Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.8 KB, 25 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH
NGHIỆP
1.1. TỔNG QUAN VỀ VỐN KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm chung về vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
a. Khái niệm về vốn :
Tất cả các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh
đều bắt đầu bằng việc huy động vốn. Vốn sản xuất kinh doanh quyết định
đến nhiều hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp, đặc biệt là quy mô sản
xuất, doanh thu, lợi nhuận …
Vốn là một phạm trù kinh tế, nó gắn liền với sản xuất hàng hoá. Trong nền
kinh tế khép kín tự cung tự cấp, mọi hoạt động lao động sản xuất đều là tái sản
xuất giản đơn, vốn cho hoạt động kinh tế không được trao đổi mua bán và
không được coi là hàng hoá.
Theo quan điểm của Marx, mọi tư bản (vốn) lúc đầu đều biểu hiện dưới
hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền chưa hẳn đã là tư bản,
tiền chỉ biến thành tư bản khi có một số điều kiện nhất định mà ở đây là hoạt
dộng của các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Như vậy theo Marx, dưói góc độ kinh tế chính trị học vốn là giá trị mang lại
giá trị thặng dư và vận dụng theo công thức T-H-T (tiền-hàng-tiền).
Các nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển thì cho rằng vốn là
hàng hoá được tạo ra nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất, là đầu vào của
quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp.
Đứng trên góc độ tài chính-kế toán của doanh nghiệp hiện nay vốn chính
là nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn chủ sở
hữu và nợ phải trả. Như vậy giữa vốn và tài sản của doanh nghiệp có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, tài sản và nguồn vốn chính là hai tiêu thức khác
nhau để phân loại tài sản trong một doanh nghiệp. Tuy vậy không thể đồng
nhất vốn và tài sản của doanh nghiệp bởi vì vốn là biểu hiện bằng tiền là giá
trị của tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ.
Trong nền kinh tế thị trường người ta coi vốn như là các giá trị ứng ra ban


đầu và các quá trình tiếp theo của doanh nghiệp, hay vốn chính là yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất. Vốn không chỉ đóng vai trò trong các quá trình sản
xuất ban đầu riêng biệt, mà có thể tham ra vào mọi quá trình tái sản xuất xuất
liên tục trong doanh nghiệp. Trong thời ký bao cấp ở nước ta chỉ tồn tại các
doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã tập thể. Vốn hoạt dộng sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp là do nhà nước cấp hoặc cho vay với lãi suất ưu
đãi. Do đó tính hàng hoá của vốn đã không được chú ý đúng mức, cung cầu về
vốn mang tính áp đặt một chiều từ nhà nước. Bước sang giai đoạn kinh tế thị
trường các doanh nghiệp phải đảm bảo tự chủ trong hoạt dộng sản xuất kinh
doanh, do đó phải tự chủ có chính sách huy dộng vốn với chi phí vốn nhất định.
Yêu cầu đó đặt ra cho cac doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
b. Đặc trưng cơ bản của vốn trong nền kinh tế thị trường:
*Trong nền kinh tế thị trường vốn được quan niệm là một loại hàng hoá,
đó là hàng hoá đặc biệt. Thông qua hoạt động của thị trường tài chính và sự
phát triển của công nghệ ngân hàng, sự quản lý vĩ mô của nhà nước về tài
chính tiền tệ, đã diễn ra hoạt dộng luân chuyển vốn từ các cá nhân tổ chức
có vốn sang các cá nhân tổ chức cần vốn nhằm đảm bảo cho các hoạt dộng
kinh tế xã hội diễn ra đúng yêu cầu. Người bán dư tiền đem nhượng đi một
khoản tiền để lấy một khoản lãi nhất định, giá cả mua bán chính là khoản
tiền lãi đó và gọi là lợi tức cho vay. Giá cả này có thẻ được xác định từ trước
như lợi tức cổ phần và cũng chứa các đặc tính rủi ro.
*Vốn là biểu hiện bằng tiền đại diện cho một lượng giá trị tài sản, hay nói
cách khác, vốn là nguồn hình thành tài sản. Từ những khoản tiền ban đầu như
vốn chủ sở hữu, vốn pháp định, lợi nhuận giữ lại, máy móc thiết bị và cả con
người nhằm đem lại khả năng sinh lời trong tương lai. Do đó nguồn vốn và tài
sản được nhìn nhận theo hai góc độ khác nhau về mặt phân loại nhưng cân
bằng về mặt lượng:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn.
*Vốn phải luôn luôn gắn với chủ sở hữu, bởi mỗi nguồn vốn của doanh

nghiệp luôn gắn trực tiếp với lợi ích kinh tế quyền lợi và trách nhiệm của
nhiều phía khác nhau. Nếu những nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp là
những nguồn vốn vô chủ, hoặc không rõ ràng về chủ sở hữu sẽ gây ra lãng phí
kém hiệu quả. Nguồn vốn đó gắn trực tiếp với doanh nghiệp về quyền và nghĩa
vụ đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vì nó liên quan trực tiếp đến kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy vậy quyền sở hữu vốn không phải lúc
nào cũng đồng nghĩa với quyền sử dụgn vốn của doanh nghiệp, song tôn trọng
quyền sở hữu vốn sẽ đảm bảo khả năng huy động vốn đầu tư.
*Vốn trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo
có tính sinh lời, các doanh nghiệp chỉ đầu tư tiền vào hoạt dộng sản xuất kinh
doanh khi đảm bảo khả năng sinh lời trong tương lai. Trong quá trình hoạt
dộng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm cuối cùng của vòng
tuần hoàn phải lớn hơn điểm xuất phát, đây chính là nguyên tắc cơ bản trong
hoạt dộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu vốn bị ứ đọng tại một
khâu nào đó như tiền mặt dự trữ, hàng tồn kho, nợ khó đòi… hay không đảm
bảo thu hồi đầy đủ vốn sản xuất kinh doanh đều làm ảnh hưởng đến công tác
bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
*Vốn có giá trị về mặt thời gian và chịu ảnh hưởng của yếu tố thời gian. Giá
trị thời gian của vốn liên quan trực tiếp đến lạm phát, tăng trưởng kinh tế, sự
bỏ lỡ của các cơ hội đầu tư. Do đó không nhất thiết phải tạo ra sự ổn định của
đồng vốn mà cần có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với sự thay đổi của giá trị
đồng tiền sự tăng trưởng kinh tế. Nói chung, thời gian càng dài thì giá trị của
một đồng vốn càng giảm.
*Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể huy động từ mọi nguồn
lực của xã hội và biểu hiện dưới nhiều dạng vật chất khác nhau. Do yêu cầu mở
rộng quy mô sản xuất, doanh nghiệp không chỉ khai thác nguồn vốn chủ sở hữu
mà còn vay vốn, góp vốn, liên doanh, liên kết… Vốn không chỉ là biểu hiện bằng
tiền của tài sản cố định hữu hình (đất đai, nhà xưởng, t hiết bị…) mà còn biểu
hiện dưới dạng vô hình như nhãn hiệu bản quyền, uy tín, bí quyết công nghệ, vị
trí địa lý….

c. Vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường và trong doanh
nghiệp
Có thể nói rằng vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt dộng
sản xuất kinh doanh hiện nay. Đối với tầm vĩ mô của cả nền kinh tế nước ta với
mức khởi điểm ban đầu quá thấp nên cần duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao
trong nhiều năm. Giai đoạn 1990-2000 Việt Nam đã cần huy dộng trên 40 tỷ đô
la mới có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như mong muốn. Để có thể
duy trì 1% tốc độ tăng trưởng kinh tế cần phải duy trì tốc độ tăng trưởng vốn
FDI ít nhất là 3%, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của vốn đối với nền kinh
tế.
Đối với một doanh nghiệp, vốn cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó
quyết định đến sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp.
Trong sự cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn luôn
phải đảm bảo một lượng vốn đủ để đáp ứng nhu cầu, khẳ năng sản xuất kinh
doanh, đảm bảo điều kiện tối thiếu về kỹ thuật, lương, nguyên vật liệu. Muốn
tăng năng suất và chất lượng lao động, doanh nghiệp phải thường xuyên đổi
mới công nghệ, mẫu mã, thực hiện nghiên cứu triển khai, mở rộng hoạt dộng
sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với
bất cứ hoạt dộng của bất cứ doanh nghiệp nào.
Ngày nay chúng ta đang bước vào kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức mà
nền tảng là công nghệ thông tin và công nghệ cao. Lợi thế về giá nhân công rẻ,
nguồn nguyên vật liệu dồi dào…..đang dần bị thay thế bởi tri thức chất xám. Sự
thay đổi đó yêu cầu phải đầu tư một lượng vốn rất lớn vào con người và cơ sơ
hạ tầng kỹ thuật. Điều này đã đặt ra cho chúng ta những thách thức về công
tác sử dụng vốn trong các doanh nghiệp. Nếu muốn nguồn vốn được huy động
và sử dụng hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển.
Đối với toàn xã hội, vốn không chỉ dành cho tập trung phát triển kinh tế mà
còn phải đảm bảo an ninh xã hội, quốcphòng-an ninh, văn hoá xã hội… đảm
bảo cho xã hội phát triển bền vững.
Như vậy dù đối với tầm vĩ mô xã hội hay đối với từng doanh nghiệp thì cũng

đều cần có vốn cho đầu tư phát triển. Huy động vốn cho đầu tư phát triển từ
tích luỹ nội lực, khai thác tốt tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn
đảm bảo khai thông mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao được vai trò của vốn
trong nền kinh tế và trong doanh nghiệp, duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định. Do vậy, nhận thức rõ vai trò của vốn trong đầu tư phát triển kinh tế có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với mọi doanh nghiệp và toàn xã hội.
1.1.2. Phân loại vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được huy động từ rất
nhiều nguồn khác nhau trong nền kinh tế. Mối nguồn tài trợ đều có nhứng
thế mạnh riêng, do đó tuỳ thuộc vào từng điều kiện hoàn cảnh mà lựa chọn
nguồn tài trợ cho phù hợp. Việc xác định phân chia đúng nguồn tài trợ sẽ
giúp cho doanh nghiệp đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lí với chi phí vốn tối ưu
và giảm thiểu các rủi ro.
Có nhiều cách để phân loại các nguồn tài trợ tuỳ vào từng tiêu thức phân
loại, chủ yếu dựa vào các tiêu thức sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào thời gian sử dụng có vốn ngắn hạn và vốn dài
hạn
a. Vốn ngắn hạn :
Vốn ngắn hạn có thời gian đáo hạn trong vòng một năm và lãi suất vay
thường thấp hơn lãi suất dài hạn do độ rủi ro thấp hơn và thời gian đầu tư
ngắn hơn.
Thông thường để hình thành nguồn vốn ngắn hạn các doanh nghiệp
thường đi vay từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính trung gian
khác… Mọi hoạt dộng như trao đổi mua bán vốn ngắn hạn được thực hiện trên
thị trường tiền tệ. Giá cả trên thị trường tiền tệ là khá ổn định, ít có rủi ro, các
công cụ tài trợ có tính lỏng cao và chi phí thấp.
b. Vốn trung và dài hạn :
Nguồn vốn này cóthời gian đáo hạn thường là trên một năm, lãi suất cho
vay thường cao hơn lãi suất ngắn hạn do tính chất rủi ro của các khoản vay
người đi vay phải trả thêm một chi phí cơ hội gọi là “phần bù kỳ hạn”.

Thông thường các doanh nghiệp đi huy động vốn trung và dài hạn có thể đii
vay nợ trung và dài hạn chủ yếu từ các ngân hàng thương mại hoặc phát hành
trái phiếu doanh nghiệp, ít khi huy động từ các tổ chức tài chính trung gian.
Các nguồn vốn dài hạn này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Các công cụ tài trợ trung và dài hạn được trao đổi mua bán trên thị trường
vốn với thời gian lưu hành dài, độ rủi ro cao, giá cả biến động phức tạp. Các
quan hệ trao đổi mua bán ở đây không phải là một số lượng nhất định các
khoản tiền mặt, tư liệu sản xuất mà là các quyền sơ hữu về tư liệu sản xuất và
vốn bằng tiên.
1.1.2.2. Căn cứ vào công dụng kinh tế của vốn, người ta phân chia
thành vốn cố định và vốn lưu động
a. Vốn cố định :
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, biểu hiện vật chất của vốn cố định là
tài sản cố định. Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử
dụng lâu dài ( thường là trên một năm hoặc một kỳ kinh doanh ). Khi tham gia
vào quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản cố định bị hao mòn dần và gía trị
của nó chuyển dịch nhiều lần vào chi phí sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giữ nguyên hình thái giá trị
ban đầu cho đến lúc loại bỏ.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất, có
giá trị lơn, được sử dụng lâu dài cho quá trính sản xuất kinh doanh tại doanh
nghiệp như máy móc, nhà cửa, thiết bị…
Tài sản cố định vô hình là tài sản không có hình thái vật chất thể hiện một
lượng giá trị có quy mô lớn đã được đầu tư chi trả nhằm đem lại lợi ích kinh tế
lâu dài cho doanh nghiệp: bằng phát minh sáng chế, quyền sử dụng đất, lợi thế
thương mại, vị trí địa lý… Hiện nay tài sản cố định vô hình là tài sản có giá trị
>= 500.000 đồng và thời gian sử dụng trên một năm mà không hình thành tài
sản cố định hữu hình.
Tài sản tài chính là tài sản của doanh nghiệp được sử dụng cho đầu tư tài
chính ( mua cổ phiếu, trái phiếu, cho vay…) có thời gian thu hồi vốn từ một

năm hoặc một chu kỳ kinh doanh trở lên.
Tài sản thuê tài chính là tài sản cố định mà doanh nghiệp đi thuê dài hạn và
được bên thuê giao quyền sử dụng và quản lý trong thời gian cho thuê tài sản
cố định. Tiền cho thuê bao gồm các khoản trang trải chi phí đầu tư tài sản cố
định và lợi nhuận.
b. Vốn lưu động :
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cấn có một khoản vốn
lưu động để đầu tư vào tư liệu lao động, đối tượng lao động… để tham gia vào
một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Đây là khoản vốn lưu thông của doanh nghiệp
đứng dưới góc độ tài sản, biểu hiện vật chất của vốn lưu động chính là tài sản
lưu động.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những tài sản sử dụng cho quá trình
sản xuất kinh doanh có thời gian sử dụng luân chuyển thu hồi trong một năm
hoặc chu kỳ kinh doanh.
Tài sản lưu động có thể là tài sản lưu động trong sản xuất hoặc tài sản lưu
động trong lưu thông.
Tài sản lưu động trong sản xuất chủ yếu là các tài sản được dự trữ trong
quá trính sản xuất ( nguyên vật liệu dự trữ, hàng tồn kho, sản phẩm dở dang
…), chủ yếu là trong các doanh nghiệp sản xuất.
Tài sản lưu động trong lưu thông chủ yếu là sản phẩm hàng hoá cho lưu
thông hoặc vốn bằng tiền, các khoản phải thu …
Ngoài ra còn có tài sản tài chính của doanh nghiệp đầu tư tài chính có thời
hạn dưới một năm hoặc chu kỳ kinh doanh. Việc bố trí một cơ cấu hợp lý giữa
tài sản cố định và tài sản lưu động đảm bảo cho sự an toàn thuận tiện cho quá
trình sản xuất kinh doanh, nâng cao được các giá trị của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Căn cứ vào quyến sở hữu đối với vốn có nợ phải trả và vốn
chủ sơ hữu.
a. Nợ phải trả :
Vốn nợ được tài trợ bởi những người không phải là chủ sơ hữu của doanh
nghiệp, việc mua bán trao đổi được diễn ra trên thị trường tài chính và được

thoả thuận có tổ chức như một hợp đồng vay muợn mà người đi vay cam kết
trả cho người cho vay.
Như vậy khi huy động các công cụ nợ để hình thành vốn nợ, người đi vay
phải trả lãi cho các công cụ nợ ( các khoản tiền vay). Mức lãi suất phải trả cho
các khoản vay phụ thuộc mức cung cầu trên thị trường, đó chính là giá cả của
vốn hàng hoá. Các mức lãi suất này thường ổn định và được thoả thuận khi
vay.
Các khoản vay này đều có thời hạn nhất định, hết thời hạn doanh nghiệp
phải trả cả gốc và lãi hoặc được gia hạn mới nếu doanh nghiệp có nhu cầu.
Khuyến khích các doanh nghiệp vay dài hạn để đầu tưvào sản xuất kinh doanh,
xây dựng các nhà xưởng đòi hởi vốn lớn là điều rất cần thiết đối với doanh
nghiệp.
Lãi suất phải trả khi vay được tính vào chi phí hợp lệ để tính thuế thu nhập
doanh nghiệp.
b. Vốn chủ sở hữu :
Vốn chủ sở hữu được tài trợ bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua
việc trao đổi mua bán các cổ phiếu. Hoạt động của các cá nhân tổ chức hình
thành vốn chủ sở hữu không phản ánh mỗi qua hệ giữa những người đi vay và
cho vay mà là quan hệ giữa những người cùng sơ hữu trong công ty cổ phần.
Khi huy động cổ phiếu sẽ không phải trả lãi vay mà phải trả lợi tức cổ phần,
lợi tức cổ phần trả cho các cổ dông thay đổi theo mức lợi nhuận mà công ty
thu được tuỳ thuộc vaò quyết định của hội đồng quản trị ( trừ các cổ phần ưu
đãi).
Các khoản tài trợ này hầu như không có thời hạn, doanh nghiệp không phải
trả các khoản tiền đã huy động, trừkhi có sự giải thể, phá sản thì các tài sản
được chia cho các chủ sở hữu theo các thứ tự quyền ưu tiên.
Cổ tức để chi trả không được tính là chí phí hợp lí hợp lệ khi tính thuế thu
nhập doanh nghiệp và được chi trả bằng lợi nhuận sau thuế.
Việc phân chia nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành vốn
nợ và vốn chủ sở hữu là cách phân chia rất cơ bản và rất phổ biến trong nền

kinh tế thị trường, chúng có mối quan hệ đặc biệt với nhau hình thành nên cơ
cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp.
1.1.2.4. Căn cứ vào nguồn hình thành đối với vốn
a. Vốn doanh nghiệp đầu tư từ lợi nhuận giữ lại :
Kết thúc mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sau khi lập các
báo cáo kết quả kinh doanh nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì phần lợi nhuận
( lợi nhuận từ hoạt dộng sản xuất kinh doanh và lợi nhuận từ các hoạt dộng

×