Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Dạy tốt môn Ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.41 KB, 14 trang )

Dạy tốt mơn Ngữ văn THCS
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Mục đích yêu cầu
Làm thế nào để dạy tốt và học tốt bộ môn Văn? Môn Ngữ Văn là môn
học kết tinh nhiều giá trò văn hóa truyền và nhân loại. Với dân tộc Việt Nam
ta, văn chương là điều gắn bó thân thiết. Từ thû còn nằm nôi, đứa bé đã
được nâng niu, bồi dưỡng bằng văn chương qua lời hát ru âu yếm, đậm đà.
Khi được đi học, trước nhất phải là “Học ăn, học nói”. Tiếp đó, con người đi
vào đời sống của dân tộc “Vốn tự xưng là nền văn hiến đã lâu”. Những thầy
giáo từ hàng ngàn năm qua, đầu tiên vẫn là thầy văn chương, đạo lý. Và mãi
sau này nữa, người trẻ tuổi muốn thi vào bất cứ trường Đại học chuyên khoa
nào, bài thi vẫn là bài thi văn.
Với chức năng là một người làm công tác giảng dạy trong nhà trường
bản thân tôi cũng nhận thấy rằng, ngày nay, số lượng học sinh sao nhãng
trong việc học môn Ngữ Văn là tương đối. Đó cũng là vấn đề mà tôi trăn trở
bấy lâu . Với 6 năm làm công tác giảng dạy tôi nghiệm thấy rằng, cái ước
muốn học văn sao cho giỏi, dạy văn sao cho hay, viết văn sao cho tốt là ước
muốn của nhiều giáo viên và học sinh . Muốn thực hiện ước mơ ấy thì phải
thực sự tìm tòi trong văn chương nói riêng và trong văn hóa nói chung. Tôi
đưa ra vài ba kinh nghiệm thiết thực cho mình, hy vọng trao đổi với đồng
nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào công tác dạy và
bồi dưỡng học sinh để phần nào đó giúp các em có hứng thú học tập hơn ở
bộ môn Ngữ Văn. Để từ đó các em có thể phát huy năng lực của mình để trở
thành những học sinh giỏi văn thực sự. Dù biết còn nhiều hạn chế nhưng tôi
vẫn không ngừng cố gắng.
2. Thực trạng ban đầu.
+ Khi chưa áp dụng SKKN này:
* Đối với học sinh : Đa số các em ở trung tâm, lại có điều kiện rất
thuận lợi trong việc học tập và bồi dưỡng. Nhưng phần lớn trong số này thì
các em lại thích những môn học tự nhiên hơn, thậm chí có nhiều em học đều
tất cả các môn, trong đó học môn Ngữ Văn cũng rất là tốt nhưng khi giáo


viên đặt vấn đề gợi ý cho các em đi bồi dưỡng và thi học sinh giỏi thì các em
lại từ chối và chọn thi những môn tự nhiên như: Toán, Lí, Hóa… Bởi các em
cho rằng học văn đã khó rồi, viết văn lại càng khó hơn, các em tâm sự rằng:
“Để có một bài văn hay, giàu cảm xúc đặc biệt là phải đúng với yêu cầu của
đề bài, các em thấy khó quá. Viết văn không những viết đúng mà còn phải
viết hay nữa, nên chúng em sợ không làm được”. Do có những suy nghó như
vậy nên đa số các em không đủ tự tin để thử tài năng của mình. Chỉ có một
1
Dạy tốt mơn Ngữ văn THCS
số ít trong số các em đó có can đảm tự tin chọn môn Ngữ Văn làm mục tiêu
để thử năng lực của mình.
Còn có những em thì điều kiện gia đình có thừa khả năng cho các em
học tập, bồi dưỡng. Nhưng bản thân các em đó lại có những đam mê cá
nhân, mải chơi quên học. Phần thì ở ngay trung tâm huyện nên có nhiều trò
chơi cuốn hút sự đam mê của các em, phần thì có tính ham chơi, lười học nữa
nên hầu như những em nào rơi vào tình trạng này đều rất lười học. Giáo viên
giảng bài trên lớp thì một số em ngồi dưới lớp nói chuyện riêng, làm việc
riêng không hề chú ý đến bài giảng của giáo viên . Có khi vừa giảng xong là
giáo viên hỏi lại vấn đề ngay mà học sinh cũng không trả lời được. Mà bộ
môn Ngữ Văn thì rất cần sự chú ý nghe giảng để các em dần phát triển kó
năng, tư duy, lập luận của mình. Bên cạnh đó, cũng có nhiều em nhà ở rất xa
trung tâm. Nếu xét về mặt tiếp cận các trò chơi hiện đại trên Intơnét thì các
em rất hạn chế. Nhưng khả năng học và cảm nhận môn Ngữ Văn cũng
không có gì tiến bộ hơn so với những em khác. Bởi vì sao? Vì hoàn cảnh gia
đình không thể tạo điều kiện cho các em về mặt thời gian để học môn này.
Trong khi đó bộ môn Ngữ Văn là một bộ môn cần đầu tư thời gian rất là
nhiều. Mà các em thì ngoài thời gian học trên lớp ra, về đến nhà là buông
tập vở lo lao động để phụ giúp gia đình nên không có nhiều thời gian học
tập. Gia đình, cha mẹ thì lo làm ăn, không có thời gian quan tâm, nhắc nhở
con em học tập, thiếu tiền hỗ trợ cho con cái để mua các phương tiên học tập

như, tài liệu, sách tham khảo và các phương tiện học tập khác nữa. Trong khi
đó, trình độ văn hóa của cha mẹ có hạn nên không hướng dẫn, chỉ bảo được
gì cho con mình mà chủ yếu là khoán trắng cho các em tự lo. Nếu bố mẹ nào
có sự quan tâm thì cũng chỉ biết nhắc nhở là “Phải cố gắng học đi”, “Lo mà
học đi”… Còn các em thì vẫn cứ ngồi vào bàn nhưng chưa chắc đã học, ngồi
chỉ để đối phó với bố mẹ, để bố mẹ thấy là mình có ngồi học. Thậm chí có
những em ngồi vào bàn học nhưng đầu óc lại hướng vào những cuốn truyện
tranh, những trò chơi thường ngày, có khi còn đọc truyện ngay trên bàn học
mà bố mẹ không biết…Nên đối với những học sinh rơi vào hai trường hợp
trên thì giáo viên văn rất klhó bồi dưỡng cho các em để trở thành những học
sinh khá giỏi được. Thậm chí có những em học lớp 7,8 rồi mà vẫn không viết
được một lá đơn xin phép nghỉ học, hay trình bày bố cục của một văn bản.
Tất cả những vấn đề nêu trên thực sự là một vấn đề nan giải đối với
tất cả mọi người. Đặc biệt là đối với những người làm công tác giảng dạy
như chúng tôi.
* Đối với giáo viên:
Số lượng giáo viên của trường tương đối đầy đủ ở tất cả các bộ môn,
96% giáo viên đã đạt chuẩn, số giáo viên đạt trên chuẩn chiếm tỉ lệ khoảng
2
Dạy tốt mơn Ngữ văn THCS
20% cán bộ công nhân viên chức, đồ dùng, trang thiết bò và tài liệu giảng
dạy…..Cũng đã được trang bò tương đối đầy đủ nhưng cũng chưa đáp ứng
được nhu cầu của giáo viên . Đặc biệt là đầu sách tham khảo rất ít so với số
lượng giáo viên dạy bộ môn. Hiện nay, xét về mặt bằng chung của trường, tỉ
lệ học sinh yếu, kém vẫn còn và tỉ lệ học sinh trung bình cũng không phải là
thấp. Phải chăng do chương trình đổi mới mà kiến thức cao hơn? Hay là do
hoàn cảnh gia đình không đủ điều kiện để cho các em học tập và bồi dưỡng,
nâng cao… Nhưng dù sao thì trách nhiệm nâng cao chất lượng giảng dạy,
giảm thiểu học sinh yếu, tăng số lượng học sinh giỏi văn thuộc về các nhà
quản lí, vẫn là các thầy cô giáo chúng ta.

Với kinh nghiệm 6 năm dạy học, tôi nhận thấy rằng cần phải cải tiến
để nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là điều kiện tất
yếu. Nếu không, các em sẽ rất lơ là trong việc học tập và bồi dưỡng bộ môn
Ngữ Văn. Vậy, giải pháp nào để khắc phục tình trạng đó.
3. Giải pháp đã sử dụng:
Khi chưa cải tiến phương pháp mới, tôi chỉ đơn thuần là đi theo phương
pháp phân tích – tổng hợp. Tức là đầu tiên cho học sinh đọc văn bản, tìm
hiểu chú thích, tìm hiểu nội dung khái quát của văn bản. Từ đó đi phân tích
cụ thể từng hình ảnh, chi tiết để khắc sâu, cuối cùng tổng hợp lại vấn đề một
lần nữa. Và tôi chỉ sử dụng cứng nhắc một phương pháp này trong nhiều
năm và tôi cảm thấy hiệu quả không được khả quan. Bởi vì những em có học
lực khá trở lên thì còn có hứng thú học, còn đối với những em có lực học
trung bình trở xuống thì ngày càng lười học, lực học xa sút vì theo không kòp,
nguyên nhân là do các em không chòu soạn bài mới trước ở nhà nên khi lên
lớp, khi giáo viên giảng thì các em không tiếp thu kòp nên dẫn đến lười học
rồi chán học, dẫn đến tình trạng học để đối phó chứ không hề có hứng thú,
có sáng tạo trong bài làm của mình.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Dựa vào đặc thù của bộ môn, dạy văn không chỉ là dạy đúng là đủ mà
còn phải dạy hay. Dạy đúng là phải dạy cho chắc kiến thức, nếu phạm nhiều
cái sai thì dù chó có có tài hoa, độc đáo đến đâu cũng không cho là hay
được.
Với chức năng là người làm công tác giảng dạy trong nhà trường, tôi
thấy hoạt động dạy học thể hiện ở kết quả học tập của người học sinh, cụ
thể là là bằng kết quả lên lớp hàng năm, kết quả đậu tốt nghiệp, số lượng
học sinh giỏi các cấp. Cho nên, vấn đề dạy học như thế nào để có kết quả
cao, giảm học sinh yếu kém tăng số lượng học sinh giỏi các cấp là yêu cầu
tất yếu của người giáo viên nhân dân.
3

Dạy tốt mơn Ngữ văn THCS
Khi chọn đề tài này là muốn giúp học sinh nhận thức được sâu sắc
của về câu nói của nhà văn Gorki: “Văn học là nhân học”. Đúng vậy, với
thế mạnh riêng của mình, môn Ngữ Văn giúp người học tiếp xúc với vẻ đẹp
kì diệu và phong phú của tiếng mẹ đẻ, tiếp xúc với vốn văn học dân tộc và
nhân loại. Giúp cho chúng ta có một đời sống tâm hồn tốt đẹp, biết yêu ghét
rạch ròi, biết phân biệt bạn, thù, biết thông cảm với niềm đau, nỗi bất hạnh
của người khác. Bởi vậy nên văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.
Văn học là để học cách làm người, học văn để tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại. Ngày nay, xã hội công nghệ khoa học phát triển chóng
mặt, nước ta cũng đang dần hội nhập chứ không hòa tan với các nước trên
thế giới. Quan diểm của mọi người là chú ý đến học văn, không xem nhẹ
các môn xã hội nhất là những môn được môn theo học sinh là những môn
học phụ. Mọi người quan niệm: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” . chỉ học
giỏi các môn tự nhiên còn môn Ngữ Văn biết là được. Những người đâu có
biết được rằng, nếu môn học tự nhiên giúp ta tính toán, rèn luyện tác phong
khoa học, thì môn Ngữ Văn tạo cho học sinh phong cách sống, tiếp thu
những cái hay, tinh hoa văn hóa của nhân loại, của những con người có tâm
hồn trong sáng, có tư duy sáng tạo, bước đầu có những năng lực cảm thú
những gia trò văn hóa ở trên đời, mở rộng tầm hiểu biết. Văn học còn giúp
các em thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương. Đất nước và còn giúp các em
ấp ủ những ước mơ đẹp đẽ.
Đất nước ta là đất nước của thơ ca, ở đâu có cuộc sống thì ở đó có thơ
ca:
“Thơ ca ơi hãy cất cao tiến hát.
Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta”
Chúng ta có quyền tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc mình, không bò
đồng hóa trước dòng văn học ngoại lai. Văn hóa giúp ta cảm nhận cuộc sống
tốt đẹp, có ý nghóa, cung cấp cho chúng ta vốn từ để tiếp súc với văn bản. Vì

vậy, con người muốn phát triển toàn diện thì phải chú trọng học văn,
mônNgữ Văn cung cấp cho các em vốn từ Tiếng Việt để các em, hiểu thêm
tiếng Việt, thêm yêu tiếng mẹ đẻ. Ví dụ khi phân tích sự giàu đẹp của tiếng
Việt, để cho học sinh cảm nhận sâu sắc hơn về cái hay cái đẹp của tiếng
Việt thì ta phải lấy dẫn chứng từ trong thơ, văn để phân tích:
Ví dụ 1: Bài thơ “Chinh phụ ngâm” rất hài hòa về nhòp điệu.
“ Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai”
4
Dạy tốt mơn Ngữ văn THCS
Đoàn Thò Điểm
Ví dụ 2: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
(Hài hòa về mặt ngữ âm)
Xuân Diệu
Ví dụ 3: Phong phú về mặt từ vựng:
- Cùng chỉ người Mẹ, tiếng Việt có nhiều cách gọi khác nhau : Má,
bu, bầm…
- Những từ mới được bổ sung: Xà phòng, ra điô, Internet, vi tính, tin
học…
Ví dụ 4: Sự uyển chuyển, mượt mà được thể hiện trong lời văn của
Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng …
“ Cốm là thứ quà riêng biệt của Đất nước, là thức dâng của những
cánh đồng lúc bát ngát xanh mang trong hương vò của tất cả cái mộc mạc
giản dò và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”.
2. Giả thiết:
Với phương pháp cứng nhắc của mình, tôi thấy kết quả của học sinh ở
các khối lớp không có hiệu quả nên tôi đã quyết đònh thay đổi phương pháp

dạy mới bằng những cách sau:
- Trước khi phân tích một tác phẩm, người giáo viên không chỉ có
nghiên cứu kó SGK mà còn phải nghiên cứu các tài liệu có liên quan. Đồng
thời phải nhập tâm vào tác phẩm, trút bỏ những vướng bận của cuộc sống
thường nhật để hóa thân vào nhân vật, để lột tả những cảm xúc vui, buồn,
sướng, khổ của nhân vật như là của mình.
- Có phương pháp tích hợp giữa môn Ngữ Văn với các môn học khác.
- So sánh giữa nhà văn của thời đại này với nhà văn của thời đại kia
để làm nổi bật và khắc sâu thêm vấn đề.
- Trong quá trình giảng dạy, không nên cứng nhắc theo một phương
pháp nào mà có thể dùng linh hoạt đối với tất cả các phương pháp:
+ Ngoài phương pháp tích hợp ngang với các phân môn Tiếng Việt,
Tập làm văn, giáo viên còn cần phải phân tích hợp dọc các kiến thức bên
ngoài để làm cho bài văn thêm phong phú, sinh động. Đồng thời mở rộng
vốn từ cho học sinh .
Ví dụ như khi phân tích bài “ Sông núi nước Nam” của Lý Thường
Kiệt ta tích hợp với môn Tiếng Việt, cho học sinh hiểu nghóa của các yếu tố
Hán Việt, tích hợp với Tập làm văn ở phương thức biểu đạt và ở văn biểu
cảm có yếu tố tự sự.
+ Kết hợp tất cả các phương pháp trong quá trình giảng dạy như:
Thuyết minh, vấn đáp, phân nhóm, thảo luận và tùy vào nội dung của mỗi
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×