Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

Khóa luận tư tưởng chính trị lý quang diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.75 KB, 133 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Với 31 năm công tác, ông Lý Quang Diệu là Thủ tướng có nhiệm kỳ
phục vụ lâu nhất trên thế giới, có sức ảnh hưởng sâu rộng tại Singapore và
trên cả chính trường châu Á. Ông được coi là cha đẻ của nền kinh tế
Singapore hiện đại.
Ngay khi nhậm chức Thủ tướng năm 1959, ông Lý Quang Diệu đã đưa
ra một lộ trình 5 năm cải cách toàn diện nền kinh tế của quốc đảo sư tử như
đồng loạt đô thị hóa, công nghiệp hóa, đưa ra một hệ thống giáo dục hợp nhất
trên toàn quốc.
Singapore từ một hòn đảo với cái tên “hòn đảo sốt rét”, từ một quốc gia
không có tài nguyên, không có một nền văn hóa riêng biệt, cư dân ban đầu là
sự pha trộn giữa người Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ đã trở thành một
trung tâm tài chính hàng đầu thế giới, với thu nhập bình quân gần như cao
nhất hiện nay, lên tới 56.700 USD/người. Dưới sự lãnh đạo của Lý Quang
Diệu, GDP theo đầu người của Singapore đã tăng 15 lần từ năm 1960 đến
năm 1980. GDP đầu người của Singapore khi ông Lý lên nắm quyền năm
1959 là hơn 2.100 USD, và hơn 2.600 USD vào năm 1965, khi Singapore trở
thành quốc gia độc lập. Con số này tăng lên hơn 14.200 USD vào năm 1990,
khi ông rời ghế Thủ tướng. Năm 2013, Singapore là nước có thu nhập đầu
người đứng thứ ba thế giới. "Ông Lý Quang Diệu là người giúp thúc đẩy các
phép màu kinh tế châu Á", Tổng thống Mỹ Barack Obama đã từng phát biểu
vào tháng 10/2009.
Cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu được xem là người có ảnh
hưởng quan trọng tới sự phát triển của Singapore. Chính sách mở cửa, hệ
thống an sinh xã hội tân tiến và chính sách thuế hấp dẫn bậc nhất là những




2

điều khiến Singapore thu hút được những nhân lực và bộ não hàng đầu. Ước
tính có tới 1/5 cư dân quốc gia này là người ngoại quốc.
Mặc dù đã rút khỏi nội các năm 2011 nhưng ông Lý Quang Diệu vẫn
được xem là nhân vật có ảnh hưởng lớn đối với Chính phủ hiện nay và là
nhân vật có ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế châu Á.
Như ông Lý Quang Diệu đã từng nói: “Nếu chúng tôi không trở thành
một mô hình của thế giới hiện đại, chúng tôi đã chết. Chúng tôi sẽ quay trở
lại giống như một ngôi làng chài thuở nào”.
Bằng một tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo sáng suốt trong mọi lĩnh
vực, cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu không chỉ đưa Singapore phát
triển thần kỳ mà còn để lại cho hệ thống lý luận chính trị của nhân loại những
tư tưởng chính trị vô giá. Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tư
tưởng chính trị Lý Quang Diệu” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp chuyên
ngành Chính trị phát triển, ngành Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình lãnh đạo Singapore, Lý Quang Diệu đã thực hiện thành
công nhiều cải cách, đưa đất nước phát triển vượt bậc. Trên thực tế, đã có
nhiều nhà khoa học tại các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài
nước nghiên cứu về con người Lý Quang Diệu ở nhiều phương diện, góc độ
và khía cạnh khác nhau. Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu như:
- Plate, Tom (Nguyễn Hằng dịch): “Conversations with Lee Kuan Yew”
(Đối thoại với Lý Quang Diệu), Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2015.
Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu nội dung cuộc đối thoại giữa
Thủ tướng Lý Quang Diệu và nhà báo Tom Plate về quan điểm của Lý Quang
Diệu đối với nhiều vấn đề đối nội, đối ngoại cũng như cuộc sống riêng của
ông, các vấn đề về chính trị, nghệ thuật lãnh đạo, cách thức quản lý và những



3

chính sách hiệu quả, cách nhìn nhận về các vấn đề lịch sử, tôn giáo, chủng
tộc...
- G. Allison, R.D. Blavkwill, A.Wyne (Nguyễn Xuân Hồng dịch): Lý
Quang Diệu: Bàn về Trung Quốc, Hoa Kỳ và thế giới, Nxb Thế giới, 2015.
Công trình đã phân tích một số nhận định và lập luận của Lý Quang
Diệu về tình hình chính trị của Trung Quốc, Hoa Kỳ và thế giới hiện nay: sự
"trỗi dậy hoà bình" của Trung Quốc, những lo ngại về vai trò của Mỹ, tương
lai quan hệ Trung - Mỹ, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, sự tăng trưởng kinh tế
quốc gia, địa chính trị và toàn cầu hoá...
- Lý Quang Diệu: “Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang Diệu”,
NXb Chính trị quốc gia, 1994, Lê Tư Vinh, Nguyễn Huy Quý dịch. Đây chính
là tuyển tập các bài phát biểu của ông Lý Quang Diệu nguyên thủ tướng nước
Cộng hoà Singapore đề cập đến các vấn đề xây dựng và quản lý kinh tế, ổn
định chính trị, đào tạo và sử dụng nhân tài, dân chủ và nhân quyền, thông tin
và báo chí... xuất phát từ tình hình cụ thể của Xingapo trong suốt 40 năm (từ
cuối những năm 40 đến những năm 90).
- Lý Quang Diệu: “Lee Kuan Yew, from third world to first, the
Singapore story: 1965-2000” (Hồi ký Lý Quang Diệu 1965-2000), Nxb. Văn
nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2001. Công trình này viết về tình hình chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội... những biện pháp lãnh đạo đất nước của chính phủ
Singapore và những đóng góp của Lý Quang Diệu cho sự phát triển ở Singapo
những năm 1965-2000.
- Thái Nguyễn Bạch Liên: “Lý Quang Diệu - Ông là ai?” Nxb. Mũi
Cà Mau, 1997. Dựa theo: Lý Quang Diệu truyện của Trương Vĩnh Hoà. Nxb.
Hoa Thành - Quảng Châu - Trung Quốc ấn hành năm 1994. Đối với công
trình này, tác giả đã giới thiệu thân thế, sự nghiệp hoạt động chính trị và

những đóng góp của ông Lý Quang Diệu đối với đất nước Singapore.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


4

* Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp chính
trị của Lý Quang Diệu, đề tài rút ra bài học kinh nghiệm từ tư tưởng chính trị
của ông.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày khái quát tiểu sử cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Lý
Quang Diệu
- Phân tích tư tưởng chính trị của Lý Quang Diệu
- Nhận xét, đánh giá về tư tưởng chính trị Lý Quang Diệu
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng chính trị Lý Quang Diệu
5. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp logic – lịch sử, phân tích và
tổng hợp, phân tích tài liệu, so sánh, đối chiếu …và một số phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành của khoa học chính trị học.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng chính trị Lý Quang Diệu trên các
phương diện như: Tư tưởng Lý Quang Diệu về phát triển kinh tế và tương lai
tăng trưởng kinh tế Singapore; Lý Quang Diệu sáng lập và lãnh đạo Đảng
Hành động Nhân dân cầm quyền; Tư tưởng Lý Quang Diệu về địa chính trị,

toàn cầu hóa và tương lai địa chính trị, toàn cầu hóa; Tư tưởng Lý Quang
Diệu về nền dân chủ và tương lai nền dân chủ…
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về ý nghĩa lý luận:


5

Đề tài đã làm rõ các vấn đề lý luận về tư tưởng chính trị Lý Quang
Diệu.
Về ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài đã phân tích rõ quá trình lãnh đạo Singapore của Lý Quang Diệu,
việc áp dụng thành công tư tưởng chính trị của Lý Quang Diệu vào việc xây
dựng đất nước Singapore.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
3 chương, tiết.


6

Chương 1:
TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ CỦA
LÝ QUANG DIỆU
Lý Quang Diệu (sinh ngày 16 tháng 9 năm 1923 - mất ngày 23 tháng 3
năm 2015) là Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Singapore, ông đảm
nhiệm chức vụ này từ năm 1959 đến năm 1990. Mặc dù đã rời bỏ chức vụ thủ
tướng, ông vẫn được xem là một chính trị gia có ảnh hưởng nhất tại đảo quốc
này. Ông tiếp tục phục vụ trong chính phủ của thủ tướng Ngô Tác Đống trong
cương vị Bộ trưởng Cao cấp. Cho đến khi qua đời Lý Quang Diệu giữ một

chức vụ được kiến tạo riêng cho ông, Bộ trưởng Cố vấn (Minister Mentor)
dưới quyền lãnh đạo của con trai ông, Lý Hiển Long, thủ tướng thứ ba của
Singapore (nhậm chức ngày 12 tháng 8 năm 2004), và là người thứ hai thuộc
gia tộc Lý đảm nhiệm cương vị này. Ông còn được biết đến trong vòng thân
bằng quyến hữu với tên "Harry".
1.1. Xuất thân
Theo cuốn hồi ký của ông, Lý Quang Diệu là thế hệ thứ tư thuộc một
gia đình người Khách Gia định cư tại Singapore. Ông cố Lee Bok Boon (sinh
năm 1846), rời bỏ quê nhà thuộc huyện Đại Bộ, tỉnh Quảng Đông để đến
Singapore vào năm 1863. Ông lấy con gái của một ông chủ hiệu là Seow
Huan Nio, và đã trở về Trung Quốc vào năm 1882, bỏ lại vợ và ba đứa con.
Lee Bok Boon đã xây dựng một thái ấp nhỏ ở quê nhà và mất 2 năm sau đó.
Ông của Lý Quang Diệu tên là Lee Hoon Leong, sinh tại Singapore
năm 1871, lúc đó đang là thuộc địa Anh. Ông đã được hưởng nền giáo dục ở
Anh tại Học viện Raffles, và trở thành người chuyên bào chế thuốc không hợp
pháp, sau đó chuyển sang làm người phụ trách tài chính trên tàu hơi nước
được sở hữu bởi một chủ người Hoa, Oei Tiong Ham. Lee Hoon Leong, ở tuổi


7

26 đã lấy Ko Liem Nio, lúc đó 16 tuổi tại Semarang, Java, thuộc địa Đông Ấn
Hà Lan (Hiện tại thuộc Indonesia). Đây là cuộc đám cưới được gia đình 2 bên
sắp đặt theo phong tục truyền thống. Gia đình 2 bên đều thuộc tầng lớp trung
lưu. Cả cô dâu và chú rể đều được hưởng nền giáo dục Anh quốc. Ông ngoại
Lee Hoon Leong sở hữu bất động sản và việc mua bán cao su tại đường
Orchard[5]. Lee Hoon Leong cuối cùng trở thành giám đốc quản lý của công
ty Heap Eng Moh Steamship.
Ông Lee Hoon Leong có 2 người vợ, là việc bình thường vào thời đó,
là cha của 5 người con gái và 2 người con trai. Con trai của ông là Lee Chin

Koon cũng đã được hưởng nền giáo dục Anh quốc sau đó đã lấy Chua Jim
Neo, là mẹ của ông Lý Quang Diệu. Lý Quang Diệu chào đời trong một nhà
lều rộng và thoáng tại số 92 đường Kampong Java, Singapore. Ngay từ khi
còn bé, văn hoá Anh đã có ảnh hưởng đậm nét trên Lý, một phần là do ông
nội, Lee Hoon Leong, đã cho các con trai của mình hấp thụ nền giáo dục của
Anh. Cũng chính ông nội đã cho cậu bé Lý tên Harry để thêm vào tên Quang
Diệu mà người cha đặt cho con mình.
Tài sản của ông Lý Quang Diệu bị tiêu tán do ảnh hưởng của cuộc Đại
khủng hoảng, và do đó làm cho cha ông, Lee Chin Koon trở thành một chủ
cửa hiệu nghèo.
Ngày 30 tháng 9 năm 1950, Lý Quang Diệu kết hôn với Kha Ngọc Chi.
Cả 2 đều sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ mẹ đẻ. Ông Diệu do không sõi
tiếng Trung Quốc nên đã bắt đầu học tiếng Trung Quốc vào năm 1955 ở độ
tuổi 32. Ông Diệu lúc trưởng thành mới bắt đầu học tiếng Nhật và làm phiên
dịch cho người Nhật trong khoảng thời gian Nhật Bản chiếm đóng Singapore.
Họ có hai con trai và một con gái.


8

Vài thành viên trong gia tộc Lý đảm nhiệm những vị trí quan trọng
trong xã hội Singapore, các con trai và con gái của ông hiện giữ các chức vụ
cao cấp trong chính quyền hoặc liên quan đến chính quyền.
Cậu con cả, Lý Hiển Long, cựu chuẩn tướng quân đội, từ năm 2004 là
Bộ trưởng Tài chính và nay là Thủ tướng đương nhiệm. Lý Hiển Long cũng là
Phó chủ tịch Ban quản trị Công ty Đầu tư Singapore (Lý Quang Diệu là chủ
tịch).
Ho Ching (Hà Tinh), vợ của thủ tướng Lý Hiển Long, là giám đốc điều
hành của Tamasek Holdings.
Con trai thứ của ông Lý, Lý Hiển Dương, cựu chuẩn tướng, hiện là chủ

tịch và tổng giám đốc của Sing Tel, một tập đoàn truyền thông xuyên châu Á,
cũng là công ty lớn nhất trong thị trường tư bản (liệt kê trên thị trường chứng
khoán Singapore, SGX). Bảy mươi hai phần trăm cổ phần của Sing Tel thuộc
quyền sở hữu của công ty Temasek Holdings, một công ty đầu tư của chính
phủ có cổ phần nắm quyền kiểm soát tại những công ty có liên hệ với chính
phủ như Singapore Airlines và ngân hàng DBS.
Con gái của ông Lý, Lý Vĩnh Linh, lãnh đạo Viện Khoa học Thần kinh
Quốc gia, đến nay vẫn sống độc thân. Vợ của Lý Quang Diệu, bà Kha Ngọc
Chi từng là thành viên của công ty luật nổi tiếng Lee & Lee. Các em trai của
ông, Dennis, Freddy và Suan Yew đều là thành viên của công ty luật nói trên.
Ông có một em gái tên Monica. Lý Quang Diệu luôn bác bỏ mọi cáo buộc về
gia đình trị, cho rằng những vị trí đặc quyền mà các thành viên trong gia đình
ông có được là nhờ những nỗ lực bản thân.
1.2. Thiếu thời
Lý Quang Diệu theo học tại trường tiểu học Telok Kurau, ông cũng mô
tả thời học tiểu học thành tích học tập của ông không có gì nổi bật. Sau đó
ông theo học Học viện Raffles, ông đã phải nỗ lực để theo kịp vì tại đây có tới


9

150 học viên đứng đầu toàn Singapore. Ông đã vào được top đầu và tham gia
phong trào hướng đạo trong 3 năm. Ông cũng tham gia các hoạt động thể dục
thể thao như tennis, cricket, hay tham gia các buổi thảo luận của học viện.
Những năm đầu tại đại học Cambridge ông giành được nhiều học bổng
và sau đó đã giành được tấm bằng hạng nhất của nhà trường và giành được
học bổng John Anderson cho phép ông theo học đại học Raffles (hiện tại là
Đại học quốc gia Singapore). Ông phải bỏ dở việc học khi Nhật Bản chiếm
đóng Singapore suốt những năm 1942-1945 trong Đệ nhị thế chiến. Trong
thời kỳ chiếm đóng, ông vận hành hiệu quả những thương vụ chợ đen tiêu thụ

một loại keo tapioca gọi là Stikfas.[12] Bắt đầu học tiếng Hán và tiếng Nhật
từ năm 1942, ông làm việc với người Nhật trong công việc của một người ghi
chép những bức điện báo của phe Đồng Minh, cũng như biên tập bản tiếng
Anh cho tờ Hodobu ( 報 報 報 — thuộc ban thông tin tuyên truyền của người
Nhật) từ năm 1943 đến năm 1944.
Sau chiến tranh, ông theo học luật tại Đại học Fitzwilliam, Đại học
Cambridge tại Anh Quốc, và trong một thời gian ngắn, theo học tại Trường
Kinh tế Luân Đôn. Năm 1949, Lý Quang Diệu trở về Singapore và hành nghề
luật sư tại Laycock và Ong, một công ty luật của John Laycock, một nhà tiên
phong trong các hoạt động đa chủng tộc, người cùng với A.P. Rajah và C.C.
Tan, thành lập câu lạc đa chủng đầu tiên tại Singapore, thâu nhận người châu
Á.
1.3. Sự nghiệp chính trị (1951–1959)
Trong hồi ký của ông Diệu, ông có nhắc đến dự định trở về Singapore
để làm việc và khi trở về ông đã làm cho công ty luật John Laycock, với mức
lương 500$/tháng. Ông trở thành người tư vấn luật cho các hoạt động thương
mại và các tổ chức liên đoàn sinh viên.
Trước thời kỳ Đảng Hành động Nhân dân


10

Trải nghiệm đầu tiên của Lý Quang Diệu trên chính trường Singapore
là vai trò một nhân viên vận động bầu cử cho ông chủ John Laycock dưới
ngọn cờ của Đảng Tiến bộ (Progressive Party) thân Anh, trong cuộc bầu cử
hội đồng lập pháp năm 1951. Song, Lý Quang Diệu dần dần nhận ra hậu vận
đen tối của chính đảng này do thiếu sự ủng hộ của quần chúng, nhất là của
giới lao động thuộc cộng đồng nói tiếng Hoa. Nhân tố này là đặc biệt quan
trọng khi ủy ban Rendel, vào năm 1953, quyết định mở rộng quyền bầu cử
cho tất cả người dân sinh tại địa phương, làm gia tăng đáng kể số cử tri người

Hoa. Lý Quang Diệu tiến đến ngả rẽ chính trị của mình khi ông tham gia tư
vấn pháp lý cho các nghiệp đoàn thương mại và sinh viên. Các nghiệp đoàn
này cung cấp cho ông mối quan hệ với giới công nhân nói tiếng Hoa (về sau,
đảng Hành động Nhân dân của ông sử dụng mối quan hệ lịch sử này như là
một công cụ đàm phán trong các tranh chấp công nghiệp).
Thành lập Đảng Hành động Nhân dân
Ngày 21 tháng 11 năm 1954, Lý Quang Diệu cùng với một nhóm bạn
hữu thuộc giai cấp trung lưu có học vấn Anh, những người mà ông miêu tả là
"những tay tư sản nghiện bia", thành lập Đảng Hành động Nhân dân (PAP - 報
報 報 報 ) có khuynh hướng xã hội và liên minh với các nghiệp đoàn theo chủ
nghĩa cộng sản. Một hội nghị sáng lập được tổ chức tại Victoria Memorial
Hall, sảnh đường đầy cứng với 1.500 người ủng hộ và thành viên nghiệp
đoàn. Lý Quang Diệu trở thành Tổng thư ký, chức vụ mà ông nắm giữ cho
đến năm 1992, ngoại trừ một thời gian ngắn trong năm 1957. Tunku Abdul
Rahman của Đảng UMNO và Tan Cheng Lock của MCA được mời làm quan
khách nhằm tăng uy tín cho đảng vừa mới ra đời.
Trở thành nhà lãnh đạo phe đối lập
Lý Quang Diệu ra tranh cử và giành được chiếc ghế đại diện cho
Tanjong Pagar trong cuộc tuyển cử năm 1955. Ông trở thành nhà lãnh đạo phe


11

đối lập, chống lại chính phủ liên hiệp dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Lao động
của David Saul Marshall. Ông cũng là một trong số hai đại diện của PAP đến
tham dự những cuộc thương thảo về hiến pháp tổ chức tại Luân Đôn; cuộc
thương thảo lần thứ nhất đặt dưới sự hướng dẫn của Marshall, lần thứ hai của
Lâm Hữu Phúc. Chính trong giai đoạn này Lý Quang Diệu phải đấu tranh với
các đối thủ cả trong lẫn ngoài đảng PAP.
1.4.


Thủ tướng, trước khi độc lập (1959–1965)

Chính phủ tự trị (1959-1963)
Trong cuộc bầu cử toàn quốc ngày 1 tháng 6 năm 1959, PAP giành
được 43 trong tổng số 51 ghế trong hội đồng lập pháp. Singapore giành quyền
tự trị trong mọi lĩnh vực của đất nước ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao, Lý
Quang Diệu trở thành thủ tướng đầu tiên của quốc gia này vào ngày 3 tháng 6
năm 1959, thay thế thủ tướng Lâm Hữu Phúc. Trước khi nhậm chức ông yêu
cầu trả tự do cho Lâm Thanh Tường và Devan Nair, hai người này đã bị giam
giữ bởi chính phủ Lâm Hữu Phúc.
Sau khi giành được quyền tự trị từ tay người Anh, Singapore phải đối
diện với nhiều vấn đề xã hội như giáo dục, nhà ở và tình trạng thất nghiệp. Lý
Quang Diệu cho thành lập Ban phát triển gia cư để bắt đầu chương trình xây
dựng chung cư hầu làm giảm nhẹ sự thiếu hụt nhà ở.
Sáp nhập rồi tách khỏi Malaysia (1963–1965)
Sau khi thủ tướng của Malaysia, Tunku Abdul Rahman, đưa ra đề nghị
thành lập một liên bang bao gồm Mã Lai, Singapore, Sabah, Sarawak và
Brunei vào năm 1961, Lý Quang Diệu khởi phát chiến dịch đòi sáp nhập với
Malaysia với mục đích chấm dứt sự cai trị của người Anh. Sử dụng những kết
quả thu được từ cuộc trưng cầu dân ý tổ chức ngày 1 tháng 9 năm 1962, theo
đó có đến 70% lá phiếu ủng hộ đề nghị của mình, Lý Quang Diệu tuyên bố


12

nhân dân đứng về phía ông. Suốt trong chiến dịch Coldstore, Lý Quang Diệu
tìm cách loại bỏ những thành phần chống đối kế hoạch sáp nhập.
Ngày 16 tháng 9 năm 1963, Singapore trở nên một phần của Liên bang
Malaysia. Tuy nhiên, liên bang này không tồn tại được lâu. Chính quyền trung

ương Malaysia, dưới sự lãnh đạo của Tổ chức Liên hiệp Dân tộc Mã Lai
(UMNO), tỏ ra quan ngại về thành phần đa số của người Hoa ở Singapore
cũng như những thách thức chính trị của PAP tại Malaysia. Lý Quang Diệu
công khai chống lại chủ trương dân tộc cực đoan Mã Lai (bumiputra). Mối
quan hệ giữa PAP và UMNO trở nên căng thẳng gay gắt. Một số người trong
UMNO muốn bắt giữ ông.
Bạo động chủng tộc bùng nổ sau đó gần Kallang Gasworks vào dịp
sinh nhật tiên tri Mohamet (ngày 21 tháng 6 năm 1964), có 25 người thiệt
mạng khi người Hoa và người Mã Lai tấn công lẫn nhau. Đến nay vẫn còn
tranh cãi về nguyên nhân của cuộc bạo động này, có người cho rằng một
người Hoa đã ném chai lọ vào đám đông người Mã Lai trong khi có người
nghĩ ngược lại, cho rằng một người Mã Lai đã làm điều này. Thêm những vụ
bạo động bùng nổ trong tháng 9 năm 1964, khi đám đông cướp phá xe hơi và
các cửa hiệu, khiến cả Tunku Abdul Rahman và Lý Quang Diệu phải xuất
hiện trước công chúng nhằm xoa dịu tình hình. Trong lúc này giá thực phẩm
tăng cao do tắc nghẽn giao thông, làm cho tình hình càng xấu hơn.
Không tìm ra phương cách giải quyết cuộc khủng hoảng, Tunku Abdul
Rahman chọn lấy quyết định trục xuất Singapore ra khỏi Malaysia, "cắt đứt
mọi quan hệ với chính quyền của một tiểu bang đã không đưa ra bất cứ biện
pháp nào chứng tỏ lòng trung thành với chính quyền trung ương". Lý Quang
Diệu cố gắng xoay xở để tìm ra một thỏa hiệp nhưng không thành công. Sau
đó, do sự thuyết phục của Ngô Khánh Thụy (Goh Keng Swee), ông nhận ra
rằng ly khai là điều không thể tránh khỏi. Ngày 7 tháng 8 năm 1965, Lý Quang


13

Diệu ký thoả ước ly khai, trong đó có bàn về mối quan hệ sau ly khai với
Malaysia hầu có thể tiếp tục duy trì sự hợp tác trong những lãnh vực như
thương mại và quốc phòng.

Đây là một đòn nặng đánh vào Lý Quang Diệu, vì ông tin rằng sự hợp
nhất là yếu tố căn cốt cho sự tồn vong của Singapore. Trong cuộc họp báo
được truyền hình trực tiếp, oà vỡ trong xúc cảm, Lý Quang Diệu thông báo
với dân chúng về quyết định ly khai: “Đối với tôi, đây là một khoảnh khắc
đau thương. Suốt cuộc đời tôi, suốt cuộc đời trưởng thành của tôi, tôi luôn tin
tưởng vào sự kết hợp và thống nhất của hai vùng lãnh thổ... Ngay lúc này, tôi,
Lý Quang Diệu, Thủ tướng Singapore, nhân danh nhân dân và chính quyền
Singapore, tuyên bố rằng kể từ hôm nay, ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore
sẽ vĩnh viễn là một quốc gia độc lập, dân chủ với đầy đủ chủ quyền, lập nền
trên những nguyên lý của quyền tự do và công bằng hầu mưu tìm phúc lợi và
hạnh phúc cho nhân dân đang sinh sống trong một xã hội tối hảo, công bằng
và bình đẳng”.
Cũng trong ngày 9 tháng 8 năm 1965, Quốc hội Malaysia biểu quyết
thông qua nghị quyết cắt đứt quan hệ với tiểu bang Singapore, như vậy nước
Cộng hoà Singapore được hình thành. Tân quốc không có tài nguyên thiên
nhiên, không có nguồn nước và khả năng quốc phòng thì hết sức nhỏ bé. Nay
Lý Quang Diệu phải đứng ra gánh vác trọng trách xây dựng đảo quốc mới
vừa được khai sinh này.
1.5. Thủ tướng, sau độc lập (1965–1990)
Trong quyển hồi ký của mình, Lý Quang Diệu nói rằng ông không thể
ngủ ngon và ngã bệnh sau ngày Singapore độc lập. Sau khi nghe Cao uỷ John
Robb tường trình về hoàn cảnh của Lý Quang Diệu, Thủ tướng Anh Harold
Wilson bày tỏ những quan ngại của mình và nhận được phúc đáp của Lý
Quang Diệu: “Đừng lo cho Singapore. Đồng sự của tôi và tôi là những người


14

tỉnh táo và chừng mực, ngay cả trong thời điểm đau buồn này. Chúng tôi sẽ
cân nhắc mọi hệ lụy có thể xảy ra khi quyết định cho bất cứ động thái nào trên

bàn cờ chính trị...”
Lý Quang Diệu khởi sự tìm kiếm sự công nhận của quốc tế cho quốc
gia Singapore độc lập. Ngày 21 tháng 9 năm 1965, Singapore gia nhập Liên
Hiệp Quốc, và ngày 8 tháng 8 năm 1967, gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN). Ngày 25 tháng 5 năm 1973, Lý Quang Diệu chính
thức viếng thăm Indonesia, chỉ vài năm sau chính sách đối đầu (Konfrontasi)
dưới chế độ của Sukarno. Quan hệ giữa Singapore và Indonesia có những
bước cải thiện căn bản nhờ những cuộc viếng thăm qua lại sau đó giữa hai
nước.
Vì Singapore chưa bao giờ có một nền văn hoá chủ đạo để dân nhập cư
có thể hoà nhập, cũng không có một ngôn ngữ chung, trong hai thập niên
1970 và 1980, cùng với các nỗ lực từ chính phủ và đảng cầm quyền, Lý
Quang Diệu cố gắng kiến tạo một bản sắc chung cho Singapore.
Lý Quang Diệu và chính quyền luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của chủ trương bao dung tôn giáo và hoà hợp chủng tộc, sẵn sàng sử dụng luật
pháp để chống lại bất kỳ hiểm hoạ nào có thể kích hoạt bạo động tôn giáo và
chủng tộc. Điển hình, Lý Quang Diệu đã cảnh cáo "việc truyền bá phúc âm
cách thiếu nhạy cảm" khi đề cập đến những trường hợp các tín hữu Cơ Đốc
chia sẻ đức tin của mình cho người Mã Lai (tuyệt đại đa số theo Hồi giáo).
Năm 1974, chính phủ khuyến cáo Thánh Kinh Hội Singapore nên ngưng xuất
bản các ấn phẩm tôn giáo bằng tiếng Mã Lai.
Trong cương vị lãnh đạo quốc gia suốt trong thời kỳ hậu độc lập, ông
Lý có ba mối quan tâm chính: an ninh quốc gia, kinh tế và những vấn đề xã
hội.
An ninh quốc gia


15

Tính dễ bị tổn thương của Singapore luôn được cảm nhận sâu sắc khi

xảy ra các mối đe doạ từ nhiều phía khác nhau, trong đó có Indonesia (với
chính sách đối đầu), cũng như thành phần cực đoan trong đảng UMNO,
những người này muốn đem Singapore trở về với Malaysia. Ngay khi
Singapore được gia nhập Liên Hiệp Quốc, Lý Quang Diệu vội vàng tìm kiếm
sự công nhận của quốc tế dành cho nước Singapore độc lập. Theo gương
Thuỵ Sĩ, ông tuyên bố chính sách trung lập và không liên kết. Cùng lúc, ông
giao cho Ngô Khánh Thụy trọng trách xây dựng Lực lượng vũ trang
Singapore và xin trợ giúp từ các quốc gia khác trong các lãnh vực tư vấn,
huấn luyện và cung ứng quân dụng.
Năm 1967, khi người Anh tỏ ý cắt giảm hoặc triệt thoái quân đội khỏi
Singapore và Malaysia, Lý Quang Diệu và Goh đưa ra chương trình quân dịch
National Service nhằm phát triển một lực lượng trừ bị quy mô có thể huy
động trong một thời gian ngắn. Tháng 1 năm 1968, ông mua một ít xe tăng
AMX-13 do Pháp chế tạo, đến năm 1972, tổng số xe tăng tân trang được mua
là 72 chiếc.
Sau này, Singapore thiết lập quan hệ quân sự với các quốc gia thành
viên của ASEAN, với Hiệp ước Phòng thủ Ngũ Cường (Five-Powers Defense
Agreement, FPDA) và các nước khác, giúp phục hồi nền an ninh quốc gia sau
cuộc triệt thoái ngày 31 tháng 10 năm 1971 của quân đội Anh.
Kinh tế
Tách rời khỏi Malaysia có nghĩa là mất luôn thị trường chung và thị
trường nội địa. Khó khăn càng chồng chất khi quân đội Anh triệt thoái làm
mất thêm 50.000 chỗ làm. Mặc dù người Anh ủng hộ những cam kết trước đó
duy trì các căn cứ quân sự cho đến năm 1975, Lý Quang Diệu không muốn
làm căng thẳng mối quan hệ với Luân Đôn. Ông tìm cách thuyết phục Harold
Wilson cho phép chuyển đổi các cơ sở quân sự (như xưởng sửa chữa và đóng


16


tàu của hải quân) cho các mục đích dân sự, thay vì phá huỷ chúng như theo
luật của nước Anh. Với sự tư vấn của Tiến sĩ Albert Winsemius, Lý Quang
Diệu dẫn đưa Singapore vào con đường công nghiệp hoá. Năm 1961, Ban
Phát triển Kinh tế được thành lập với nhiệm vụ thu hút đầu tư nước ngoài, đưa
ra những ưu đãi thuế hấp dẫn và xây dựng một lực lượng lao động lương thấp
nhưng có kỷ luật lao động và tay nghề cao. Đồng thời chính phủ duy trì biện
pháp kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế, ban hành những quy định về phân phối
đất đai, lao động và nguồn vốn. Tiến hành xây dựng hạ tầng cơ sở hiện đại
như phi trường, hải cảng, đường sá và mạng lưới truyền thông. Ban Xúc tiến
Du lịch cũng được thành lập để phát triển du lịch và tạo thêm việc làm. Trong
vai trò lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế Singapore, Lý
Quang Diệu nhận được sự hỗ trợ từ những bộ trưởng tài năng nhất, đặc biệt là
Goh Keng Swee và Hon Sui sen. Họ cố xoay xở để hạ giảm tỷ lệ người thất
nghiệp từ 14% trong năm 1965 xuống còn 4,5% vào năm 1973.
Ấn định ngôn ngữ chính thức
Lý Quang Diệu chọn Anh ngữ là ngôn ngữ công sở và ngôn ngữ chung
cho các chủng tộc khác nhau, trong khi vẫn công nhận tiếng Mã Lai, tiếng
Trung Hoa và tiếng Tamil là ngôn ngữ chính thức. Hầu hết trường học đều sử
dụng tiếng Anh như là chuyển ngữ cho học tập, mặc dù tiếng mẹ đẻ vẫn được
dạy trong trường học.
Lý Quang Diệu khuyến khích người dân ngưng sử dụng các phương
ngữ của tiếng Hoa, và phát triển tiếng Phổ thông (Standard Mandarin) như
một ngôn ngữ thay thế, chiếm lấy vị trí "tiếng mẹ đẻ" với mục tiêu xây dựng
một ngôn ngữ giao tiếp chung cho cộng đồng người Hoa. Năm 1979, Lý
Quang Diệu chính thức phát động phong trào nói tiếng Hoa phổ thông. Ông
cho hủy bỏ tất cả chương trình truyền hình bằng tiếng địa phương, ngoại trừ
các chương trình tin tức và nhạc kịch (phục vụ cho người lớn tuổi). Biện pháp
này đã làm suy tàn các phương ngữ của tiếng Hoa; ngày nay người ta nhận ra



17

rằng giới trẻ Singapore gốc Hoa không còn thông thạo khi sử dụng phương
ngữ tiếng Hoa, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn khi tiếp xúc với ông bà của họ là
những người chỉ biết nói tiếng Hoa địa phương.
Trong thập kỷ 1970, sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Nanyang nói tiếng
Hoa gặp trở ngại khi kiếm việc làm vì không thông thạo tiếng Anh, ngôn ngữ
cần có tại chỗ làm, đặc biệt là trong khu vực công. Lý Quang Diệu phải sử
dụng biện pháp triệt để bằng cách sáp nhập Đại học Nanyang vào Đại học
Singapore để trở thành Đại học Quốc gia Singapore. Động thái này gây ảnh
hưởng lớn trên các giáo sư nói tiếng Hoa vì họ buộc phải dạy bằng tiếng Anh.
Những người có công xây dựng Đại học Nanyang cũng lên tiếng chống đối vì
những tình cảm ràng buộc với trường này.
Quy chế chính phủ
Giống các quốc gia châu Á khác, Singapore cũng không miễn nhiễm
đối với nạn tham nhũng. Lý Quang Diệu nhận thức rõ rằng tham nhũng là một
trong những nguyên do dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Trung Hoa Dân
quốc tại Trung Hoa. Ông ban hành những luật lệ cần thiết dành cho Văn
phòng Điều tra Tham nhũng (Corrupt Practices Investigation Bureau, CPIB)
nhiều quyền hạn hơn để bắt giữ, lục soát, triệu tập nhân chứng, điều tra các tài
khoản ngân hàng và các khoản hoàn trả thuế lợi tức của những cá nhân bị tình
nghi cùng với gia đình của họ. Với sự ủng hộ của Lý Quang Diệu, CPIB được
giao thẩm quyền tiến hành các cuộc điều tra đối với bất kỳ viên chức hoặc bộ
trưởng nào. Trong thực tế, sau đó đã có vài bộ trưởng bị cáo buộc tham
nhũng.
Lý Quang Diệu tin rằng các bộ trưởng nên được trả lương cao để duy
trì một chính quyền sạch và chân thật. Năm 1994, ông đề nghị nối kết mức
lương của bộ trưởng, thẩm phán và viên chức công quyền cao cấp với mức



18

lương của giới chuyên nghiệp hàng đầu trong khu vực tư, vì ông cho rằng như
thế sẽ giúp tuyển mộ và duy trì nhiều tài năng phục vụ trong khu vực công.
Năm 1983, Lý Quang Diệu gây ra nhiều tranh cãi gay gắt về hôn nhân
khi ông lên tiếng khuyến khích nam giới Singapore kết hôn với phụ nữ thuộc
thành phần học thức. Ông bày tỏ mối quan ngại khi hiện có nhiều phụ nữ đã
tốt nghiệp đại học vẫn chưa lập gia đình. Một số nhóm dân cư, trong đó có
những phụ nữ tốt nghiệp đại học, tỏ ra giận dữ vì quan điểm này. Dù vậy, một
cơ quan môi giới hôn nhân, Social Development Unit, đã được thành lập
nhằm tạo điều kiện giao tiếp cho những người tốt nghiệp đại học của cả hai
giới. Ông cũng đưa ra những biện pháp khuyến khích các bà mẹ học thức có
ba hoặc bốn con, đảo ngược chiến dịch kế hoạch hoá gia đình "chỉ nên có hai
con" trong hai thập niên 1960 và 1970.
Bang giao với Malaysia
Lý Quang Diệu mong muốn cải thiện quan hệ với Mahathir bin
Mohamad ngay từ khi Mahathir được bổ nhiệm vào chức vụ phó thủ tướng.
Nhận biết rằng Mahathir đang ở vị trí chuẩn bị cho chức thủ tướng Malaysia,
năm 1978 ông mời Mahathir (thông qua tổng thống Singapore lúc ấy là Devan
Nair) đến thăm Singapore. Cuộc viếng thăm lần đầu và những lần sau đó giúp
cải thiện mối quan hệ cá nhân giữa hai nhà lãnh đạo cũng như mối bang giao
giữa hai quốc gia. Mahathir yêu cầu Lý Quang Diệu cắt đứt quan hệ với các
thủ lĩnh gốc Hoa thuộc đảng Hành động Dân chủ (tại Malaysia); đổi lại,
Mahathir cam kết không can thiệp vào các vấn đề của người Singapore gốc
Mã Lai.
Tháng 12 năm 1981, Mahathir quyết định thay đổi múi giờ của bán đảo
Mã Lai để tạo nên một múi giờ thống nhất cho toàn thể đất nước Malaysia, Lý
Quang Diệu chấp nhận sự thay đổi này vì những lý do kinh tế và xã hội. Nhờ
vậy, mối quan hệ giữa hai phía càng được cải thiện trong năm 1982.



19

Tháng 1 năm 1984, Mahathir áp đặt thuế RM100 trên tất cả phương
tiện vận chuyển từ Malaysia sang Singapore. Khi Musa Hitam cố phản đối
chính sách này của Mahathir, thuế suất được tăng gấp đôi với mục đích ngăn
cản việc sử dụng cảng biển của Singapore, vì vậy một sự đổ vỡ trong bang
giao giữa hai nước trở nên rõ ràng.
Tháng 6 năm 1988, Lý Quang Diệu và Mahathir tiến tới một thoả thuận
chung tại Kuala Lumpur về việc xây dựng đập Linggui trên sông Johor. Năm
1989, Lý Quang Diệu tìm cách thăm dò lập trường của Mahathir khi muốn
dời những trạm hải quan đường sắt từ Tanjong Pagar ở miền Nam Singapore
đến Woodlands ở đoạn cuối Causeway, một phần do sự gia tăng nạn buôn lậu
ma tuý vào Singapore. Điều này gây bất bình tại Malaysia, vì một vùng đất sẽ
thuộc về Singapore khi đường sắt ngưng hoạt động. Mahathir giao cho Daim
Zainuddin, khi ấy là bộ trưởng tài chính Malaysia, giải quyết vấn đề này.
Sau nhiều tháng thương thảo, hai bên đạt được thỏa thuận cùng phát
triển ba vùng đất ở Tanjong Pagar, Kranji và Woodlands. Malaysia được 60%
vùng đất, trong khi phần của Singapore là 40%. Thoả ước được ký kết ngày
27 tháng 11 năm 1990, một ngày trước khi Lý Quang Diệu nghỉ hưu.
1.6. Bộ trưởng Cao cấp (1990–2004)
Sau khi lãnh đạo đảng PAP giành được chiến thắng trong 7 cuộc bầu
cử, ngày 28 tháng 11 năm 1990, Lý Quang Diệu quyết định về hưu và bàn
giao chức vụ thủ tướng cho Ngô Tác Đống (Goh Chok Tong) con của Ngô
Khánh Thụy. Ông là chính khách có quãng thời gian dài nhất phục vụ trong
cương vị thủ tướng.
Cuộc chuyển giao quyền lãnh đạo được chuẩn bị và tiến hành hết sức
chu đáo. Chu trình tuyển chọn và đào tạo thế hệ lãnh đạo thứ hai khởi sự từ
đầu thập niên 1970. Trong thập niên 1980, Goh và các nhà lãnh đạo trẻ tuổi
khác bắt đầu đảm nhận các vị trí quan trọng trong nội các. Trước cuộc chuyển



20

giao, tất cả các nhà lãnh đạo thế hệ thứ nhất ("những cựu binh") đều về hưu,
kể cả Ngô Khánh Thụy (Goh Keng Swee), S. Rajaratnam và Đỗ Tiến Tài (Toh
Chin Chye). Vì được chuẩn bị tốt, cuộc chuyển giao không gây ra bất cứ biến
động nào, mặc dù đây là cuộc chuyển giao quyền lực lần đầu tiên kể từ khi
Singapore độc lập.
Khi Ngô Tác Đống đảm nhận vị trí lãnh đạo chính phủ, Lý Quang Diệu
vẫn tiếp tục ở lại nội các trong cương vị bộ trưởng cao cấp và đưa ra những tư
vấn. Trước công chúng, ông vẫn thường nhắc đến Ngô như là "thủ tướng của
tôi" để bày tỏ sự tôn trọng dành cho thẩm quyền của Ngô. Tuy vậy, quan điểm
của ông vẫn được lắng nghe trong công luận và trong các buổi họp nội các.
Ông vẫn tiếp tục hành xử ảnh hưởng đặc biệt to lớn trên đảo quốc này và ông
cũng sẵn lòng sử dụng ảnh hưởng ấy khi cần thiết. Như ông đã phát biểu trong
ngày Quốc khánh năm 1988: “Ngay cả khi nằm trên giường bệnh, ngay cả khi
các bạn đem tôi đi mai táng, nếu tôi nhận thấy đang xảy ra một điều gì sai trái,
tôi sẽ ngồi dậy ngay”.
Lý Quang Diệu cố tự kìm chế không can thiệp vào các biện pháp của
chính phủ đối với các nước ASEAN, trong đó có Malaysia, vì không muốn
dẫm chân người kế nhiệm Ngô Tác Đống. Dù vậy, ông vẫn giữ vai trò quan
trọng trong các vấn đề kinh tế như thoả thuận với phó chủ tịch Lý Lam Thanh
ngày 26 tháng 2 năm 1994 về việc chuyển đổi phần mềm hành chính công về
quản trị và phát triển của Khu công nghiệp Tô Châu.
1.7.

Bộ trưởng Cố vấn (2004–2015)

Ngày 12 tháng 8 năm 2004, Ngô Tác Đống rút lui để bàn giao chức vụ

thủ tướng cho Lý Hiển Long, con trai đầu của Lý Quang Diệu. Goh trở thành
bộ trưởng cao cấp và ông Lý đảm nhiệm một chức vụ mới được thành lập, Bộ
trưởng Cố vấn (Minister Mentor).


21

Mặc dù chống đối bài bạc trong "cảm xúc và trí tuệ", Lý Quang Diệu
không hành động chống lại đề án của Lý Hiển Long cho phép thành lập
casino trên lãnh thổ Singapore. Ông nói: "Có casino hay không là điều mà
những nhà lãnh đạo mới phải quyết định”.
Gần đây, Lý Quang Diệu bày tỏ những quan ngại về ảnh hưởng đang suy
giảm của tiếng Hoa phổ thông trong giới trẻ Singapore. Trong một bài diễn văn
đọc trước quốc hội, ông nói: "Người Singapore cần phải học để thông thạo cả
tiếng Anh và tiếng Hoa phổ thông". Sau đó, vào tháng 1 năm 2005, ông cho
xúc tiến một chương trình truyền hình gọi là 報報 Cool!, trong nỗ lực thu hút
giới trẻ đến với tiếng Hoa phổ thông.
Ngày 12 tháng 6 năm 2005, trong một cuộc phỏng vấn thực hiện bởi
Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), ông Lý nhấn mạnh đến
nhu cầu liên tục đào tạo những nhân tài lãnh đạo đất nước, ông nói: “Chúng ta
cần những nhà lãnh đạo là những người có tầm nhìn xa và rộng, có đầu óc
minh mẫn và phóng khoáng, có khả năng nắm bắt cơ hội như chúng ta đã
làm... Nhiệm vụ của tôi là tìm ra người kế nhiệm xứng đáng. Tôi đã tìm ra họ,
và họ đang ở đây; bây giờ đến lượt họ phải tìm ra người kế nhiệm cho mình.
Như thế cần có sự liên tục tìm kiếm và đào tạo những nhà lãnh đạo có năng
lực, chân thật, tận tụy và tài năng, là những người làm việc không phải vì
mình, mà vì nhân dân và đất nước”.
1.8. Bệnh nặng và qua đời
Từ đầu tháng 2 năm 2015, Lý Quang Diệu đã phải điều trị ở bệnh viện
vì bị viêm phổi. Văn phòng thủ tướng của con trai cả ông nói ngày 17.03 là

tình trạng đã xấu đi vì ông bị nhiễm trùng, ngày hôm sau lại càng trầm trọng
trong đơn vị chăm sóc đặc biệt.
Ông Lý Quang Diệu qua đời lúc 3 giờ 18 phút (giờ địa phương) ngày
23 tháng 3 năm 2015, khi đang điều trị tại Bệnh viện Singapore General,


22

Singapore, hưởng thọ 91 tuổi. Thông tin từ Văn phòng thủ tướng Lý Hiển
Long nêu rõ, do tuổi cao và bị bệnh viêm phổi cấp tính nên ông qua đời.


23

Chương 2:
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ LÝ QUANG DIỆU
2.1. Tư tưởng Lý Quang Diệu về phát triển kinh tế và tương lai
tăng trưởng kinh tế Singapore
Khi các nhà lịch sử ghi chép lại sự trỗi dậy của những con rồng châu Á,
họ thường tập trung hơn vào những nền kinh tế lớn nhất khu vực như Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và những nhà lãnh đạo tại đây. Nhưng có một cái tên
mà khi nhắc đến, người ta lập tức nghĩ ngay đến một biểu tượng chói sáng,
con người tiên phong xuất chúng, người sáng lập nên quốc gia nhỏ bé nhưng
phú cường bậc nhất khu vực - cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu. Cố
Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu được coi là cha đẻ của nền kinh tế
Singapore hiện đại. Lý Quang Diệu đã có câu trả lời thấu đáo cho những bài
học về sự vươn lên của Singapore từ thế giới thứ ba lên thế giới thứ nhất chỉ
trong một thế hệ. Trong quá trình lãnh đạo Singapore, ông đã chỉ ra những
động lực chính cho sự tăng trưởng và cạnh tranh của quốc gia; những nhân tố
vô hình như các giá trị đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng

trưởng và cạnh tranh; những năng lực cốt lõi của nhân công thời nay… Tất cả
đều là những kinh nghiệm tuyệt vời của ông trong việc đưa Singapore trở
thành “con rồng châu Á”.
2.1.1. Phép màu về mặt kinh tế
Ít ai phản đối rằng những gì ông Lý Quang Diệu đã làm với quốc gia
nhỏ bé của mình là một phép màu về mặt kinh tế. Từ một nước thuộc thế giới
thứ ba, Singapore hiện là một trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới.
Nơi đây cũng ghi dấu ấn là một ốc đảo xanh và sạch tuyệt đối với những học
viện, đại học danh tiếng và nền kinh tế thị trường rộng mở. Chỉ với diện tích
715 km2, song Singapore thuộc nhóm có GDP bình quân đầu người cao nhất


24

thế giới. Năm 1965, thu nhập bình quân của người dân ở mức 500 USD, đến
năm 1991 con số này lên 14.500 USD và ngày nay đạt mức 55.000 USD.
Nhiều cuốn sách, nghiên cứu đã được viết ra để cố gắng miêu tả phép
màu này. Sau thời gian dài là thuộc địa của Anh, hòn đảo nhỏ bé này đã biến
đổi ngoạn mục chỉ trong vòng ít năm khi giành quyền tự trị năm 1959 dưới sự
lãnh đạo của Thủ tướng Lý Quang Diệu; nhập vào với Malaysia năm 1963 và
tách ra thành một quốc gia độc lập năm 1965.
Lúc này, đất nước Singapore đang gặp nhiều khó khăn. Dân số của
quốc gia mới thành lập là một tập hợp những người nhập cư, dân buôn bán
nhỏ, có cả những người bị kết án tù và một nhóm thương nhân, kinh doanh vốn bị ảnh hưởng nặng nề sau các xung đột kinh tế và sắc tộc, tài nguyên
nghèo nàn. Nhiều nhận xét dành cho Singapore lúc này cho rằng tương lai của
đất nước không mấy hứa hẹn.
Người đứng đầu - ông Lý Quang Diệu đã nhìn thấy con đường mà ông
sẽ đưa đất nước tiến lên. Sau khi rời khỏi Liên minh Malaysia, ông xác định
Singapore cần phải nhìn vượt lên trên người láng giềng không mấy thân thiện
và làm giàu bằng cách xuất khẩu những sản phẩm cao cấp cho các nước

giàu ở phương Tây và Nhật Bản.
Một trong những dấu ấn quan trọng nhất mà ông Lý Quang Diệu đã làm
để phát triển kinh tế là thành lập Ban Phát triển Kinh tế (EDB) ngay từ năm
1961 với mục đích tạo lập nên các chính sách kinh tế quốc gia. Ban đầu, EDB
tập trung vào ngành công nghiệp sản xuất, thu hút vốn đầu tư. Nhiều tập đoàn
công nghiệp được thành lập. Chính sách thuế hấp dẫn, chi phí hoạt động thấp
cùng môi trường nhân công nói tiếng Anh đã thu hút hàng loạt tập đoàn, công
ty của nước ngoài ồ ạt đổ đến Singapore làm ăn. Nước này cũng thu hút được
hai đại gia dầu lửa của thế giới là Shell và Essco đến xây dựng nhà máy lọc


25

dầu. Đến giữa năm 1970, Singapore trở thành trung tâm lọc dầu lớn thứ ba thế
giới.
Theo lý giải của một trong số các nhà lãnh đạo EDB, sự cởi mở về mặt
thu hút vốn đầu tư được áp dụng ngay từ những ngày đầu thành lập, khi nhận
ra rằng các tập đoàn đa quốc gia khi đến Singapore sẽ mang theo cả hệ thống
phân phối và thị trường của họ. Do đó, khi các tập đoàn sản xuất tại đây và
xuất khẩu ra nước ngoài, họ cũng mở ra cho Singapore cánh cửa tới phần còn
lại của thế giới.
Sau những ngành mũi nhọn ban đầu là công nghiệp, sản xuất, EDB
cũng tập trung phát triển các ngành dịch vụ nhờ sự phát triển của ngành bến
cảng và thương mại. Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, ngành sản xuất cũng
chuyển dịch từ hàm lượng kỹ thuật thấp đến cao, như chất bán dẫn, đồ điện
tử... Ngày nay, EDB tập trung vào các chính sách phát triển công nghiệp sáng
tạo, hàm lượng chất xám cao bao gồm công nghệ nano y sinh và công nghệ
sạch. Cơ quan này hiện quản lý 21 văn phòng ở 12 quốc gia, trong đó có 6
văn phòng ở Mỹ. Các khoản đầu tư và những ngành công nghiệp do EDB
giám sát hiện đóng góp 40% GDP của cả nước.

Dấu ấn quan trọng khác mà ông Lý Quang Diệu đã tạo ra là Ban Phát
triển Nhà ở (HDB) vào đầu những năm 1960, một thay đổi ảnh hưởng đến
đại đa số dân chúng Singapore sau này. Vào những ngày đầu, mục tiêu quan
trọng nhất của HDB là xây được càng nhiều các chung cư giá rẻ càng tốt,
nhằm giúp người dân có thể thuê được chỗ ở chất lượng với chi phí thấp. Chỉ
trong một thời gian ngắn, HDB đã biến đổi những khu đầm lầy thành các tòa
nhà chung cư; giúp những người gốc Singapore, hay gốc Trung Quốc,
Malaysia, Ấn rời khỏi đặc khu của mình để hòa nhập vào các cộng đồng
chung được quy hoạch ngăn nắp. Giai đoạn sau này, người dân được phép
mua lại những căn hộ mà họ đã thuê. Chính phủ cũng trải qua nhiều lần nâng


×