Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận đường lối xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao của việt nam trong thời kỳ đổi mới (từ đại hội 10 năm 2001 đến đại hội 12)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.59 KB, 21 trang )

: Ths. nguyễn Thu hải

I. Khái niệm và tầm quan trọng của Nguồn nhân lực chất lượng cao
1. Khái niệm về Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được hiểu là số lượng và chất lượng con người, bao gồm cả chất
và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó
là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năngđược chuẩn bị sẵn sàng để tham
gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó (Phạm Minh
Hạc,2001).
Nguồn nhân lực theo cách tiếp cận mới có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu tố
cấu thành khác nhau như số lượng, tri thức, khả năng tiếp nhận và tiếp thu kiến thức, tính
năng động xã hội, sức sáng tạo… Các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người
không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của
thể lực và trí lực, mang tinh thần và tính cá nhân sáng tạo trong một cộng đồng, một quốc
gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Như vậy tùy từng góc độ xem xét khác nhau mà có những khái niệm khác nhau về
nguồn nhân lực, tuy nhiên có thể thấy các khái niệm này đều thống nhất trong một nội
dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người với
tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và
vô tận cho sự phát triển của xã hội, nó là sự tổng hợp của cả chất lượng và số lượng, là
tập hợp các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong việc cải tạo tự nhiên
và xã hội.
Tổng hợp những khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực, ta có thể đưa ra định
nghĩa khái quát về Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng
con người với tổng hòa các tiêu chí về thể lực, trí lực và những phẩm chất đạo đức,
tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã họi đã, đang và sẽ huy động
vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ của toàn xã hội.

2. Khái niệm Nguồn nhân lực chất lượng cao
Từ thời của Mác, dù chưa đề cập đến thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao
nhưng Mác đã nêu ra quan niệm về những người có trình độ, có khả năng ứng dụng các


thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, đó là những con người có năng lực phát triển
toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực
tiễn (C.Mác và Ph.Ăng-ghen,1993).


Tại Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 6 khóa IX, Đảng ta đã lần đầu tiên
sử dụng thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao thông qua con đường phát triển, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ chính là
khâu then chốt để nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. Đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta lại một lần nữa nhấn mạnh thuật ngữ này khi đưa ra
định hướng chính sách tập trung phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo
quan điểm của Đảng, nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm đội ngũ các nhà khoa học
và công nghệ, các công trình sư, kỹ sư, các công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
Theo Bùi Thị Ngọc Lan (trích dẫn bởi Nguyễn Thị Thanh Liên, 2011) nhân lực
chất lượng cao phải có đủ kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp, làm chủ được
các thiết bị, công nghệ hiện đại, sử dụng được một ngoại ngữ trong chuyên môn giao tiếp,
ứng xử , hợp tác, năng lực hoạt động sáng tạo, tác phong lao động công nghiệp, có lương
tâm nghề nghiệp và sức khỏe tốt.
Theo Đinh Sơn Hùng và Trần Gia Trung Đinh (2001) thì nguồn nhân lực chất
lượng cao là khái niệm để chỉ những người lao động đã được đào tạo, có trình độ học
vấn, tay nghề cao ( về chuyên môn kỹ thuật tương ứng với một ngành nghề cụ thể theo
tiêu chí phân loại lao động về chuyên môn kỹ thuật nhất định ( đại học, trên đại học, cao
đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề) và trên thực tế có kỹ năng lao động giỏi. Những lao
động này có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi liên tục của môi trường công việc,
có sức khỏe và phẩm chất tốt, có tính kỷ luật, đạo đức và tác phong chuyên nghiệp, mong
muốn đóng góp tài năng, công sức của mình cho sự thành công, phát triển chung của tập
thể.
Tiêu chí về lượng cho thấy nhân lực chất lượng cao, nói chung là phải tốt nghiệp
từ cao đẳng – đại học trở lên, nhưng phải từ loại khá , giỏi. Tiêu chí chất lượng thể hiện ở
năng lực, linh hoạt, sáng tạo, ý chí vượt khó, đạo đức nghề nghiệp thể hiện tinh thần trách

nhiệm cao, kỹ năng nghề nghiệp tạo nên sản phẩm có chất lượng khá và tốt, phù hợp qua
hoạt động thực tế.
Xét về mặt kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì nguồn nhân lực chất lượng
cao phải có năng lực nhận thức và thực hành kinh tế thị trường chuyển dần sang nền kinh
tế thị trường hiện đại. Điều đó có ý nghĩa là nguồn nhân lực này có khả năng hội nhập
quốc tế, khả năng thông hiểu thị trường quốc tế và làm việc, hợp tác, đàm phán trong môi
trường văn hóa mà không hòa tan bản sắc dân tộc. Nguồn nhân lực như thế không chỉ là
những con người kinh tế mà còn là những con người văn hóa, con người có đạo đức nghề
nghiệp, có tầm nhìn quốc tế và hành động địa phương. Xét về mặt chính trị công dân,
2


nguồn nhân lực chất lượng cao là những người không chỉ có trí tuệ , văn hóa nghề nghiệp
mà còn là những con người có ý thức, năng lực thực thi công dân và pháp quyền (Hồ Bá
Thâm, 2012).
Từ những nhận định trên, có thể khái quát Nguồn nhân lực chất lượng cao là
một bộ phận nguồn nhân lực có sức khỏe đáp ứng yêu cầu, được đào tạo dài hạn, có
chuyên môn kỹ thuật cao, có phẩm chất đạo đức tiêu biểu, có khả năng thích ứng
nhanh với những thay đổi công nghệ, biết vận dụng sáng tạo những tri thức, kỹ năng
đã dược đào tạo vào qua trình lao động sản xuất, đóng góp cho sự phát triển kinh tế,
xã hội một cách hiệu quả nhất.

3. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao
Ở Việt Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò hết sức quan trọng bởi lẽ:
1. Hiện tại, nền kinh tế của chúng ta đang thuộc nhóm chậm phát triển. Xu thế hội
nhập, toàn cầu hóa đã và đang là xu thế toàn cầu, không quốc gia nào có thể đứng ngoài.
Việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao là đòi hỏi khách quan của công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao

động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo
cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xem xét thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam cho thấy, mặc dù sau 25 năm đổi
mới với nhiều nỗ lực, nguồn nhân lực nước ta đã đạt những thành tựu đáng kể. Trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thể lực của con người Việt Nam đã từng bước
được nâng lên. Nhưng so với nhiều nước trong khu vực và so với yêu cầu của quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì chất lượng
nguồn nhân lực của nước ta còn rất thấp kém và đang ở mức báo động đáng lo ngại. Vài
con số dưới đây cho chúng ta thấy rõ bức tranh thực trạng này:
Hiện nay ở Việt Nam, lực lượng lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật mới
chỉ đạt 13,3%, trong khi dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật
là 86,7%. Riêng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lao động qua đào tạo nghề mới chỉ
đạt khoảng 7 - 8%. Trong lĩnh vực công nghiệp, lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên
3


chiếm 16,1%; trung cấp: 14,6%; công nhân kỹ thuật: 28,1%; không được đào tạo: 41,2%
(Theo Báo cáo điều tra lao động và việc làm của tổng cục thống kê năm 2011).Hiện nay,
“ở các khu công nghiệp, khu chế xuất đang thiếu nghiêm trọng công nhân có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao; chỉ có 75,85% công nhân đang làm những công việc phù hợp
với ngành nghề được đào tạo”. Song không phải tất cả số này đã có thể đáp ứng nổi yêu
cầu của công nghệ mới, của thị trường lao động. Vậy mà hiện đang diễn ra cuộc giành
giật gay gắt về nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các doanh nghiệp trong nước cũng
như giữa các quốc gia .
Mặt khác, mặc dù trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của
nước ta đạt xấp xỉ 7,2%, song chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp và thiếu tính bền
vững, bởi vì cấu trúc đầu vào của tăng trưởng kinh tế chủ yếu là dựa vào nguồn vốn đầu
tư, vào khai thác tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng thấp.

Do vậy, tốc độ tăng năng suất lao động trong giai đoạn 2001 - 2010 của nước ta
trung bình là 5,13%. Tốc độ tăng này thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực.
Trung Quốc gấp trên 2 lần so với Việt Nam; Thái Lan gấp 4,5 lần; Malaysia gấp 12 lần và
Hàn Quốc gấp 23,5 lần. Xét về năng lực cạnh tranh giữa các nền kinh tế, năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam rất thấp và hầu như không được cải thiện từ năm 2001
đến nay. Với mô hình phát triển này chứa đựng rất nhiều bất ổn về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Trên thực tế, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng; an
sinh xã hội chưa bền vững, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri
thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực , nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác
định phải lấy sự nghiệp phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững.
2. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật và công nghệ trong thời gian
qua và dự báo thời gian tới cho thấy sẽ có sự chuyển dịch mạnh trong nguồn nhân lực nói
chung, trong đó, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao là rất lớn. Việt Nam đang
thực hiện chiến lược "công nghiệp hóa – hiện đại hóa" đất nước, do đó, không thể thiếu
nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là mục tiêu, là giải pháp, là yêu cầu chủ quan của
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã được xác định nhất quán
trong các văn kiện từ Đại Hội X tới nay.
4


3. Đối với mọi nền kinh tế, việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao càng cần
thiết vì đó là cơ sở để nâng cao năng lực và hiệu xuất của nền sản xuất, thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt
hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nhằm phát triển bền vững. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính
quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao

động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác
một cách có hiệu quả để phục vụ cho lợi ích phát triển kinh tế, tạo nên hiệu suất lao động
có hiệu quả.
4. Thực tế trong những năm vừa qua, một số khu công nghiệp hiện đại được nước
ngoài đầu tư tại Việt Nam nhưng chỉ thu hút được nguồn lao động phổ thông, những công
đoạn đòi hỏi lao động có tay nghề cao thì ta chưa đáp ứng được, việc phát huy hiệu quả
của các khu công nghiệp đạt thấp, không ngang tầm giá trị đầu tư, gây lãng phí lớn cho
nền kinh tế đất nước.

II. Chủ trương của Đảng qua các kì đại hội IX, X, XI và sự phát triển trong
nhận thức về vấn đề xây dựng Nguồn nhân lực chất lượng cao
1. Chủ trương đường lối của Đảng trong vấn đề xây dựng Nguồn nhân lực chất
lượng cao
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng định
với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú trọng. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã đưa ra quan điểm “lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững”
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cũng khẳng định “Nâng cao
dân trí, bồi dưỡng phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến
cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung
học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế
5


tri thức”. Phương hướng này đã được cụ thể hóa bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi

vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến lược
phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X thể hiện rõ quyết
tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc
sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt
Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các giải pháp thực thi được tập
trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn nhân lực trong mối
quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương thức đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua
phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu...
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ
các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định
ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là
khâu đột phá đúng và trúng, “là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa
học-công nghệ “, “ là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, đảm bảo cho phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững”. Với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc
tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ, khâu đột phá trúng
và đúng này đã và đang tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn tại
và phát triển trong một thế giới năng động, thế giới của khoa học và công nghệ. Vì thế,
Đại hội XI của Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đây chính là nội dung
quan trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta
trong điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ những giải
pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “xây dựng và hoàn thiện
giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe,

tầm vóc con người Việt Nam”.
Có thể thấy rõ những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển nguồn nhân lực
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gồm :
6


− Thứ nhất, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã
hội. Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát triển toàn diện, đủ khả
năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thì việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để ngày càng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp bách và mang
tính quyết định. Vì thế, để có nguồn nhân lực có chất lượng Đảng và Nhà nước ta đã và
đang quan tâm đồng bộ tới những vấn đề sau:
+ Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người lao động.
Nâng cao đời sống vật chất cho người lao động trước hết thông qua đường lối,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. (Cương lĩnh
1991): “Chính sách xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to
lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội”
+ Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Tình
trạng phân hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng với việc phát triển kinh tế thị
trường những năm đổi mới đã tạo ra những hệ lụy về mặt xã hội sâu sắc. Giải
quyết tình trạng này phải giữ vững nguyên tắc vừa bảo đảm kích thích sản xuất
phát triển vừa có chính sách xã hội để tạo nên sự công bằng trong xã hội ở thời
kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế. Điều
này giúp người lao động nước ta một mặt phát huy được tính tự tôn dân tộc,
quyết tâm phấn đấu cho nền kinh tế nước nhà phát triển sánh vai với các cường
quốc năm châu, mặt khác cũng tạo cơ hội để người lao động Việt Nam có thể
tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới, bồi bổ nguồn nhân lực trong nước, đáp

ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
+ Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đề hết sức áp lực
này phải được giải quyết theo “Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước
cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương
trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân,
mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động… Giảm
đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”
+ Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho
người lao động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân số - kế hoạch hóa gia
đình là bảo đảm thể chất và tính ổn định của nguồn nhân lực. Vấn đề này được
Đảng xác định: “Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và
mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể
7


nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt”(12),
đồng thời đã có chương trình về kế hoạch hóa gia đình, ổn định tỷ lệ tăng dân
số.
+ Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm thể chất cho nguồn nhân
lực của đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam.
− Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân chủ hóa, nhân văn hóa đời
sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại. Đó là
quan điểm tạo môi trường lành mạnh cho các giá trị sống của nguồn nhân lực phát triển.
Để có được môi trường đó, trước hết phải coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức,
trách nhiệm công dân, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống văn
hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền
đồ của đất nước.
− Thứ ba, nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ. Đảng ta đã chỉ
rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân
tài, kể cả người Việt nam ở nước ngoài”. Giải quyết tốt vấn đề này là tạo được yếu tố nội

sinh của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập.
− Thứ tư, để có nguồn nhân lực tốt trước hết phải có chiến lược phát triển con người trên cơ
sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển.
2. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về vấn đề xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng cao qua từng thời kỳ:
Nhìn chung, quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực có bước phát
triển qua từng kì đại hội và ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn. Trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ năm 1991 Đảng ta đã chỉ rõ con người chính là
nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Kể từ đó, ở đại hội
VIII, IX, X, Đảng ta tiếp tục đưa ra chiến lược phát triển con người và khẳng định sự cần
thiết phải phát triển nguồn nhân lực nói chung đáp ứng những yêu cầu mới của sự phát
triển đất nước. Trong từng thời kì, nhận thức của Đảng về vấn đè nguồn nhân lực cũng có
những khác biệt và được điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới. Khác với các kì đại
hội trước, ở Đại hội XI Đảng ta không chỉ đặt vấn đề tiếp tục phát triển nguồn nhân lực
nói chung mà còn nhấn mạnh đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội
XI (2011) một mặt là sự tiếp nối tư tưởng đó, mặt khác cụ thể hóa, bổ sung, phát triển và
làm sáng tỏ thêm một số nội dung mới. Thể hiện ở 3 điểm sau:
− Thứ nhất, điều chỉnh đặc trung về con người trong xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây
dựng đó là” Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
8


toàn diện”. Đảng nêu ra quan điểm mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người,
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” Điểm mới
trong tư duy của Đảng là một mặt khẳng định vai trò chủ thể của con người, mặt khác chỉ
rõ để con người có điều kiện phát triển toàn diện và thực sự là chủ thể cần phải có cơ chế
thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân
dân phát huy tối đa quyền làm chủ của mình. Bởi lẽ dân chủ là một trong những điều kiện
cơ bản nhất để phát huy tính sáng tạo của con người, tạo ra sự đồng thuận xã hội cao

cũng là yếu tố không thể thiếu để tạo động lực phát triển đất nước.
− Thứ hai, Đảng ta lựa chọn phát triển nhanh nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là khâu đột phát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến 2020. Mặc
dù đại hội X đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy manh công nghiệp hóa-hiện
đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải ptr nguồn nhân lực tức là chuyển hướng chiến lược
pt nnl theo chiều rộng sang chiều sâu coi trọng va gia tăng nhanh chất lug nguon nl Song
đại hội X cũng như các kì Đại Hội trước chưa xác định đây là khâu đột phá, là những
khâu trọng yếu của sự phát triển
− Thứ ba, đặt ra yêu cầu phải” gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng Khoa học-Công nghệ” Đối với Việt nam môt nước có xuất phát điểm
thấp, sự gắn kết này là yêu cầu nghiêm ngặt và càng phải được coi trọng thậm chí là vấn
đề sống còn của sự nghiệp đổi mới nước ta Do vậy đây là một nội dung mới thể hiện tính
hướng đích của Đảng ta trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững.

III. Thành tựu và ưu thế trong việc áp dụng chính sách xây dựng Nguồn nhân
lực chất lượng cao
1. Thành tựu

Thực hiện đường lối của Đảng, sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng về sự nghiệp giáo dục - đào tạo trên cả ba mặt: nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Cùng với củng cố kết quả xoá mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học, việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được triển khai
tích cực, đến hết năm 2005 có 30 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Số học
sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm và dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm,
sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Các trường sư phạm từ Trung ương đến
địa phương tiếp tục được củng cố và phát triển. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến
tích cực, bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh
9



niên dân tộc thiểu số, người tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói, giảm
nghèo.
Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy
nghề đến cao đẳng, đại học. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung cấp
chuyên nghiệp, trung học phổ thông và dạy nghề đã được thành lập. Đầu tư cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005, chi cho giáo dục và đào tạo
chiếm khoảng 18% tổng chi ngân sách Nhà nước; đã huy động được nhiều nguồn vốn
khác để phát triển giáo dục thông qua phát hành công trái giáo dục, đóng góp của dân
cư, của doanh nghiệp, vốn từ nước ngoài. Cơ sở vật chất của ngành được tăng cường,
đặc biệt là ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

2. Ưu thế
a. Lực lượng lao động dồi dào. Theo số liệu tính đến năm 2011 thì nước ta có khoảng
43.8 triệu người nằm trong độ tuổi lao động tức chiếm khoảng 51.1% dân số. Mỗi
năm có thêm khoảng 1.8 triệu người bước thêm vào độ tuổi lao động (từ 15 trở lên)
trong khi đó số người ra khỏi độ tuổi lao động (từ 60 trở lên) chỉ là 0.35 triệu người,
dự tính trong các năm tới mức tăng dân số trong độ tuổi lao động là khoảng 2.5%.
Điều này cho thấy Việt Nam đang bước vào “ngưỡng cửa” của “cơ cấu dân số vàng”.
Đây được xem là cơ hội tạo nên một bước đột phá cho sự phát triển của đất nước.
Với một lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ như vậy sẽ là một lợi thế lớn, tiềm năng
và thế mạnh lớn để giúp cho phát triển kinh tế đối với một nước đang phát triển và
đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta.

10


b. Tỷ trọng lao động trẻ cao, phần lớn có văn hoá phổ thông. Ở Việt Nam mỗi năm số
dân bước vào độ tuổi lao động là khá cao (1.8 triệu người), lực lượng lao động trẻ dồi
dào và có văn hoá phổ thông có nhiều lợi thế như là có sức khoẻ, năng động, có khả
năng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp dễ dàng, ngay cả đối với các ngành mới và có

nhiệt huyết với nghề nghiệp hơn. Một nền kinh tế trẻ, năng động và phát triển.

c. Lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài là khá lớn tập trung ở châu Âu, châu Mỹ,
các nước châu Á phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc) là những nơi có nền kinh tế phát
triển, có công nghệ khoa học và trình độ phát triển cao. Trong đó tỉ lệ người có trình
độ nghiệp vụ và huyên môn cao là đáng kể (khoảng 300.000). Đây là một nguồn lực
quan trọng góp phần phát triển đất nước, là cầu nối giữa để chuyển giao các công
nghệ, tri thức về trong nước và tạo dựng các mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với
các nước trên thế giới.
11


d. Người Việt Nam vốn có bản tính hiếu học, thông minh, cần cù lao động và đoàn kết.
Đó là cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những
sáng tạo, những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính cộng đồng, ý thức trách nhiệm với cộng
đồng được phát huy mạnh mẽ có thể hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc truyền bá tay
nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát
triển cơ nghiệp,giúp nhau về công ăn việc làm. Đây là một trong những ưu điểm
mạnh nhất của lao động Việt Nam.

IV. Hạn chế trong chủ trương xây dựng Nguồn nhân lực chất lượng cao
1. Về đào tạo
Nguồn nhân lực Việt Nam tuy dồi dào về số lượng nhưng chất lượng không cao.
Số người có trình độ chuyên môn và khoa học tuy đã đào tạo được hơn 7 triệu người
nhưng so với yêu cầu của hội nhập kinh tế thế giới thì tỷ lệ còn thấp. Hiện nay nước ta
đang thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành
nghề, có tay nghề cao. Theo kết quả điều tra lao động việc làm thì vẫn còn trên 15% số
lao động chưa tốt nghiệp tiểu học, trong đó chưa biết chữ chiếm gần 4% ,trong số lao
động trong nhóm tuổi 15-34 tuổi số người không có chuyên môn kĩ thuật chiếm 84%.

Thực tế cho thấy, hiện chỉ có khoảng 35% lao động VN được qua đào tạo và tỷ lệ lao
động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%, 78% thanh niên trong độ tuổi 20-24 khi
tham gia vào thị trường lao động chưa được đào tạo nghề hoặc có đào tạo nhưng vẫn bị
hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Bên cạnh đó, những lao động có trình độ cao đã được
đào tạo hiện nay cũng chỉ đáp ứng được 15-20% yêu cầu của DN. Theo đánh giá của
Ngân hàng Thế giới (WB), nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt
Nam chỉ đạt 3,79 điểm - xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB (theo
Hội nhập ASEAN trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp-cơ hội và thách thức," do Tổng
cục Dạy nghề, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổ chức tại Thành phố Hồ Chí
Minh); trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94...
Chất lượng lao động thấp nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu
Á – Thái Bình Dương, trong đó, thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11
lần và Hàn Quốc 10 lần. Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái
Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2% mỗi năm.
Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất
trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Điều này dẫn đến việc nhiều
doanh nghiệp đang thiếu lao động kĩ thuật, trong khi chúng ta đang trong quá trình
12


chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả, tính bền vững. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất khi tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
Đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có trình độ cao còn ít dẫn đến việc chuẩn bị cho thế
hệ kế cận gặp nhiều khó khăn do chương trình đào tạo còn coi nhẹ thực hành coi nhẹ vận
dụng kiến thức, nặng về lý thuyết, hàn lâm, không gắn với thực tiễn, không gắn với
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, không chỉ ở phổ thông mà ở cả đại học.
Về chất lượng đội ngũ nhà giáo được cải thiện, mới chỉ chủ yếu cải thiện về bằng cấp của
thầy cô và quản lý giáo dục. Nhiều địa phương báo cáo tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và vượt

chuẩn rất cao, nhưng trình độ thật của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, bao
gồm trình độ nghiệp vụ, chuyên môn và phẩm chất đạo đức, vẫn chưa theo kịp yêu cầu
đổi mới và phát triển giáo dục. Yếu kém của đội ngũ giáo viên hiện nay nổi lên mấy vấn
đề là thiếu về số lượng, không đồng bộ về cơ cấu ngành nghề đào tạo. Đặc biệt thiếu
nghiêm trọng giáo viên cho các nghề mới, thiếu giáo viên giỏi thực sự. Mặt khác, giáo
viên dạy nghề nước ta ít được tiếp cận với khoa học kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại
nên chất lượng đào tạo nghề chắc chắn bị hạn chế. Không những thế, họ còn nhiều hạn
chế về năng lực sư phạm, cũng như trình độ ngoại ngữ, tin học nên việc giảng dạy, cũng
như khai thác, sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại vào đào tạo nghề còn
gặp nhiều khó khăn. Thực tế việc đào tạo giáo viên dạy nghề ở các trường sư phạm kỹ
thuật hiện nay là quá ít ( chiếm khoảng 10%), trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng
nhiều hơn. Điều này đặt ra sự cần thiết phải có những phương hướng, mô hình đào tạo
giáo viên dạy nghề một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu đào tạo giáo viên cho nhiều
ngành nghề khác nhau trong xã hội, đồng thời phải gắn đào tạo với mục đích sử dụng họ
sau khi ra trường. Hay nói một cách dễ hiểu là đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn bằng cấp
nhưng chưa đạt chuẩn nghề nghiệp chuyên môn.
Ngoài ra, hiện nay người lao động làm việc trái ngành nghề được đào tạo đang là vấn đề
khá phổ biến. Thực tế cho thấy, tỉ lệ người lao động được đào tạo sau khi ra trường làm
trái ngành nghề chiếm tỉ lệ khá cao, số lượng nhân viên chưa hài lòng với công việc hiện
tại cũng không ít. Điều này cho thấy, thực trạng người lao động không nắm bắt được nhu
cầu nguồn nhân lực của xã hội; sự lựa chọn sai lệch ngành nghề trong quá trình đào tạo
đã ảnh hưởng rất nhiều đến công việc và thành công trong tương lai. Theo thống kê của
Bộ lao động thương binh và xã hội, thì tỉ lệ sinh viên ra trường làm trái ngành, trái nghề
chiếm khoảng 40%. Hiện tại cả nước cũng chỉ có hơn 20 trường đại học đạt tỉ lệ 60%
sinh viên sau khi ra trường có việc làm đúng ngành đào tạo. Hầu hết người lao động sau
13


khi được đào tạo đều bỡ ngỡ khi bước vào môi trường làm việc thực sự, nhiều doanh
nghiệp cho rằng hầu hết phải đào tạo bổ sung hoặc đào tạo lại sau khi tuyển dụng. Vấn đề

này gây nên hiện trạng lãng phí thời gian học tập, đào tạo và kinh phí chi cho giáo dục.

2. Về sử dụng
Cơ cấu, bố trí sử dụng nguồn nhân lực còn bất hợp lí: mất cân đối tỷ lệ về trình độ
nhân lực đã qua đào tạo .Theo thống kê ở nước ta cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16
cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế
giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó
của thế giới là 100 .Đây chính là tình trạng “thầy nhiều hơn thợ”. Ngoài ra việc bố trí sử
dụng cán bộ còn bất hợp lí giữa các vùng miền, giữa các ngành. 80% cán bộ khoa học
công nghệ làm việc ở Hà Nội, ở TP.HCM chỉ có 12%. Bình quân chung của cả nước ta là
118 sinh viên/1 vạn dân nhưng ở Tây Bắc và một số vùng miền núi khác chỉ là 17 sinh
viên/1 vạn dân. Hầu hết các nguồn lao động có chất lượng đều tập trung ở các thành phố
lớn, trong khí đó các vùng miền núi, nông thôn lại thiếu trầm trọng. Cùng với đó là mất
cân đối giữa các ngành đào tạo. Theo báo cáo của Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và
thông tin thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh năm 2011, nguồn cung nhân lực có
nhiều nghịch lý. Ở một số ngành như quản lý điều hành, tin học, kế toán, tài chính – ngân
hàng, kho bãi - vật tư - xuất nhập khẩu, trong khi nguồn lao động phổ thông thiếu thì
nguồn lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng, đại học lại chưa đáp ứng được chất
lượng. Theo báo cáo những ngành có chỉ số cung cao nhất là Kế toán –Kiểm toán trong
khi nhu cầu tuyển dụng chỉ có 3,25% đứng thứ 9 trong 10 ngành nghề được tuyển dụng
nhiều nhất. Ngược lại, ngành Điện tử - Viễn thông có nhu cầu tuyển dụng khá cao 5,96%
đứng thứ 5 trong 10 ngành nghề tuyển dụng nhiều nhất nhưng nguồn cung lại ở mức thấp
nhất. Việc này đã gây ra hiện tượng thừa thiếu lao động, nạn thất nghiệp đặc biệt trong
lao động tri thức.

3. Về đãi ngộ
Nhiều năm qua, “chảy máu chất xám” được coi là một hiện tượng phức tạp, buộc
nhiều quốc gia cần xem xét và điều chỉnh, từ đó có chính sách, biện pháp khắc phục. Bởi,
dù thế nào thì trong thế giới hiện đại, sự phát triển của mỗi quốc gia luôn cần tới vai trò
của tri thức, trí tuệ.Tuy nhiên, do cơ chế trả lương và đãi ngộ quá bất cập mà Việt Nam

đang phải chấp nhận tình trạng chảy máu chất xám hằng ngày, hằng giờ gây tốn kém
14


nhiều - kết quả ít. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cho biết, hiện có trên 3 vạn lưu học
sinh du học theo các con đường: Hiệp định giữa hai chính phủ, với học bổng của các tổ
chức nước ngoài, học bổng của chính phủ trong khuôn khổ đề án đào tạo cán bộ khoa học
kỹ thuật của các cơ sở nước ngoài bằng nguồn ngân sách Nhà nước (Đề án 322) và du
học tự túc. Với Đề án 322, từ năm 2000 đến 2010, Việt Nam đã chi hơn 2.500 tỉ đồng cho
khoảng 3.000 cán bộ, giảng viên đi nước ngoài học tập; và trong số 2.268 người được
đưa đi đào tạo tiến sĩ, thì chỉ có 1.074 tiến sĩ về nước. Chi phí bình quân cho mỗi du học
sinh theo đề án này là khoảng 22.000USD/năm. Như vậy, trong 10 năm Nhà nước phải
chi cho mỗi người là 220.000USD, tức gần 4,4 tỉ đồng. Việc thiếu những cơ chế hợp lý
đãi ngộ người tài đã khiến tình trạng chảy máu chất xám ở Việt Nam ngày càng nghiêm
trọng.
Ngoài ra, lực lượng và cở sở trang thiết bị để chăm sóc, cải thiện sức khoẻ người
dân vẫn còn quá thiếu thốn (đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng sa) dẫn đến thể trạng
và sức khoẻ lao động vẫn dậm chân tại chỗ. Đa số cơ sở sản xuất kinh doanh chưa có cán
bộ y tế, việc thực hiện đo môi trường lao động và khám sức khỏe định kỳ cho người lao
động chưa thường xuyên; việc phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát về công tác bảo
hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động và chăm sóc sức khoẻ cho người lao động
còn hạn chế, cản trở sự phát triển của xã hội. Vì vậy mặc dù đang được coi là nằm trong
thời kỳ cơ cấu dân số vàng nhưng chất lượng dân số của Việt Nam hiện được coi là thấp,
đặc biệt là chất lượng thể chất và thể lực.

4. Yếu tố khác
Ngoài những yếu tố kể trên, một phần nguyên nhân cũng đến từ chính người lao
động Việt Nam. Họ phần lớn chưa có nếp sống, tác phong lao động công nghiệp, vốn là
một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá năng lực và hiểu biết về nguồn nhân
lực. Tuy nhiên khái niệm “tác phong công nghiệp” dường như vẫn xa lạ với số đông

người Việt. Sự chậm chạp và lề mề trong công việc vốn đã trở thành vết hằn ăn sâu vào
máu thịt của từng người và chính vì thế, ở mọi lứa tuổi, mọi cấp bậc, địa vị trong xã hội
lúc này hay lúc khác, sự trễ nải, lỡ hẹn là không tránh khỏi. Việc chưa am hiểu tác phong
công nghiệp của người lao động thể hiện: chậm thích ứng với môi trường có sự giám sát
chuyên nghiệp, ít quan tâm các nội quy và chế độ an toàn lao động. Đây là yếu tố làm
giảm rất lớn chất lượng lao động Việt Nam nhất là trong xu thế hội nhập ngày nay sẽ tạo
nên một cái nhìn phản cảm trong con mắt của bạn bè quốc tế.
15


V. Giải pháp nâng cao chất lượng Nguồn nhân lực chất lượng cao Việt Nam
Trên cơ sở tìm hiểu quan điểm của Đảng qua các kì Đại hội về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao trong thời kì công nghiệp hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức
chúng tôi đưa ra một số giải pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
nước ta:
− Một là, đổi mới cơ cấu tổ chức và hoàn thiện hệ thống giáo dục và đào tạo. Chuyển dần
mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ
thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng
và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập thực hành linh
hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên.
* Chuyển chương trình đào tạo từ chủ yếu trang bị kiến thức sang mục tiêu phát
triển kỹ năng và năng lực hành nghề cho người học. Đa dạng hóa nội dung đào tạo theo
hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người
học. Đổi mới quản lý quá trình dạy và học, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá
kết quả đào tạo trên cơ sở chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào
việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, có sự tham gia của doanh nghiệp hoặc đại diện
sử dụng lao động. Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trình độ cao; tăng cường đầu
tư cơ sở vật chất trên cơ sở thực hiện xã hội hóa giáo dục; đào tạo gắn với việc làm và
theo nhu cầu xã hội.
* Đầu tư nguồn lực một cách có trọng tâm, trọng điểm để phát triển giáo dục mầm

non, giáo dục phổ thông. Thực hiện tốt chương trình phân ban và làm quen dần với các
chương trình tự chọn ở bậc trung học phổ thông. Tập trung nguồn lực cho các tỉnh khó
khăn để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ và chất lượng phổ cập trung học cơ sở theo lộ
trình.
* Chú ý phát triển hệ thống và nâng cao chất lượng dạy nghề, nhất là các nghề cho
nông dân trong lĩnh vực nông nghiệp và trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, đa
dạng hoá các loại hình dạy nghề, phát triển nhanh đào tạo nghề dài hạn theo hướng hiện
đại, chú ý dạy nghề cho xuất khẩu lao động, cho đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, góp phần xoá đói giảm nghèo, củng cố hệ thống chính trị ở địa phương cơ sở
vững mạnh.
* Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học theo hướng gắn đào tạo với sử
dụng, gắn kết có hiệu quả nghiên cứu khoa học với đào tạo giữa trường đại học với cơ sở
16


nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp. Đổi mới quy trình đào tạo theo hướng tăng cường
đào tạo cử nhân cao đẳng (cả số lượng và chất lượng), đào tạo cử nhân tài năng.
* Tập trung sức xây dựng và hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất
lượng. Xây dựng các chuẩn mực và công khai hoá các chuẩn mực. Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, thực hiện nền nếp kỷ cương trong các cơ sở giáo dục. Ngoài ra, các
cơ sỏ giáo dục tự chịu trách nhiệm về các hoạt động đào tạo từ việc chủ động trong tuyển
sinh, xây dựng chương trình đào tạo; xây dựng kế hoạch đào tạo, đánh giá kết quả đào tạo
trên cơ sở có sự tham gia của doanh nghiệp; chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng đào
tạo; đảm bảo chuẩn hoá “đầu vào”, “đầu ra”; tự kiểm định chất lượng đào tạo và chịu sự
đánh giá định kỳ của các cơ quan kiểm định chất lượng của nhà nước.
* Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước,
đồng thời huy động được tốt nhất sự đóng góp vật chất và trí tuệ của xã hội, của toàn dân
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, khắc phục mọi biểu hiện vụ lợi trong giáo dục, đào tạo.
* Tích cực, chủ động mở rộng hợp tác Quốc tế trong GD-ĐT, thu hẹp khoảng cách
giữa đào tạo trong nước và đào tạo ở nước ngoài, tạo điều kiện cho các cơ sở GD – ĐT và

người học tiếp cận với nền tri thức tiên tiến của nhân loại, với sự phát triển của khoa học,
công nghệ và trình độ quản lý của các nước trong khu vực và trên thế giới.
− Hai là, phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, đặc biệt là các bộ lãnh đạo, quản lý giỏi;
đội ngũ chuyên gia và cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của sự phát triển khoa học và công nghệ, thì việc
phát triển nguồn nhân lực trình độ cao phải trở thành chiến lược trong quá trình phát
triển. Đây là khâu đột phá trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước; cùng với đó đào tạo được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi về chuyên môn, có
đạo đức, tận tâm vì dân , vì Tổ quốc.
Phát triển đội ngũ chuyên gia để xây dựng được những cán bộ khoa học đầu đàn
trong tất cả các lĩnh vực của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật và
công nghệ. Đây là đội ngũ để phát triển khoa học, truyền bá tri thức chất lượng cao, góp
phần đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thời đại.
Cụ thể, tiến hành phát hiện, bồi dưỡng, tuyển dụng, trọng dụng nhân lực chất
lượng cao, nhân tài, phải vừa khai thác được chất xám của họ trong nghiên cứu, chế tạo,
ứng dụng thành quả nghiên cứu, vừa khuyến khích họ tranh thủ học tập, nâng cao trình
độ chuyên môn, kỹ năng; từ đó, xây dựng cán bộ lỹ thuật đầu ngành, chuyên gia giỏi ở
các lĩnh vực, tổ chức, doanh nghiệp.
17


− Ba là, các cơ quan chức năng cần phải có dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực của các
ngành nghề trong tương lai.
Đảng ta yêu cầu “làm tốt công tác dự báo nhu cầu lao động theo trình độ, cấp trình
độ”. Cụ thể, Cải thiện thông tin về thị trường lao động, trong đó cần có hệ thống dự báo
nhu cầu nhân lực quốc gia và cơ sở dữ liệu về đầu tư nguồn lực; thông tin về cung cầu
nhân lực các bộ, ngành, tỉnh, thành phố; cung cấp kịp thời các thông tin cho xã hội về đào
tạo, nhân lực, việc làm và quy hoạch chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia, các
địa phương và các bộ, ngành. Đây sẽ là căn cứ để giúp các cơ sở, trung tâm hoạch định
kế hoạch, chương trình đào tạo, giúp người lao đọng có được quyết định, sự lựa chọn

ngành nghề phù hợp với bản thân và nhu cầu của xã hội.
− Bốn là, thiết lập, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác hướng nghiệp.
Trong thời gian qua, vai trò của công tác hướng nghiệp bước đầu đã đạt được những
hiệu quả nhất định, góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc trong việc chọn
ngành,nghề phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Tuy nhiên
so với vị trí và vai trò của nó thì kết quả đạt được là chưa xứng tầm, chưa phát huy được
hết khả năng, đặc biệt là trong khâu tổ chức các hoạt động định hướng mang tính thực
tiễn. Để làm tốt điều này, trong các cơ sở giáo dục, đào tạo từ cấp phổ thông đến đại học
cần thành lập , chấn chỉnh các trung tâm hướng nghiệp, hoạt động thiết thực, đa dạng các
hình thức và nội dung hướng nghiệp, nhằm đem lại hiệu quả đúng như mục đích ban đầu
đã đề ra
Tổ chức các hoạt động hướng nghiệp làm cho người lao động lựa chọn được ngành
nghề phù hợp với sở thích, năng lực của bản thân, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của
thị trường lao động về các ngành nghề mà chúng ta đang thiếu nguồn nhân lực hiện nay.
− Năm là, nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực.Trong thời gian
qua công tác quản lý nguồn nhân lực của chúng ta còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa có hệ
thống chính sách quản lý cụ thể, mang tính chiến lược. Vì vậy, Nhà nước cần nghiên cứu
và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng nguồn nhân lực để có những chính sách sử
dụng nguồn lực con người một cách hợp lý. Nhà nước cũng cần đẩy mạnh việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế để chuyển dịch cơ cấu lao động, cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ
nhằm thu hút người lao động đi những vùng sâu, vùng xa, vùng thiếu lao động.
Ngoài ra, cần xây dựng chính sách ưu đãi hợp lý cho người lao động, tạo nền tảng
cho việc phát triển tinh thần, thể chất của họ. Hiện nay do điều kiện kinh tế hạn chế nên
cuộc sống của người lao động chưa cao. Vì vậy Nhà nước cần chú trọng nâng cao chất
18


lượng cuộc sống của người dân, thực hiện các công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng,
khuyến khích người dân tham gia các phong trào tập luyện thể dục thể thao, quan tâm
đến chế độ dinh dưỡng, chế độ bảo hiểm của họ. Đặc biệt Đảng ta cần cải cách chính

sách tiền lương , vốn là một trong những động lực quan trọng kích thích người lao động,
đảm bảo tối thiểu họ có thể sống được bằng đồng lương của họ.
Đối với đơn vị sử dụng lao động (bộ máy quản lý nhà nước và doanh nghiệp), cần
tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm đúng mức tới lợi ích kinh
tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc; thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi
ngộ, sử dụng trên cơ sở tăng cường quyền lực thực tế cho lãnh đạo các cấp; thực hiện dân
chủ, công khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao,
xóa bỏ các rào cản về tôn giáo, dân tộc trong việc chọn lựa người tài.
Chú trọng đào tạo lại thông qua tổ chức các chương trình đào tạo ngắn hạn; tạo
điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực chất lượng cao
tại doanh nghiệp; có chính sách thích hợp nhằm tạo môi trường thực tế cho sinh viên; xây
dựng một xã hội học tập, học tập suốt đời.

19


KẾT LUẬN
Trong bất kỳ một sự phát triển nào của xã hội, tất cả đều phải là sự hội tụ và tổng
hòa của rất nhiều nguồn lực. Các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực đều đóng vai trò khác
nhau song mỗi nguồn lực đều có sự quan trọng và có sự tương tác qua lại với nhau.
Nhưng có một điều mà chúng ta không thể phủ nhận đó là trong tất cả các nguồn lực đó
thì nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Nguồn nhân lực chính là tiền đề để tạo ra các
nguồn lực khác, Nguồn nhân lực chính là nguồn lực thừa hưởng và sử dụng các thành quả
mà nguồn lực khác mang lại. Nguồn nhân lực chính là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế, của thể chế chính trị và của cả xã hội con người.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã xác định vô cùng
đúng đắn về vai trò của nguồn nhân lực trong công cuộc xây dựng đất nước. Qua những
chính sách, chủ trương của Đảng về phát huy nguồn nhân lực trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta đã thấy rõ hơn tầm quan trọng của nguồn nhân lực.

Thực trạng về nguồn nhân lực ở nước ta nói chung và ngành khoa học kĩ thuật nói
riêng tuy còn nhiều hạn chế song bên cạnh đó ta vẫn thấy nhiều mặt tích cực. Qua việc
hiểu rõ thực trạng này, chúng ta cần đưa ra các biện pháp nhằm sớm khắc phục được các
thực trạng đó, làm nguồn nhân lực nước ta ngày càng lớn mạnh và có chất lượng. Đó
cũng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của đất nước.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
− Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , Nxb Sự
thật, Hà Nội. 1991.
− ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội 1996
− ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
trị quốc gia, Hà Nội 1997.
− Chính ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2001
− ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2006
− ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2011.
− Báo cáo kết quả Tổng điều tra Dân số và nhà ở ngày 1/4/2009 của Tổng cục Thống
kê, 2011.
− Hội nhập ASEAN trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp-cơ hội và thách thức," do
Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổ chức tại Thành phố Hồ
Chí Minh

21




×