật chất có hạn và tái tạo được đến những nguồn vật chất như ánh sáng, không khí,
nước v.v..Thông qua lao động của con người trong xã hội, tự nhiên được biến đổi và bị biến
đổi. Đó chính là sự tác động trở lại của xã hội đối với tự nhiên, và sẽ quyết định hướng
phát triển tiếp theo của tự nhiên.
Nhưng, dù có vai trò khác nhau, thì cả hai yếu tố tự nhiên và xã hội đều cùng nhau
hợp thành hệ thống Tự nhiên - Xã hội. Sự thống nhất của hệ thống này được xây dựng trên
cơ sở cấu trúc liên hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được bảo đảm bởi cơ chế hoạt động
của chu trình sinh học - đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa các hệ
thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. Hoạt động của chu
trình này tuân theo những quy luật và những nguyên tắc tổ chức chung (nguyên tắc tự tổ
chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ) mà cả hai yếu tố cùng phải nhất loạt tuân theo
thì mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững được.

3.4.


Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội

Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội trong đó quan
trọng nhất là trình độ phát triển của xã hội và độ nhận thức, vận dụng quy luật tự nhiên, xã
hội vào hoạt động thực tiễn của con người.
Quan hệ xã hội với tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội: Thông qua
các hoạt động của con người, lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đã trở nên gắn bó và quy
định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định này phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà
tiêu chí để đánh giá là phương thức sản xuất. Sự ra đời của những phương thức sản xuất
mới quyết định sự biến chuyển về chất của xã hội loài người. Chính phương thức sản xuất
quy định tính chất của mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương thức sản xuất


khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những
mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục đích sản xuất của mỗi
chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi
theo. Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với chế độ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là đối tượng
chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng môi trường đã xảy ra ở nhiều nơi và
đang đe dọa sự sống của nhân loại. Để tồn tại và phát triển con người phải chung sống hòa
bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử với tự nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ
chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người.
Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các
quy luật trong hoạt động thực tiễn: Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện
thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối
quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận thức
các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn. Một nhận thức tốt đi kèm
với những hành động theo quy luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi
cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm

đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá
vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và
chịu diệt vong. Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã
hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn. Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát
triển, nhận thức đã được nang lên nhiều vấn đề còn lại là phải hành động cho đúng. Để tuân
theo các quy luật tự nhiên thì việc xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất.


3.5.

Con người với tự nhiên và xã hội

Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội: Con người là sản
phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng
sau khi tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Con người sống trong môi trường xã
hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với người với người. Vì thế con người mang
trong mình bản tính tự nhiên và bản chất xã hội.
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng
các quy luật trong hoạt động thực tiễn của con người: Mối quan hệ giữa tự nhiên và con
người được thể hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo
suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước
hết là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn. Nếu con
người nhận thức tốt và hành động theo quy luật thì sẽ tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi
cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm
đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sẽ phá hủy tự nhiên và làm phá vỡ cân bằng
hệ thống tự nhiên - xã hội. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. Việc nhận thức quy
luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng
trong thực tiễn.

II.


VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM


Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội.
Nó bao gồm sinh quyển, thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và năng lượng mặt trời giúp
con người duy trì sự sống. Không chỉ đơn giản là môi trường địa lý, môi trường sống của
con người là môi trường tự nhiên – xã hội. Bởi con người là một thực thể sinh học trong
đó.

1.

Thực trạng

Môi trường không còn là một vấn đề mới trong xã hội hiện đại ngày nay, tuy nhiên
bàn về môi trường chúng ta không thể không nhắc đến vấn đề gây nhức nhối và luôn luôn
nóng bỏng đó là ô nhiễm môi trường sinh thái.

 Ô nhiễm không khí
Môi trường không khí hiện nay đang bị ô nhiễm. Khu vực ở ven đô, các khu vực
dân cư đông đúc... có nồng độ các chất trong không khí cao hơn. Các khí bụi, khí thải từ
hoạt động giao thông, sản xuất,... đang ngày càng trở thành vấn đề đáng lưu ý. Tiêu biểu là
tình trạng kẹt xe, tắc đường ở các đô thị mỗi ngày, hoạt động khai thác khoáng sản ở Quảng
Ninh, Hải Phòng,..., chế biến lương thực ở Tây Nguyên... Đặc biệt là sản xuất xi măng ở
khu vực phía Bắc, nhiều nghiên cứu cho thấy hàm lượng bụi cao nhất đo được thường cách
các nhà máy này khoảng 1,5-3 km với hàm lượng TSP vượt nhiều so với QCVN.

Bảng 1: Nồng độ TSP trong không khí xung quanh vùng nông thôn chịu ảnh hưởng
từ nhà máy xi măng khu vực phía Bắc.



Đặc biệt, hiện tượng ô nhiễm cục bộ đã được ghi nhận tại một số làng nghề, khu vực
cụm điểm công nghiệp nằm xen kẽ trong khu dân cư, xung quanh điểm khai thác và sản
xuất vật liệu xây dựng, cũng như một số điểm đang diễn ra hoạt động nâng cấp cơ sở hạ
tầng. Các thông số đáng chú ý là bụi, NH3, H2S, SO2, NO2... Theo số liệu thống kê của
Hiệp hội làng nghề Việt Nam, làng nghề tập trung chủ yếu ở miền Bắc, trong đó tập trung
nhiều nhất ở đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Hưng
Yên,...), tiếp đến là khu vực Nam Bộ và Trung Bộ.

 Ô nhiễm nguồn nước
Đất nước ta có nguồn nước phong phú từ các hệ thống sông, suối dày đặc cùng với
các ao, hồ, kênh rạch phân bố trên khắp Việt Nam. Đây là nguồn cung cấp nước cho sinh
hoạt, sản xuất nhưng cũng là nơi phải tiếp nhận nước thải từ chính các hoạt động này. Ở
nhiều nơi, nguồn nước bị suy giảm chất lượng và xảy ra ô nhiễm cục bộ của các chất hữu
cơ, kim loại nặng và ô nhiễm vi sinh.
Phần lớn lượng nước thải đến từ sinh hoạt, chiếm khoảng 80% lượng nước sử dụng.
Theo số liệu tính toán, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là 2 vùng tập
trung nước thải sinh hoạt nhiều nhất cả nước. Ngoài ra chất thải, hóa chất từ hoạt động sản
xuất chưa qua xử lý thải thẳng ra sông, hồ, ao, suối,... làm cho nguồn nước bị ô nhiễm trầm
trọng. Các con sông như sông Tiền – sông Hậu, sông Đồng Nai, sông Nhuệ, sông Đáy,
sông Cầu... đang ngày càng đối mặt với tình trạng ô nhiễm.

 Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp
Hoạt động sản xuất nông nghiệp đã và đang làm gia tăng tình trạng ô nhiễm môi
trường do việc mở rộng sản xuất. Trong số 23.500 trang trại chăn nuôi, mới chỉ số khoảng


1.700 cơ sở có hệ thống xử lý chất thải. Mặt khác, các trang trại chưa được đầu tư quy mô
lớn nên vẫn nằm xen kẽ trong các khu dân cư và không đủ diện tích để xây dựng các công
trình bảo vệ môi trường đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép. Theo ước tính, có khoảng

40 – 50% lượng CTR chăn nuôi được xử lý, còn lại thải trực tiếp thẳng ra ao, hồ, kênh,
rạch,...
Ở Thái Nguyên, toàn tỉnh có 274 trang trại, gia trại lợn thì khoảng 90% có quy mô
dưới 1000 con/năm, 10% còn lại trên 1000 con/năm. Chất thải từ các trang trại này hầy hết
được xử lý bằng hệ thống biogas nên chỉ giải quyết được bấn đề thu hồi khí sinh học để tận
thu làm nhiên liệu, còn mức độ giảm thiểu ô nhiễm không đáng kể. Tại Thái Bình, toàn tỉnh
có trên 1000 trang trại, 14000 gia trại mỗi ngày thải ra môi trường 477 tấn chất thải.

2.

Nguyên nhân

Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng của nhiều người dân. Nhiều
người nghĩ rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một
số khác lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của chính quyền
mà không phải của mình. Số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì
đi chăng nữa cũng không đáng kể, và việc ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng gì
tới mình nhiều... Tất cả đều sai lầm, việc phá hoại môi trường của một người tuy chỉ ảnh
hưởng nhỏ nhưng tập hợp nhiều người lại là lớn. Trách nhiệm bảo vệ môi trường không
phải của riêng một ai mà là của tất cả mọi người.
Một nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm của
các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi
phạm quy trình khai thác, góp phần đáng kể gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay với xu thế
hội nhập toàn cầu hóa, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hay sự cạnh tranh giữa các


doanh nghiệp, các khu vực càng làm gia tăng sự nguy hại đối với môi trường khi ai ai cũng
đặt nặng mục tiêu lợi nhuận trước mắt.
Bên cạnh đó là những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ
môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Tư

pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành
vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng
nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện,
thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành
chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh
hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ môi trường.
Quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã
hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại
hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ
mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm
hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; còn các biện
pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉnh
hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có
áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng
không có hiệu quả.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác
bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám
sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng


đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại”
còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư
còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành
một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê
duyệt không cao.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn
chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng
đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường.


3.

Hậu quả

Việc môi trường sinh thái bị hủy hoại và ngày càng ô nhiễm đã gây ra những ảnh
hưởng xấu, những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với tự nhiên. Ở đây ta thấy được mối
quan hệ giữa tự nhiên với xã hội, con người đại diện cho xã hội tác động tiêu cực đến môi
trường, đến tự nhiên. Và tự nhiên chịu ảnh hưởng xấu, do đó xã hội, con người không thể
không có tác động ngược trở lại. Ta cùng xem xét những hậu quả tiêu biểu, phổ biến và có
ảnh hưởng trực tiếp tới con người:
Thứ nhất, nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe doạ cả nước. Trên thực tế,
tai hoạ mất rừng và cạn kiệt tài nguyên rừng đã xảy ra ở nhiều vùng, đặc biệt là khu vực
miền Trung và Tây Nguyên. Diện tích rừng suy giảm gây nhiều hậu quả như: lũ lụt, hạn
hán, sụt lở đất, các loài động vật quý hiếm đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng, không
gian sống của nhiều loài động thực vật rừng đang bị đe dọa, hệ sinh thái bị suy giảm
nghiêm trọng. Ngoài ra, mất rừng gây ra các hệ lụy chung như làm thất thoát lượng oxy
cung cấp cho con người và các loài động thực vật, làm cho trái đất nóng lên, nước biển
dâng... Vì vậy mà mất rừng là một thảm hoạ quốc gia.


Thứ hai, ô nhiễm nguồn nước không những gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên
mà còn tác động trực tiếp tới con người. Nước dùng cho sinh hoạt ngày càng cạn kiệt, phải
sử dụng nguồn nước ngầm gây tiêu tốn tiền bạc của cải vật chất. Các sông, hồ, ao, suối bị ô
nhiễm gây mất mỹ quan đô thị và mất vệ sinh, đặc biệt là không khí xung quanh. Hơn thế
nữa, tỷ lệ mắc các bệnh cấp và mãn tính liên quan đến ô nhiễm nước như viêm màng kết,
tiêu chảy, ung thư,... ngày càng tăng. Đặc biệt ở vùng biển, ô nhiễm làm cho tài nguyên
biển, tài nguyên sinh vật biển ở ven bờ đã bị suy giảm đáng kể, môi trường biển bắt đầu bị
ô nhiễm, gây tổn thất lớn cho các ngành sản xuất kinh doanh, các hộ nuôi trồng thủy, hải
sản.
Bên cạnh đó, không khí bị ô nhiễm cũng gây nên các căn bệnh về đường hô hấp như

lao, tim phổi,..., các loại bệnh ung thư cho con người. Chi phí chữa bệnh và giải quyết ô
nhiễm làm thiệt hại khá lớn đối với nền kinh tế của đất nước. Còn đối với hệ sinh thái, ô
nhiễm không khí có thể gây mưa axit, làm giảm ánh sáng mặt trời ảnh hưởng đến quá trình
quang hợp, vì thế giảm lượng khí oxy rất cần thiết cho các loài động thực vật,... Đặc biệt,
việc khí thải CO2 tăng lên do sinh ra từ các nhà máy và phương tiện giao thông mỗi ngày
làm tăng hiệu ứng nhà kính, làm Trái Đất nóng dần lên, các khu sinh thái sẵn có dần bị phá
hủy.
Ngoài ra còn vô vàn những hậu quả khác do ô nhiễm môi trường sinh thái gây nên,
có những ảnh hưởng thấy được ngay trước mắt nhưng cũng có những ảnh hưởng chúng ta
không dễ dàng để nhìn thấy. Tuy nhiên chúng đều làm suy thoái môi trường tự nhiên, ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người một cách dần dần và theo thời gian sẽ hủy hoại tất cả.

4.

Biện pháp khắc phục


Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi
trường, cá nhân em nghĩ cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó những chế tài xử
phạt(cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối
tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các
nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt
chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với
lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để
những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị
các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.

Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng
nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu
thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng
bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản
lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định
bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải tập
trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về
hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Cần chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động
môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính


xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư.
Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước
mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh
bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể
tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường
trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ
và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự
giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội.
Tình trạng môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn có thể cứu vãn nếu
mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo vệ môi trường. Vì vậy, chúng ta cần
chung tay bảo vệ môi trường và tránh gây ô nhiễm. Vì tương lai một Việt Nam xanh, sạch,
đẹp và vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như của các thế hệ sau.

PHẦN KẾT
Quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là một mối quan hệ phổ biến. Sự tác động qua lại
giữa chúng luôn đi liền với lợi ích của con người. Bên cạnh đó, vài trò của con người cũng

rất quan trọng, làm ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ trên. Vì vậy, con người cần ý thức


chặt chẽ vai trò của mình và tuân theo những quy luật tự nhiên và xã hội nhằm tránh tác
động tiêu cực đến môi trường sống.
Môi trường thuộc về tự nhiên, và mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thể hiện rất rõ
qua điều kiện của môi trường sinh thái. Song, việc ô nhiễm môi trường đang đe dọa toàn bộ
sự sống trên trái đất, trong đó có xã hội loài người. Vì vậy, việc ngăn chặn và khắc hiểm
họa này phụ thuộc vào con người và nó ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của chính chúng
ta. Điều quan trọng là con người phải nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa tự nhiên và
xã hội rồi biến những nhận thức đó thành hành động thực tế. Việc bảo vệ môi trường chính
là bảo vệ sự phát triển bền vững của chúng ta.
Nhìn chung, đề tài “Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề môi trường
bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài giàu tính thực tế. Nó phản ánh được
mối quan hệ biện chứng phổ biến của lịch sử tự nhiên, xã hội đồng thời gắn liền với nhận
thức và hành động thực tế của con người trong việc bảo vệ tự nhiên và xã hội, đó cũng
chính là bảo vệ môi trường sống của chúng ta.


TÀI LIỆU THAM KHẢO



×