Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở việt nam trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.7 KB, 36 trang )

CHƯƠNG I:
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
HIỆN NAY:

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong điều kiện cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0:
1.1.Cách mạng Công nghiệp 4.0:
1.1.1. Khái niệm:
 Cách mạng Công nghiệp 4.0 là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu
trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các Hệ thống Thực- Ảo (CyberPhysical Systems – CPS), Mạng lưới vạn vật kết nối internet (Internet of
Things – IoT) và điện toán đám mây (Cloud Computing).
 Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp
tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản
xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công
nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động
hóa, người máy,...
1.1.2. Cơ hội – Thách thức cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 mang lại cho
thị trường lao động:

 Cơ hội :
+ Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có sự tác động mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo, người máy làm
việc thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, trong khi khả
năng đó ở con người thường chỉ có trong thời gian giới hạn. Chính vì
vậy, việc các công nghệ cao và máy móc thông minh sẽ tạo cơ hội cho
1


con người làm việc và hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn bằng cách tận
dụng những lợi thế mà cuộc cách mạng công nghệ 4.0 mang lại.


+ Cách mạng 4.0 có tiềm năng đem lại nhiều lợi ích cho người lao động
thông qua việc: tăng năng suất lao động từ đó tăng mức thu nhập; cải
thiện chất lượng cuộc sống thông qua những sản phẩm giải trí và dịch vụ
mới; mở cửa thị trường lao động thông qua việc cắt giảm chi phí đi lại,
vận chuyển và tạo ra những việc làm mới.

 Thách thức :
+ Cách mạng 4.0 có khả năng phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa
thay thế cho người lao động trong toàn bộ nền kinh tế, sự thay thế ròng
người lao động bằng máy móc có thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch
giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận so với sức lao động. Đồng
thời, nó làm phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt thành
các mảng "kỹ năng thấp/lương thấp" và "kỹ năng cao/lương cao", do đó
sẽ dẫn đến sự gia tăng bức xúc xã hội. Điều này đòi hỏi con người cần
phải không ngừng trau dồi bản thân, khiến mình đứng ở vị trí cao hơn,
có thể điều khiển được máy móc một cách thông minh và hợp lí thì mới
không bị đào thải giữa rất nhiều công nghệ tiên tiến hiện nay.Cách mạng
công nghiệp 4.0 cũng đặt ra các yêu cầu mới đối với mỗi quốc gia, mỗi
cá nhân. Buộc tất cả mọi người phải thay đổi để thích nghi, phù hợp với
sự phát triển.
1.2.Nguồn nhân lực chất lượng cao:
1.2.1. Khái niệm:
 Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể hiểu là một bộ phận đặc biệt , kết tinh
những gì tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Đó là lực lượng lao động có khả
năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn. Họ được đặc trưng bởi trình độ học
vấn và chuyên môn cao có khả năng nhận thức tiếp thu nhanh chóng những
2


kiến thức mới, có năng lực sáng tạo, biết vận dụng thành tựu khoa học và

công nghệ vào thực tiễn. Họ có phẩm chất công dân tốt, có đạo đức nghề
nghiệp và đem lại năng suất, chất lượng hiệu quả lao động cao hơn hẳn so
với nguồn nhân lực lao động phổ thông.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện
cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0:
 Những tiêu chí cơ bản của nhân lực chất lượng cao có thể khái quát như sau:
văn hoá, văn hoá nghề nghiệp, đạo đức, nhân cách, trách nhiệm xã hội, ý
thức công dân; năng lực tư duy sáng tạo; năng lực tri thức chuyên môn; năng
lực thực hành; kỹ năng mềm.
 Đối với cá nhân (người lao động) với tư cách là nhân lực chất lượng cao khi
có tổng hợp hữu cơ những tiêu chí cơ bản nêu trên của nhân lực: văn hoá,
đạo đức, nhân cách cao; năng lực tri thức chuyên môn cao; năng lực tư duy
sáng tạo cao; năng lực thực hành cao; kỹ năng mềm phong phú, hiệu quả.
 Đối với một đơn vị, ngành, lĩnh vực hay quốc gia, thì nguồn nhân lực chất
lượng cao không chỉ bao gồm những cá nhân người lao động chất lượng cao,
mà còn phải được thể hiện ở sự hợp lý, hiệu quả về số lượng nhân lực chất
lượng cao, về chất lượng nhân lực chất lượng cao, về cơ cấu nhân lực hợp lý
(cơ cấu trình độ, ngành nghề, vùng miền), về mức độ đáp ứng (và hiệu quả
sử dụng) nhân lực đối với yêu cầu phát triển của đơn vị, ngành, hay của cả
đất nước.
1.2.3. Một số lý thuyết về vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong
thời đại Công nghiệp 4.0:
 Nhân lực chất lượng cao là điều kiện quyết định đến trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của mọi quốc gia. Nguồn nhân lực chất lượng cao giúp tiếp cận
3


nhanh nhất với những công nghệ, tri thức mới. Ứng dụng nhanh và hiệu quả
những công nghệ và tri thức mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh
 Nhân lực chất lượng cao là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện những

bước nhảy vọt và rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, lạc hậu về khoa
học công nghệ. Nâng cao năng suất lao động nhờ kỹ năng, kiến thức và kinh
nghiệm của nhân lực chất lượng cao: với khả năng của mình, nhân lực chất
lượng có thể thực hiện những công việc được giao một cách hiệu quả nhất,
sáng tạo, tìm tòi ra cách làm mới, sản phẩm mới,…
2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay:
2.1.Tổng quan về sự phát triển và hội nhập của Việt Nam trong điều kiện Cách
mạng 4.0:
 Qua 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn quan trọng
về phát triển kinh tế -xã hội, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, hiện nay
nước ta cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung của thế giới, tham gia và chịu
tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, điều này tạo ra những cơ hội, thời
cơ và khó khăn, thách thức đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển trong quá trình đổi mới cũng tạo ra
những tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp cận, triển khai cuộc cách mạng
công nghiệp này.

 Theo đánh giá của Công ty kiểm toán Grant Thornton, thời gian qua, Việt
Nam nhanh chóng trở thành lựa chọn cho việc thiết lập cơ sở của nhiều
doanh nghiệp khi họ muốn mở rộng sản xuất ở nước ngoài, với ưu thế về lực
lượng lao động rẻ, khoảng cách gần với các chuỗi cung ứng đặt tại châu Á.
Hơn nữa, do đặc điểm của Cách mạng công nghiệp 4.0 là không phụ thuộc
4


chủ yếu vào máy móc, thiết bị mà tùy thuộc nhiều vào khả năng và trí tuệ
của con người, năng lực sáng tạo nên Việt Nam có thể tận dụng ưu thế của
nước đi sau, với dân số vàng (số lao động tuổi trẻ chiếm chủ yếu), số người
sử dụng điện thoại thông minh, internet chiếm tỷ lệ cao của khu vực, mặt
khác Nhà nước, Chính phủ Việt Nam quan tâm, triển khai các nội dung để

nắm bắt và ứng dụng các thành tựu, và hạn chế thách thức khó khăn của
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trong việc phát triển kinh tế xã hội.
 Bên cạnh thuận lợi, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và
thách thức nghiêm trọng như: trong khi thế giới đang tiến vào cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, thì Việt Nam vẫn chủ yếu ở giai đoạn 2 tức
thực hiện dây chuyền gia công, lắp ráp. Theo thống kê 97% doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng suất lao động
và năng lực cạnh tranh còn thấp., trình độ khoa học công nghệ, nhất là chất
lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế.
 Trong xu thế của cách mạng công nghiệp 4.0, lực lượng lao động giá rẻ
không còn là lợi thế của Việt Nam. Phần lớn lao động Việt Nam chưa được
đào tạo bài bản, năng lực lý thuyết và tay nghề còn hạn chế nhất là kiến thức
chuyên môn, ngoại ngữ tiếng Anh để giao tiếp làm việc. Đây là thách thức
lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam khi bước vào cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 với nguồn nhân lực chưa được chuẩn bị đầy đủ, đặc biệt nền tảng
công nghệ cao còn hạn chế, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Do
vậy về lâu dài Nhà nước cần xây dựng chiến lược và chính sách công nghiệp
phù hợp để nắm bắt kịp xu thế toàn cầu, không để "lỡ tàu" một lần nữa.

2.2.Phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam:
2.2.1. Cung lao động:
5


 Cung lao động là lượng hàng hóa sức lao động mà người bán muốn bán trên
thị trường ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
 Về số lượng nguồn lao động:
Dân số hiện tại của Việt Nam là 96.377.983 người vào ngày 18/05/2018
theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc. (Nguồn: Con số này ảnh hưởng rất lớn đến lực lượng lao động nước ta. Việt
Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu

vực và trên thế giới. Hiện nay, nước ta có trên 49,2 triệu người trong độ tuổi
lao động trên tổng số 85,79 triệu người (chiếm 57,3%), đứng thứ 3 ở Đông
Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin) và đứng thứ 13 trên thế giới về
quy mô dân số. Số người trong độ tuổi từ 20 đến 39 khoảng 30 triệu người,
chiếm 35% tổng dân số và chiếm 61% lực lượng lao động, đây là lực lượng
có thể tham gia xuất khẩu lao động. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội, là tiềm năng
nguồn nhân lực Việt Nam, là yếu tố rất thuận cho việc tuyển chọn lao đông
đi làm việc ở nước ngoài.

 Về chất lượng nguồn lao động:
Trong tổng số 49,2 triệu người trong độ tuổi lao động, chỉ có 7,3 triệu người
đã được đào tạo, chiếm 14,9% lực lượng lao động. Trong số những người
đang theo học ở các trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thì tỷ lệ người
đang theo học trình độ sơ cấp là 1,7%, trung cấp 20,5, cao đẳng 24,5% và
Đại học trở lên là 53,3%. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo ở nước ta rất
thấp, cụ thể là 86,7% dân số trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo
chuyên môn, kỹ thuật, đáng chú ý hơn là khu vực nông thôn, nơi phần lớn
người lao động có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài thì tỷ lệ lao động
chưa được đào tạo chiếm 92%. Như vậy, đội ngũ lao động của ta trẻ và dồi
dào nhưng chưa được trang bị chuyên môn, kỹ thuật. Hiện cả nước có hơn

6


41,8 triệu lao động, chiếm 85,1% lực lượng lao động chưa được đào tạo để
đạt một trình trình độ chuyên môn, kỹ thuật nào đó.
→ Nguồn lao động nước ta rất dồi dào nhưng cung lao động chất lượng cao thì còn
nhiều hạn chế

2.2.2. Cầu lao động:

 Trên thị trường lao động, cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có
thể thuê ở mỗi mức giá chấp nhận.
 Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên các lĩnh vực chính: Kỹ thuật số,
công nghệ sinh học; robot thế hệ mới, xe tự lái, các vật liệu mới... . máy móc
sẽ thay thế toàn bộ lao động đơn giản, lặp đi lặp lại. Nhu cầu lao động trong
cuộc cách mạng 4.0 là cần nguồn nhân lực chất lượng cao, có những kĩ năng
mà máy móc không thể có như khả năng lãnh đạo, làm chủ doanh nghiệp.
 Theo khảo sát lương hàng năm vừa được công bố bởi Công ty tư vấn tuyển
dụng nhân sự cấp cao Robert Walters: Nhu cầu tìm kiếm ứng viên có chuyên
môn kỹ thuật cao đang có xu hướng tăng lên, nên mức lương dành cho nhân
sự thay đổi công việc trong năm 2018 dự kiến sẽ tăng khoảng 20%. Các
nhân viên hiện tại có thể kỳ vọng mức tăng khoảng 10% theo như quy trình
đánh giá lương hàng năm.
 “Ở Việt Nam, số hoá tiếp tục là ưu tiên hàng đầu ở hầu hết các ngành nghề,
thực tế này thúc đẩy nhu cầu tuyển dụng các chuyên gia công nghệ thông tin
am hiểu vể điện toán đám mây, an toàn thông tin và thiết kế ứng dụng”,
Công ty tư vấn tuyển dụng nhân sự cấp cao Robert Walters dự báo.
 Khảo sát của Robert Walters cũng đưa ra những dự đoán tích cực cho năm
2018 và khẳng định rằng: Triển vọng tăng trưởng kinh tế của khu vực Đông
Nam Á với sự bùng nổ số hoá và sự ổn định của thị trường là những yếu tố
thúc đẩy gia tăng mức lương trong năm 2018. “Các ứng viên trong nước
7


nắm vững kỹ thuật chuyên môn, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin
và có kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế sẽ được săn đón”,
nghiên cứu của Robert Walters nhận định.
 Ông Toby Fowlston, Giám đốc điều hành khu vực Đông Nam Á của Robert
Walters cho biết: Xu hướng số hóa tràn qua khu vực đã thôi thúc nhiều
doanh nghiệp tạo ra nền tảng di động trực tuyến, nhằm gia tăng thị phần và

nâng cao khả năng cạnh tranh. Sự chuyển đổi này đặt ra nhu cầu về nguồn
nhân lực am hiểu về số hóa trong lĩnh vực tiếp thị và công nghệ thông tin,
đặc biệt là những người thành thạo trong việc sử dụng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
số hoặc có kỹ năng công nghệ đặc thù.
 “Nhu cầu tuyển dụng các chuyên gia công nghệ thông tin trong lĩnh vực điện
toán đám mây, an ninh mạng và big data cũng được ghi nhận là tăng mạnh
trong năm 2017 và xu hướng tiếp tục diễn ra trong năm 2018, vì các tiểu
ngành công nghệ thông tin này đã trở thành các lĩnh vực tăng trưởng chính
hiện nay", Ông Fowlston phân tích.

CHƯƠNG II:
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

8


1. Đường lối của Đảng về việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam trong 3 cuộc Cách mạng trước đây:
1.1.Đường lối của Đảng:
1.1.1. Trước thời kỳ Đổi mới:
Đây là thời kỳ cả dân tộc phải gồng mình chiến đấu với giặc ngoại xâm để
giữ nước. Hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn chồng chất nhưng Đảng vẫn có những
nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của nguồn nhân lực với vận mệnh của quốc
gia trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc.
 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ngay từ cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ cơ bản đầu tiên
của cách mạng Việt Nam đó là phát triển con người – phổ thông giáo dục
theo công nông hóa mặc dù thời kỳ này chiến tranh đang trên đà lan rộng,

hoàn cảnh đất nước vô cùng khó khăn.

 Giai đoạn 1930-1945:
+ 1930-1939: Trước tình hình bị thực dân Pháp khủng bố ác liệt, Đảng Cộng
sản Đông Dương đã đề ra những yêu cầu về giáo dục từng giai cấp và tầng
lớp nhân dân: giáo dục đảng viên về tư tưởng chính trị, rèn luyện đảng viên
qua đấu tranh cách mạng.
+ 1939-1945: Trong chỉ đạo chuyển hướng chiến lược của Đảng, Ban Chấp
Hành Trung ương đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, chủ trương
gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh
vận, quân sự.

 Giai đoạn 1945-1975:
+ 1945-1954:
Đảng chủ trương xây dựng các đoàn thể nhân dân, xóa nạn mù chữ, khai
giảng năm học mới, tập luyện quân sự.
9


Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, thế mà
hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ; vì vậy tôi đề nghị
mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ.”
+ 1954-1975: Từ những năm đầu 1960, mặc dù cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước đang diễn ra rất ác liệt, nhưng với tầm nhìn chiến lược chuẩn bị
nguồn nhân lực, trước mắt phục vụ cuộc kháng chiến cứu nước, nhưng về
lâu dài là phục vụ công cuộc kiến thiết nước nhà, Bộ Chính trị (khóa III) đã
ra Nghị quyết về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, trong đó khẳng định “Muốn học
sinh giỏi vào các trường đại học, phải có kế hoạch phát triển và bồi dưỡng
học sinh giỏi ngay từ lớp 7, lớp 8”.

 Thời kỳ bước đầu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1960-1985):
Thông qua Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp Hành Trung ương khóa 7, Đảng đã
chỉ ra quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới, bao gồm
việc phát huy nguồn lực con người, lấy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản
cho việc phát triển nhanh và bền vững. Cụ thể:
+ Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để phát triển nguồn lực con
người, đất nước cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục và đào tạo.
+ Nguồn nhân lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có khả
năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của
thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
+ Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (năm 1975), nền giáo dục của nước
ta bước sang một giai đoạn cách mạng mới. Bộ Chính trị (khóa IV) ra Nghị
quyết số 14-NQ/TW ngày 11/01/1979 : “Trong hệ thống giáo dục phổ thông

10


cần mở những trường - lớp phổ thông cho những học sinh có năng khiếu đặc
biệt...” nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho đất nước.
+ Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 20/4/1981 về “Chính sách khoa học và kỹ
thuật”, trong đó chỉ rõ “Trên cơ sở đảm bảo sự bình đẳng thực sự về quyền
lợi học tập cho mọi người và phổ cập giáo dục cho toàn dân, cần quan tâm
đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, những nhân tài của đất nước”.
1.1.2. Thời kỳ đổi mới – Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
(1986 đến nay):
Thời kỳ này, trên thế giới đang diễn ra cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ
3 với kỷ nguyên máy tính và tự động hóa. Với sự phát triển mau lẹ của khoa học
công nghệ, Đảng ta cũng có những chính sách kịp thời trong việc đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao giúp đất nước bắt kịp và hội nhập với thế giới.

 Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) đã thể hiện rõ quan điểm của
Đảng về phát triển nguồn nhân lực: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Mục tiêu và nhiệm
vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
 Đại hội IX (2001) của Đảng khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới,
tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển
khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các
công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
 Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với
khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu. Các giải pháp thực thi
được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn
11


nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; phát triển nguồn
nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản
xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu...
 Đại hội XI (2011) đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục
tiêu đó, Đảng đã xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu
đột phá thứ hai. Vì thế, Đảng cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa
phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Vì vậy, cần “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”;
“xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc
con người Việt Nam”...

1.2.Thành tựu đạt được:
 Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946,

cả nước đã có thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
 Sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và mặc dù có chiến tranh phá hoại
nhưng Miền Bắc vẫn đảm bảo sản xuất phát triển và nâng cao trình độ sản
xuất lên một bậc.
 Dựa vào sự phát triển không ngừng của máy tính, đời sống đi vào tự động
hóa, đặc biệt là tự động hóa sản xuất – thay thế hoàn toàn sức người bằng
máy móc, nâng cao năng suất lao động, nâng cao sản lượng. Một số ngành
đã bắt kịp Cách mạng Công nghiệp 3.0 như công nghệ thông tin, viễn thông.

1.3.Nhược điểm đặt ra:
12


 Công tác tư tưởng và văn hóa thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây
dựng thể chế văn hóa còn chậm. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều
hướng phát triển. Đời sống văn học, nghệ thuật còn nhiều bất cập.
 Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hóa,
giáo dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
 Trong thực tế, phần lớn các ngành công nghiệp của nước ta còn ở vị trí của
cuộc CMCN lần thứ nhất và lần thứ hai (CMCN 1.0, CMCN 2.0). Cụ thể,
việc xây dựng cơ sở hạ tầng (đường, cầu, cống, bến cảng, sân bay...) gần đây
được tiến hành mạnh mẽ; đó chính là các công đoạn của thời kỳ CMCN 1.0
mà đặc trưng là cơ khí hóa, phát triển đường sắt nhờ sự ra đời động cơ hơi
nước. Đường sắt Việt Nam rất lạc hậu, tốc độ tàu thấp do khổ đường ray hẹp
từ thời Pháp thuộc, thường xuyên có tai nạn do xung đột với giao thông
đường bộ. Mặc dù sản xuất được điện từ lâu nhưng chúng ta chưa chế tạo
được nhiều chủng loại động cơ, chưa sản xuất được các máy công cụ vốn là
động lực chính cho dây chuyền lắp ráp, sản xuất hàng loạt - một đặc trưng
của CMCN 2.0. Chúng ta chỉ chế tạo được động cơ không đồng bộ công suất

nhỏ và vừa cho các ứng dụng đơn giản như bơm nước, quạt gió, băng tải...
Hầu hết các dây chuyền công nghệ và dây chuyền lắp ráp hiện nay được
nhập ngoại. Do vậy, không thể nói rằng chúng ta đã làm xong CMCN 2.0,
càng không thể nói chúng ta đã thực hiện CMCN 3.0, bởi việc tự động hóa
toàn diện sản xuất - đặc trưng của giai đoạn này - còn xa vời với công
nghiệp Việt Nam.

13


1. Đường lối của Đảng về việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam trong thời đại Công nghiệp 4.0:
1. Chủ trương, chính sách về việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao:
1. Bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ:
 Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016) Đảng đã xác
định một trong 6 nhiệm vụ chính là “…Đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục, đào tạo- phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao ….” Phát triển nguồn nhân lực vốn không phải là vấn đề xa lạ gì vì trong
các Đại hội trước vấn đề này vẫn luôn được quan tâm. Tại Đại hội VIII,
Đảng khẳng định vấn đề phát triển nguồn nhân lực phải được chú trọng:
“Nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.” Đến Đại hội IX (2001) Đảng nêu rõ “ đáp ứng yêu cầu về con
người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn
đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc
sách hàng đầu “ Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn
hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Và
đến Đại hội XI(2011) Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó
“ Phát triển nguồn nhân lực , nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”.

 Qua đó ta nhận thấy vấn đề phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng
luôn được quan tâm trong các kỳ Đại hội đặc biệt trong thời kỳ Cách mạng
công nghiệp 4.0 thì nguồn nhân lực chất lượng cao lại càng được quan tâm.
Trong Đại hội XII, Đảng xác định đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục , đào
tạo sẽ là phương hướng đi chính trong việc phát triển nguồn nhân lực. Đảng
khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào
tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển
mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn
14


diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với
thực tiễn.” Năm 2017 Bộ Giáo dục đã đưa ra Đề án đổi mới chương trình và
sách giáo khoa. Chương trình mới này sẽ quan tâm hơn đến yêu cầu tăng
cường kỹ năng sống, giảm tải nội dung trong các bậc học phổ thông; nâng
cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề; phát
huy tư duy sáng tạo, năng lực nghiên cứu ở bậc đại học. Bên cạnh đó, Bộ
cũng sẽ đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết
quả giáo dục và đào tạo. Từ năm 2015 trở đi Bộ đã thay đổi hình thức thi
vào đại học khi gộp chung kỳ thi đại học với kỳ thi tốt nghiệp thành một kỳ
thi trung học phổ thông Quốc gia. Đến năm 2017, bộ môn Toán được đổi
mới chuyển từ hình thức tự luận sang trắc nghiệm đòi hỏi phát huy tư duy và
tính linh hoạt hơn rất nhiều đặc biệt là cách áp dụng sử dụng máy tính Casio.
Môn Văn và môn Ngoại Ngữ vẫn giữ nguyên hình thức thi tự luận, còn các
môn Vật lý, Hóa học, Sinh học tích hợp vào bài thi Khoa học tự nhiên; môn
Sử, Địa, Công dân tích hợp vào bài thi Khoa học xã hội. Bộ Giáo dục đã đưa
thêm môn Công dân vào trong kỳ thi đúng với tiêu chí “phát triển phẩm chất
người học”. Kỳ thi THPT Quốc Gia sắp diễn ra trong năm 2018 này sẽ tiếp
tục giữ hình thức thi của năm 2017. Bên cạnh đó đẩy mạnh, liên thông trong
giáo dục, đào tạo. Phát triển giáo dục Đại học định hướng nghiên cứu, ứng

dụng và thực hành. Phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đáp ứng yêu
cầu đổi mới. Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ
và thu hút các nhà khoa học tham gia giảng dạy. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn
kết đào tạo với doanh nghiệp. Vấn đề đào tạo chuyên môn đã và đang được
ngày càng chú trọng và đổi mới để phù hợp trong thời đại Công nghiệp 4.0.
2. Bồi dưỡng kiến thức về khoa học-công nghệ:
 Bên cạnh chuyên môn, nghiệp vụ chúng ta cũng rất quan tâm đến KH-CN.
Tăng cường tiềm lực KH-CN và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc
15


gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.
Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do sáng tạo trong hoạt động
nghiên cứu, tư vấn, phản biện nhà khoa học. Tăng cường hoạt động nghiên
cứu khoa học trong các trường Đại học, khuyến khích các nhà khoa học là
người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa
học, công nghệ tại Việt Nam. Từ khi cuộc thi Robocon- cuộc thi cổ vũ cho
phong trào sáng tạo robot của thanh niên khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
được khởi động năm 2002, nước tích cực tham gia trong suốt những năm
vừa qua và tính đến nay đã 6 lần vô địch. Các sân chơi về khoa học kỹ thuật
luôn được quan tâm và chú trọng cả trong nước và ngoài nước như Intel
ISEF hay Science and Engineering(SEF). Học tập theo các công nghệ, kỹ
thuật của các nước tiên tiến cũng là một trong những cách thức giúp nước ta
tiến bộ hơn. Vì vậy, rất nhiều sinh viên, giảng viên được gửi đi học tại các
nước bạn, trong các trường Đại học đã mở rộng các Khoa liên kết với các
trường quốc tế, học tập theo chương trình quốc tế. Tóm lại, trong những năm
gần đây và trong tương lai nước ta sẽ tiếp tục đổi mới giáo dục cả về chuyên
môn và công nghệ nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực để đưa nước ta
trở thành một đất nước hiện đại.
3. Bồi dưỡng kiến thức về các kỹ năng:

 Theo tác giả Đặng Thành Hưng, kỹ năng là một dạng hành động được thực
hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận động và những điều
kiện sinh học-tâm lí khác của cá nhân (chủ thể của kỹ năng đó) như nhu cầu,
tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân... để đạt được kết quả theo mục đích
hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành công theo chuẩn hay quy định. Kỹ
năng nói chung rất rộng như kỹ năng xã hội, kỹ năng lãnh đạo,…và thực sự.
16


Kỹ năng tư duy khoa học: kỹ năng tư duy phân tích, suy luận, tổng hợp,
lôgic…Kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng tạo,
phản biện, kỹ năng tự học và tự học hiệu quả. Nhân cách và kỹ năng sống:
Kỹ năng lãnh đạo bản thân như: trung thực, chủ động, tự trọng và tự tin. Kỹ
năng đặt mục tiêu, tạo động lực, tổ chức công việc hiệu quả. Kỹ năng ứng xử
- giao tiếp, lắng nghe, đàm phán, trình bày thuyết trình, kỹ năng làm việc
nhóm, đồng đội…Tạo ra thói quen rèn luyện tư duy, kĩ năng phân tích vấn
đề, khả năng tiếp thu, diễn đạt, tổ chức, xử lí thông tin. Nhất là ý thức kỷ
luật lao động, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, hiểu biết văn hóa
thế giới…
 Qua nhiều kỳ Đại hội Đảng đã đề những đường lối chủ trương đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện cuộc Cách mạng
Công nghệ 4.0. Trong đó đào tạo tạo kỹ năng đóng vai trò quan trọng tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay. Sau 30 năm đổi mới Đảng cũng đã
có những thành tựu nhất định bên cạnh đó cũng tồn đọng những hạn chế,
khuyết điểm nhất định. Đó là còn nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế chậm được
khắc phục.Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo
đức xã hội suy thoái. Điểm yếu của lao động Việt Nam là thiếu kỹ năng

mềm như cách làm việc nhóm, giao tiếp, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng tuân
thủ quy trình lao động...Đó chính là một phần nguyên nhân dẫn đến những
yếu điểm trên.
 Để khắc phục yếu điểm và phát triển kỹ năng cho nguồn nhân lực Đảng đã
không ngừng đề ra đường lối, chủ trương. Đại hội VIII của Đảng khẳng
định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
17


người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”. Đại hội XI cũng nêu rõ những giải pháp trực tiếp cho
chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị,
nhân cách con người Việt Nam”. Và gần đây nhất Đại hội XII tiếp tục khẳng
định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Chuyển
mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với
thực tiễn. Qua đó cho thấy Đảng đã và đang nhận thức được phát triển
GDĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
Đảng cũng yêu cầu tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý GDĐT, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GDĐT; tập trung nâng cao chất lượng
GDĐT, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành.
Kết luận: Như vậy trong thời đại Công nghệ 4.0 thì Đảng đã có những chiến
lược, chủ trương đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, cùng với đào tạo đội ngũ trí thức có
trình độ cao và tập trung bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, ứng
xử văn hóa, đạo đức công vụ. Và không phải chỉ trong thời đại nay mà ngay
trong những ngày đầu thành lập thì Đảng cũng đã định hướng đến phát triển

con người. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Nhật, Tưởng, Mỹ,…Đảng
cũng đã chủ trương cho những cán bộ xuất sắc du học về phục vụ kháng chiến
và tận dụng rất tốt thời cơ hay có những kế hoạch không đánh mà thắng giải
vây cho ta. Điều đó cho thấy kỹ năng lãnh đạo, kỹ nặng xử lý tình huống, kỹ
năng đàm phán,… được vận dụng thật sự rất thành công. Hơn thế, chúng ta
cũng đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ rất lớn của nước bạn. Tuy khốc liệt, khó
18


khăn nhưng nhờ bước đi đúng đắn mà Đảng đã thuyết phục, từ đó nhận được sự
viện trợ rất lớn từ Liên-xô về cả lương thực lần vũ khí hiện đại. Và trong thời
đại hiện nay để phát triển kinh tế, hòa nhập với thế giới, Đảng vận dụng và phát
triển những bài học kinh nghiệm từ đó có đường lối, chủ trương rất đúng đắn để
đào tạo nguồn nhân lực chát lượng cao phục vụ cho thời đại Công nghệ 4.0.
2. Những chính sách về việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:
1.
Sàng lọc, thay thế cán bộ yếu kém:
 Ngày 18 tháng 10 năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số:
16/2000/NQ-CP về việc tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp trong hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng
(khóa VIII).
 Ngày 05 tháng 11 năm 2012, ban tổ chức Trung ương đưa ra Hướng dẫn số
15-HD/BTCTW về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh
thần nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của bộ chính trị (khóa IX)
và kết luận số 24-KL/TW ngày 05/06/2012 của bộ chính trị (khóa XI); Nghị
định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ.
 Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/04/2015 của Bộ chính trị về tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (gọi tắt là Nghị
quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị) nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức, thu hút những người có đức, có tài, đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Để
thực hiện nghị quyết 39-NQ/TW thì Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định
số 2218/QĐ-TTg ngày 10 tháng 12 năm 2015.
 Ngày 06 tháng 01 năm 2017, Thủ tướng chính phủ đã đưa ra chỉ thị số
02/CT-TTg về việc đẩy mạnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế. Theo
công văn số 4951/VPCP-TCCV ngày 15/05/2017 của Văn phòng chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tăng
19


cường tổ chức thanh tra, kiểm tra công tác cán bộ... Ngày 24 tháng 01 năm
2018, Nghị quyết số 08/NQ-CP về chương trình hành động của chính phủ
thực hiện nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của hội nghị
lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống
tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn
vị công lập. Tại Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa XII, Chính Phủ đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 19/05/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
 Trong thời gian vừa qua, một số bộ, ngành và địa phương có tình trạng tuyển
dụng, bổ nhiệm công chức không đúng quy định, như bổ nhiệm lãnh đạo
nhiều hơn công chức chuyên môn, nghiệp vụ, bổ nhiệm người không đủ tiêu
chuẩn, điều kiện... Thủ tướng Chính Phủ đã chỉ đạo Bộ Nội Vụ khẩn trương
tiến hành kiểm tra, rà soát theo thông tin báo cáo phản ánh liên quan đến
việc tuyển dụng, bổ nhiệm "người nhà" tại 9 địa phương đơn vị gồm: tỉnh
Hà Giang; xã Hạ Sơn, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; huyện A Lưới, tỉnh
Thừa Thiên Huế; huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắc; tỉnh Bình Định; huyện
Phong Điền, thành phố Cần Thơ; Cục thuế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc
tổng cục thuế, bộ tài chính; tỉnh Yên Bái; Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế
thành phố Đà Nẵng). Thủ tướng Chính Phủ đã có văn bản yêu cầu các bộ,

ngành, địa phương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác cán bộ...
(Công văn số 4951/VPCP-TCCV ngày 15/5/2017 của Văn phòng Chính
Phủ). Sau kiểm tra, thanh tra, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương
miễn nhiệm chức vụ, điều chuyển công tác, chấm dứt hợp đồng đối với
trường hợp sai phạm; kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của những tổ chức, cá
nhân vi phạm trong công tác cán bộ; xử lí kỷ luật nghiêm minh theo quy
định của Đảng và của Pháp luật.
20


 Nhiều địa phương cũng đã thực hiện theo đường lối, chính sách của Đảng
về sàng lọc cán bộ không đủ năng lực. Ví dụ như ở huyện ủy Tiền Hải, tỉnh
Thái Bình đã xử lý hàng loạt cán bộ thuộc diện yếu về năng lực, kém về
phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ... từng bước
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đảng. Từ đại hội đảng bộ cấp cơ sở và
Đại hội Đảng bộ huyện Tiền Hải nhiệm kỳ 2015 - 2020 đến nay, có 14 cán
bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý đã bị cho thôi chức, thay
thế, điều chuyển công tác khác do yếu kém về năng lực, giảm sút uy tín, trì
trệ trong công tác. Thí dụ như dù còn 3 năm nữa mới đến tuổi về hưu, nhưng
Chủ tịch Liên đoàn Lao động huyện đã được đưa xuống làm chuyên viên
của đơn vị này do năng lực và sức khỏe hạn chế. Đối với trường hợp Phó
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ huyện, qua theo dõi, chỉ đạo, Thường trực Huyện
ủy thấy, nếu đồng chí này tiếp tục giữ nhiệm vụ lãnh đạo Hội Chữ thập đỏ
thì sẽ gây khó khăn cho Hội, vì sức khỏe, năng lực hạn chế. Lãnh đạo Huyện
ủy trực tiếp gặp gỡ trao đổi để đồng chí không tham gia lãnh đạo Hội trong
nhiệm kỳ mới. Bên cạnh đó, vào cuối năm 2016, Thường trực Huyện ủy gợi
ý kiểm điểm đối với 26 cán bộ, hạn chế về năng lực, uy tín, tinh thần trách
nhiệm. Trong sáu tháng đầu năm 2017, có 21 cán bộ, đảng viên bị cấp ủy và
ủy ban kiểm tra các cấp xử lý kỷ luật, trong đó, ba trường hợp bị khai trừ
Đảng. Trước sự chỉ đạo kiên quyết của Huyện ủy, UBND huyện đã điều

chuyển công tác một số công chức, viên chức thực thi công vụ kém hiệu
quả, để nhân dân phàn nàn. Việc miễn nhiệm, cho thôi giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý do năng lực, sức khỏe yếu đã tạo cơ hội cho đội ngũ cán bộ trẻ, cán
bộ dự nguồn có động lực phấn đấu, thay thế khi đủ điều kiện. Nhờ đó, cán
bộ, công chức có chuyển biến rõ nét, làm việc trách nhiệm hơn, mọi mặt
hoạt động và các phong trào ở địa phương khởi sắc rõ nét. Đến nay, toàn
huyện có 26 trong tổng số 35 xã, thị trấn được công nhận đạt chuẩn nông
21


thôn mới; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 34 triệu đồng năm 2016;
huyện thu hút thêm nhiều dự án đầu tư.
 Hay như ở thành phố Hồ Chí Minh thì chính quyền khuyến khích cán bộ yếu
kém từ chức, xây dựng quy định pháp luật hướng tới phát huy vai trò và
thẩm quyền, đề cao trách nhiệm với người đứng đầu. Theo đó, người đứng
đầu sẽ tự chịu trách nhiệm đối với việc kiểm tra, phát hiện, đình chỉ công tác
và xử lý theo pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức dưới quyền khi
có dấu hiệu vi phạm hoặc chậm trễ, trì trệ, kém hiệu quả trong thực hiện
chính sách, nhiệm vụ được giao. TPHCM sẽ có cơ chế giám sát, giải quyết
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu không đáp ứng kỳ vọng và
yêu cầu phát triển của cơ quan đơn vị, lĩnh vực phụ trách.
 Công tác sàng lọc, thay thế cán bộ yếu kém đang được các địa phương, ban
ngành thực hiện khá đồng bộ và hiệu quả.
2. Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài:
 Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 28/6/1997
của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách cơ bản về tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức. Có thể kể ra một số văn bản như: Nghị định số
24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ Quy định về tuyển dụng, sử

dụng và quản lý công chức; Quyết định số 170/QĐ-TTg phê duyệt “Dự án
thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường về
làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thuộc 62 huyện nghèo” (các tỉnh Cao
Bằng, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Ngãi và Kon Tum...); ngày 30 tháng 09
năm 2013, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1758/QĐ-TTg của Thủ
22


tướng Chính phủ về phê duyệt “Đề án thí điểm tuyển chọn trí thức trẻ tình
nguyện về các xã tham gia phát triển nông thôn, miền núi giai đoạn 2013 –
2020”; Đối với những sinh viên tốt nghiệp loại xuất sắc, những cán bộ khoa
học trẻ, một bộ phận rất quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao, Bộ
Chính trị đã có Kết luận số 86-KL/TW ngày 24 tháng 01 năm 2014 về
“Chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán
bộ khoa học trẻ” (Gọi tắt là Đề án 1000).
 Theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các tỉnh/thành, địa phương
trong cả nước cũng ban hành nhiều chính sách để thu hút, phát triển, sử
dụng, phát huy và trọng dụng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Quyết
định số 42/2008/QĐ-UBND ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyến khích
người có trình độ cao trên địa bàn tỉnh An Giang;Quyết định số
91/2009/QĐ-UBND của UBND Thành phố Hà Nội ngày 22/7/2009 về việc
ban hành quy định về thu hút, sử dụng, đào tạo tài năng trẻ và nguồn nhân
lực chất lượng cao của Thành phố Hà Nội; Quyết định 93/2003/QĐ- UB
ngày 5/8/2003 của Thành phố Hà Nội về việc thành lập Quỹ ưu đãi khuyến
khích các nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, người có trình độ cao
tham gia cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ Đô;Quyết định
số 22/2011/QĐ-UBND của UBND TP Hồ Chí Minh ngày 14/5/2011về ban
hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX
về Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn 2011 – 2015...
 Những chính sách thu hút, đãi ngộ nhân tài của nhà nước ta đã đạt được thực
hiện trong thực tiễn các tổ chức, các tỉnh, các huyện, các doanh nghiệp...
+ Chính sách đãi ngộ về tài chính: Chế độ trả lương cho nhân tài được cải
thiện, họ được nhận lương tương xứng với năng lực của mình, làm họ
thỏa mãn nhu cầu về vật chất. Các tổ chức, cơ quan hỗ trợ về phương
23


tiện đi lại, nhà ở, trợ cấp y tế, trợ cấp khi gặp khó khăn về kinh tế. Ngoài
ra nhân tài hoàn thành xong công việc của mình còn được biểu dương,
khen ngợi và nhận được tiền thưởng. Điều này đã khuyến khích họ hăng
hái với công việc hơn. Bên cạnh đó, nhân tài còn được nhận nhiều phúc
lợi khác từ cơ quan tổ chức mà họ làm việc. Ví dụ như: UBND TP Cần
Thơ ban hành chính sách đãi ngộ nhân tài. Theo đó, cán bộ công chức
hoàn thành chương trình thạc sỹ trong thành phố được thưởng 20 triệu
đồng/ người (ngoài thành phố 30 triệu đồng/ người), tiến sĩ: 40 triệu
đồng/ người; bác sĩ chuyên khoa cấp 1: 25 triệu đồng/ người, chuyên
khoa cấp 2: 30 triệu đồng/ người. Đối với cán bộ khoa học công nghệ ở
tỉnh khác đến làm việc tại thành phố Cần Thơ cam kết phục vụ từ 5 năm
trở lên được hỗ trợ ban đầu 30 triệu đồng/ người (đối với thạc sỹ), 40
triệu đồng/ người (đối với tiến sỹ), 25 triệu đồng/ người (bác sĩ chuyên
khoa cấp 1), 30 triệu đồng/ người (bác sỹ chuyên khoa cấp 2)
+ Chính sách đãi ngộ, thu hút phi tài chính: Các tổ chức, cơ quan đã tạo ra
môi trường làm việc tốt, điều kiện vật chất đảm bảo, nâng cao niềm vui
trong công việc cho nhân tài, tạo không khí vui vẻ cho nhân tài. Đã đối
xử, đánh giá nhân tài một cách công bằng. Các nhu cầu như nhà ở, cơ hội
học tập của nhân tài đã được đáp ứng. Họ được các tổ chức, cơ quan cử
đi đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn đáp ứng nhu cầu công việc.
Từ đó giúp họ thăng tiến nhanh.

 Hà Nội là một trong số những địa phương rất tích cực trong việc áp dụng các
chính sách thu hút này. TP.Hà Nội đang tiếp tục thực hiện chính sách thu hút
nguồn nhân lực chất lượng cao theo Nghị quyết số 14/2013/NQ-HĐND
Thành phố; tổ chức tuyển dụng công chức, viên chức theo hướng nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực thông qua tuyển dụng không qua thi tuyển đối
với người tốt nghiệp đại học loại giỏi, loại xuất sắc trong và ngoài nước,
24


người có kinh nghiệm 5 năm công tác. Về tuyển dụng viên chức, Thành phố
tổ chức tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua xét tuyển đặc
cách đối với thủ khoa xuất sắc, bác sỹ nội trú của ngành y tế (đã tuyển dụng
10 bác sỹ), đối với người tốt nghiệp đại học loại giỏi và thạc sỹ được đào tạo
bằng tiếng nước ngoài, có khả năng sử dụng thành thạo tiếng nước ngoài của
Trung tâm Xúc tiến, Đầu tư Thương mại, Du lịch.
 Không chỉ có các cơ quan hành chính nhà nước mới đưa ra những chính
sách đãi ngộ thu hút đối với nhân tài mà ngay cả các công ty doanh nghiệp
cũng đang từng bước đưa ra những chính sách phù hợp hơn với nhân tài để
họ có thể phát huy được mọi khả năng của bản thân và hoàn thành tốt công
việc được giao. Ví dụ như những chính sách thu hút của Công ty phát triển
KCN Biên Hòa cũng khá phù hợp gồm: ngoài lương tháng 13, được thưởng
từ 2-4 tháng lương tùy theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm
của công ty và căn cứ vào kết quả thực hiện công việc của từng các nhân;
được xem xét cử đi đào tạo, huấn luyện nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ,
ngoại ngữ,...

25



×