Tải bản đầy đủ (.docx) (244 trang)

Xây dựng mô hình câu lạc bộ thể thao giải trí cho sinh viên trường đại học an giang – tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 244 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP.HỒ CHÍ MINH

______o0o______

ĐÀO CHÁNH THỨC

XÂY DỰNG MÔ HÌNH CÂU LẠC BỘ THỂ THAO GIẢI TRÍ
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
– TỈNH AN GIANG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP. HỒ CHÍ MINH

______o0o______

ĐÀO CHÁNH THỨC

XÂY DỰNG MÔ HÌNH CÂU LẠC BỘ THỂ THAO GIẢI TRÍ


CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
– TỈNH AN GIANG

Ngành: Giáo dục học
Mã số: 9140101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học:
GS.TS Huỳnh Trọng Khải
PGS.TS Lương Thị Ánh Ngọc

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả
trình bày trong luận án là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án

Đào Chánh Thức


4
MỤC LỤC

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng trong luận án
Danh mục biểu đồ, hình, sơ đồ trong luận án


5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
]

VIẾT TẮT

THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT

TTGT

Thể thao giải trí

CLB

Câu lạc bộ

TDTT

Thể dục thể thao

XHH

Xã hội hóa


TN

Thực nghiệm

ĐC

Đối chứng

GYM

Gymnasium (Gymnastics)

CCVC

Công chức, Viên chức

SV

Sinh viên

ĐHAG

Đại học An Giang


6
DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
BẢNG
Bảng 1.1

Bảng 1.2.
Bảng 1.3
Bảng 1.4
Bảng 1.5
Bảng 1.6
Bảng 1.7
Bảng 1.8
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6(a)
Bảng 3.6(b)
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10
Bảng 3.11

NỘI DUNG
TRANG
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham gia giải trí
28
(Torkildsen, 2005)
Các hoạt động TDTT tại Mỹ theo đặc điểm phân loại
43
năm 1990

Chi tiêu cho thiết bị giải trí cá nhân và/chi phí cho các
44
trung tâm tại Mỹ.
Các hoạt động thể thao hàng đầu tại Mỹ năm 1990
44
Thành tố chính trong hệ thống dịch vụ-giải trí hiện đại
Hình thức và tổ chức phát triển TTGT
49
Hoạt động giải trí của dân Mỹ trên 16 tuổi (khảo sát từ
55
2000 – 2002)
Một số môn TTGT ngoài trời mới phát triển (SGMA,
55
2002)
Nội dung mẫu phiếu điều tra khảo sát: (dự kiến)
67
Thống kê miêu tả phương pháp chuyên gia
68
Các loại hình giải trí, TTGT tại An Giang
85
Tần suất tham gia các loại hình TTGT tại An Giang
Tốp 10 hoạt động giải trí trong thời gian rảnh rỗi của
89
người dân An Giang
Tốp 10 hoạt động TTGT trong thời gian rảnh rỗi của
89
người dân An Giang
Thực trạng các hình thức hoạt động TTGT của sinh viên
ĐHAG
Thực trạng các CLB TDTT tự phát SV ĐHAG [46]

Thực trạng hoạt động TTGT của SV ĐHAG
Hiện trạng cơ sở vật chất ĐHAG
Nhận định của chuyên gia về các điều kiện tổ chức hoạt
động TTGT ĐHAG
Ý kiến chuyên gia về nhu cầu thành lập CLB TTGT
ĐHAG
Nhu cầu tham gia CLB TTGT và các môn TTGT yêu
thích của SV ĐHAG
Ý kiến chuyên gia, lãnh đạo về việc thành lập CLB

TTGT ĐHAG
Bảng 3.12(a) Nhu cầu tham gia CLB TTGT của sinh viên
Bảng 3.12(b) Nhu cầu thành lập CLB TTGT của lãnh đạo, chuyên gia

94
95
96
97
98

101
103
103


7
BẢNG
Bảng 3.13(a)
Bảng 3.13(b)


NỘI DUNG
TRANG
Các nguyên nhân ảnh hưởng đến các hoạt động TTGT
đối với SV ĐHAG
Khó khăn và thuận lợi hoạt động TTGT tại các tổ chức

tư nhân.
Bảng 3.14(a) Sự cần thiết khi thực hiện mô hình CLB TTGT ĐHAG
Bảng 3.14(b) Nội dung các tiêu chí xác định mô hình CLB TTGT
tổng hợp chi tiết các tiêu chí xác định mô hình CLB
Bảng 3.15
TTGT
Tổng hợp ý kiến xác định cơ cấu tổ chức và thành viên
Bảng 3.16
của CLB TTGT
Tổng hợp ý kiến xác định quy trình thành lập CLB
Bảng 3.17
TTGT
Bảng 3.18 tổng hợp ý kiến chuyên gia đóng góp quy chế tổ chức
Bảng 3.19 Điều kiện tài chính của sinh viên ĐHAG
Khảo sát các khoản sinh hoạt phí hàng tháng của SV
Bảng 3.20
ĐHAG
Khảo sát mức đóng hội phí tại các cơ sở TDTT bên
Bảng 3.21
ngoài
Bảng 3.22 Thăm dò mức đóng hội phí hoạt động trong CLB TTGT
Bảng 3.23 Khảo sát khung thời gian tổ chức hoạt động CLB TTGT
Bảng 3.24 Điều lệ tổ chức hoạt động CLB TTGT
Kết quả lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá sức khỏe thể chất

Bảng 3.25
của SV
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (NAM) - Trước
Bảng 3.26
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (NAM) - Trước
Bảng 3.27
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (NAM) - Trước
Bảng 3.28
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (Nữ) - Trước
Bảng 3.29
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (Nữ) - Trước
Bảng 3.30
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (Nữ) - Trước
Bảng 3.31
TN
Bảng 3.32 So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (Nam) - Sau

108
109
115
117
122
125
125
128


135
144


8
BẢNG
Bảng 3.33
Bảng 3.34
Bảng 3.35
Bảng 3.36
Bảng 3.37
Bảng 3.38
Bảng 3.39
Bảng 3.40
Bảng 3.41
Bảng 3.42
Bảng 3.43
Bảng 3.44
Bảng 3.45
Bảng 3.46
Bảng 3.47
Bảng 3.48
Bảng 3.49

NỘI DUNG

TRANG

TN

So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (Nam) - Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (Nam) - Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (Nữ) - Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (Nữ) - Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (Nữ) - Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC Nam – Trước và Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 Nam – Trước và Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN2 Nam – Trước và Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC Nữ – Trước và Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 Nữ – Trước và Sau
TN
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN2 Nữ – Trước và Sau
TN
Kết quả đánh giá những lợi ích sức khỏe tinh thần, xã
hội của hội viên
Đánh giá những lợi ích sức khỏe tinh thần, xã hội giữa
nhóm TN1 và TN2
So sánh về những lợi ích sức khỏe tinh thần, xã hội ở 3
nhóm
Đánh giá mức độ hài lòng của hệ thống dịch vụ CLB
TTGT

Khảo sát sự biến đổi số lượng hội viên trong các CLB
TTGT
Lợi nhuận 2 CLB TTGT tại thời điểm tháng 10/2017 và
10/2018

175
175
176
177
178
181


9

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH, SƠ ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
THỂ
LOẠI

Hình

Sơ đồ

Biểu đồ

TT

NỘI DUNG

TRAN

G

1.1

Các mức độ tham gia TTGT của con người

22

1.2

Tháp nhu cầu Maslow (năm 1954)

23

1.3

Các thành phần cung ứng cơ sở vật chất giải trí

46

1.4

Kết quả khảo sát lợi ích của TTGT đối với người
dân (2005)

50

1.1

Phân loại giải trí (theo Trương Hồng Đàm)


32

3.1

Mô hình tổ chức hoạt động CLB TTGT

124

3.1

Các loại hình TTGT tại An Giang

3.2

So sánh sự tăng trưởng các chỉ tiêu thể chất Nam

3.3

So sánh sự tăng trưởng các chỉ tiêu thể chất Nữ

3.4

Mức độ hài lòng của hội viên về dịch vụ hiện tại
của mô CLB TTGT

178

3.5


Sự biến đổi số lượng hội viên trong các loại hình

180

3.6

So sánh lợi nhuận của 2 CLB TTGT tại 2 thời
điểm 10/2017 và 10/2018

182


10

PHẦN MỞ ĐẦU
Khi cuộc sống ngày càng được cải thiện thì nhu cầu hoạt động TTGT rất cần
thiết cho mọi người, đặc biệt là trong học sinh, sinh viên. Việc hoạt động TDTT
đem lại sức khỏe thể chất, tinh thần. Do đó việc hình thành các câu lạc bộ TTGT
trong trường Đại học& Cao đẳng là điều rất cần thiết đối với học sinh, sinh viên và
cũng như cho mọi người.
Câu lạc bộ TTGT thành lập với mục đích là tạo điều kiện vào thời gian rảnh
rỗi cho sinh viên tham gia vui chơi rèn luyện sức khỏe và giải trí. Ở các nước tiên
tiến thì hoạt động câu lạc bộ TTGT được phần lớn thanh thiếu niên tham gia hưởng
ứng tích cực [93]. Nghiên cứu cho thấy trên 70% số thanh thiếu niên thời gian rảnh
đều tham gia các hoạt động TTGT. Ngoài ra, hoạt động của câu lạc bộ, đặc biệt là
trong học sinh, sinh viên là hình thức của các hoạt động tự nguyện tham gia trong
trường cũng như ngoài xã hội. Nhu cầu hoạt động TTGT của thanh niên có vị trí
quan trọng trong xã hội và hình thành các kỹ năng, kỹ thuật các môn thể thao và khả
năng giao tiếp xã hội rộng rãi. [93],[27]
Trong cuộc sống hiện đại, những mục tiêu về sức khỏe là được ưu tiên hàng

đầu. Đặc biệt là trong môi trường giáo dục, đối với học sinh, sinh viên tham gia các
hoạt động thể thao, các câu lạc bộ TTGT sẽ giúp ích cho họ giải trí lành mạnh, giảm
đi các thoái quen xấu như: uống rượu bia, hút thuốc... Những nghiên cứu ở các nước
tiên tiến Anh, Úc…Hyoung LJ, Kye PS, Ok LM, (2000) cho rằng giới trẻ khi tham
hoạt động TTGT ở các câu lạc bộ đều hướng tới một lối sống lành mạnh,có sức
khỏe thể chất, tinh thần rất tốt và còn là nơi để tìm kiếm những tài năng thể thao cho
nước nhà.[58]
Khái niệm TTGT xuất phát từ các nước phương Tây có nền kinh tế phát triển
là một phần của các hoạt động giải trí. Trong lúc nghỉ ngơi, con người thích hoạt
động và rèn luyện cơ thể theo ý thích, ví dụ như leo núi, bơi lội, đấu vật hay tham
gia những trò chơi như kéo co, nhảy dây thun, ... hoặc tiến hành các cuộc thi đấu
theo quy tắc vốn có của nó. Từ đó, một khái niệm mới được hình thành, đó chính là
khái niệm TTGT. Nếu đứng ở góc độ “khởi nguồn của thể thao là từ sự giải trí” thì
TTGT có lịch sử rất lâu đời. Tuy nhiên, TTGT chính thức được chú trọng từ thập
niên 70 của thế kỷ 20. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, J.R. Jelly, một nhà “xã


11
hội học giải trí”, đã nhận định về giải trí và thể thao như sau: “Trong TTGT, người
tham gia có thể tự do lựa chọn môn thể thao mình thích và cảm thấy thoải mái khi
chơi môn thể thao đó”. Từ định nghĩa này, con người tham gia chơi các môn thể
thao nào thì môn thể thao đó sẽ là TTGT. Việc nghiên cứu về vai trò của TTGT đối
với cuộc sống, xã hội, kinh tế, lịch sử… có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển xã hội. Hiện nay, các công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này vẫn được quan tâm và thường xuyên tiến hành tại các
quốc gia trên thế giới.
Từ khi gia nhập WTO vào ngày 11 tháng 07 năm 2007, Việt Nam trở thành
một trong những quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới [28]. Với xu
hướng hòa nhập và phát triển toàn cầu, ngày càng nhiều công ty, tập đoàn, tổ chức...
trên thế giới đầu tư vào Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước,

người dân ngày càng có cơ hội, nhu cầu hưởng thụ nền công nghệ mới của thế giới
trong mọi lĩnh vực nói chung và lĩnh vực văn hóa – thể thao – giải trí nói riêng. Việt
Nam đã có một truyền thống lịch sử phát triển thể thao quần chúng lâu dài vì mục
đích sức khỏe của nhân dân, tuy nhiên TTGT là một lĩnh vực khá mới mẻ và có xu
hướng phát triển mạnh tại Việt Nam theo quy luật phát triển kinh tế - xã hội toàn
cầu. Do đây là lĩnh vực khá mới, các công trình NCKH về lĩnh vực TTGT còn chưa
nhiều, theo quan điểm và xu hướng phát triển toàn cầu hóa được công bố. Ý tưởng
và tổng kết về TTGT vẫn chưa được nghiên cứu và tổng kết một các đầy đủ, các
hoạt động tham gia TTGT của người dân chưa được xác định và phân loại. Hệ quả
là các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý vĩ mô chưa đưa ra các tiêu chuẩn nhằm xây
dựng giải pháp phát triển lĩnh vực TTGT phù hợp với quy luật và xu hướng hội
nhập thế giới trong giai đoạn hiện nay.[27],[28]
Thể thao giải trí ở An Giang nói chung, đặc biệt là TP.Long Xuyên nói riêng,
tuy chỉ mới bắt đầu hình thành và phát triển nhưng đã có nhiều cơ sở TDTT có tổ
chức hoạt động TTGT. Những câu lạc bộ(CLB) giải trí sức khỏe đều được hình
thành ở hầu hết trong các trung tâm TDTT huyện, thành phố, các câu lạc bộ TDTT
do ngành TDTT thành phố hoặc huyện thị đều có hoạt động TTGT. Các khu vui
chơi giải trí đều đưa các môn TTGT phù hợp nhằm phục vụ cho nhiều đối tượng
khác nhau tham gia tập luyện. Những khu dân cư mới đều xây dựng các trung tâm


12
TT kết hợp với giải trí, hay các huyện, thị xã ở các khu vực có địa hình sông, đồi
núi đều tận dụng địa hình để tổ chức các loại hình TTGT phù hợp. Trong những
năm gần đây, ở hầu hết các huyện, thị đều có các cơ sở tập luyện TDTT do các
doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho các hoạt động TTGT.
Trường Đại học An Giang tọa lạc ngay trung tâm TP. Long Xuyên là một
trong những trung tâm chính trị - kinh tế - thương mại của tỉnh An Giang và của
Đồng bằng Sông Cửu Long, Trường đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Trường hiện có
khoảng 13.000 sinh viên, học viên đang theo học các bậc học (đại học, cao học),

việc tiến hành công trình NCKH nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động tham
gia TTGT, cũng như những khó khăn – trở ngại của người tham gia hoạt động này
là rất cần thiết, làm cơ sở để xây dựng mô hình CLB TTGT ở An Giang nói chung
và cho sinh viên Đại học An Giang một cách phù hợp và khoa học.
Xét thấy bối cảnh về phong trào thể dục thể thao ở các trường Đại học & Cao
đẳng đồng bằng sông Cửu long nói chung và của trường Đại học An Giang nói
riêng còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó xét thấy nhu cầu tham gia hoạt động CLB
TTGT trong học sinh, sinh viên, cán bộ lãnh đạo, viên chức và các chuyên gia của
trường Đại học An Giang trong việc thành lập CLB TTGT cao. Nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả đào tạo và phát triển các loại hình hoạt động CLB TTGT trong
khu vực cũng như trong trường Đại học An Giang, tôi chọn đề tài:
“Xây dựng mô hình câu lạc bộ TTGT cho sinh viên trường Đại học An
Giang tỉnh An Giang”.
Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu xây dựng mô hình câu lạc bộ
TTGT phù hợp cho sinh viên trường Đại học An Giang, góp phần làm phong phú,
đa dạng các loại hình hoạt động giải trí, TTGT, giúp cho sinh viên, người lao động
trường Đại học An Giang nói riêng và sinh viên các trường trong khu vực đồng
bằng sông Cửu Long có môi trường rèn luyện sức khỏe, nâng cao sức khỏe thể chất,
sức khỏe tinh thần, sức khỏe xã hội được nâng cao.
Mục tiêu nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài sẽ thực hiện các mục tiêu
nghiên cứu cơ bản sau:


13
1- Đánh giá thực trạng các loại hình hoạt động TTGT tại An Giang và Đại
học An Giang:
2 - Xây dựng mô hình câu lạc bộ TTGT cho sinh viên trường Đại học An
Giang.

3 - Ứng dụng và đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình câu lạc bộ TTGT
đã xây dựng.
Giả thuyết khoa học của đề tài.
Đề tài xây dựng mô hình CLB TTGT và ứng dụng thực nghiệm có hiệu quả
cho sinh viên trường Đại học An Giang trong việc nâng cao sức khỏe thể chất, tinh
thần, xã hội. Bằng các loại hình hoạt động CLB TTGT đã xây dựng, giúp cho sinh
viên có điều kiện giải trí lành mạnh, tự tin, yêu đời, học tốt hơn đồng thời ngăn chặn
các tệ nạn xã hội. Qua đó giúp sinh viên trang bị hành trang vào đời một cách toàn
diện.
Mô hình câu lạc bộ TTGT xây dựng là phù hợp cho sinh viên sẽ góp phần
tích cực giúp sinh viên trường Đại học An Giang thực hiện được mục tiêu tự đào tạo
mình một cách toàn diện, đặc biệt giúp nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần và sức
khỏe xã hội của bản thân.


14

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan về Thể thao giải trí
Thể thao giải trí xuất hiện và phát triển khi thu nhập của người dân tăng cao,
thời gian nhàn rỗi nhiều. Vì vậy nó được nhiều quốc gia nghiên cứu từ thập niên 80
của thế kỷ trước. Nói cách khác, giải trí có trước còn thể thao giải trí có sau [5].
Do sự phát triển công nghiệp, điều kiện kinh tế - xã hội, nhu cầu của mọi
người dân ở nhiều quốc gia khác nhau nên khái niệm, phân loại thể thao giải trí ở
các nước cũng chưa thống nhất hoàn toàn.
Thể thao giải trí là loại hình hoạt động thể dục thể thao quần chúng có ý thức,
có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của con người, được tiến hành trong thời
gian tự do ngoài giờ làm việc [6].
Theo sự phát triển khoa học kỹ thuật, thời gian tự do tăng, dẫn đến sự biến đổi

quan niệm giá trị và phương thức hoạt động của con người, cần sử dụng thời gian
có lợi. Khi ấy thể thao trở thành công cụ giải trí, trở thành tiêu chí của đời sống văn
minh. Thể thao giải trí ra đời có tác dụng ngày càng lớn đối với văn hóa – xã hội.
Thể thao giải trí chính là thể thao trong thời gian tự do ngoài giờ làm việc [5].
Hệ thống lý luận thể thao giải trí bao gồm:
Lý luận khoa học xã hội và triết học: các nhà khoa học Mỹ cho rằng: lý luận
thể thao giải trí là hướng đến lý luận tự do, lý luận xã hội giải trí. Cơ sở lý luận này
là cơ sở triết học, cơ sở xã hội học [6].
Lý luận khoa học tự nhiên: thể thao giải trí là hoạt động xã hội, đồng thời là sự
tồn tại tự nhiên của cơ thể con người. Mọi bộ phận tự nhiên của con người đều tồn
tại và phát triển nhờ vận động hợp lý . Bộ não con người nếu thiếu vận động sẽ bị
hủy hoại; bộ phận tim mạch, hô hấp, cơ xương...nếu thiếu vận động sẽ sinh ra bệnh
tật. Rất nhiều thành quả nghiên cứu về sinh học đã thuyết minh cho vấn đề này.
Lý luận cơ bản của thể dục thể thao: thể thao giải trí có lý luận hoàn toàn phù
hợp với hệ thống lý luận thể dục thể thao. Thứ nhất, lý luận thể thao giải trí nằm
trong hệ thống lý luận TDTT như sinh học, xã hội học, kinh tế học, lý luận chuyên
ngành... Thứ hai, lý luận thể thao giải trí hoàn toàn phù hợp với khái niệm cơ bản
của TDTT, có tác động tổng hợp mang lại lợi ích cho con người thông qua hệ thống
các bài tập, phương pháp và phương tiện tập luyện. Thứ ba, hoạt động thể thao giải
trí hoàn toàn phù hợp với các quy luật của hoạt động TDTT: quan hệ giữa các nhân


15
tố nội tại, quan hệ tất yếu giữa các nhân tố nội tại với các nhân tố kinh tế - xã hội
bên ngoài, quan hệ tất yếu giữa các nhân tố TDTT trong nước với quốc tế. Thứ tư,
thể thao giải trí về cơ bản thống nhất với các phương pháp hoạt động TDTT khác:
thống nhất về nguyên tắc, chiến lược cơ bản, thống nhất về các phương tiện thực
hiện mục tiêu, thống nhất cơ bản về kỹ thuật và phương pháp thao tác [6].
Người ta dùng nhiều phương pháp để nghiên cứu về thể thao giải trí. Phương
pháp triết học thường để nghiên cứu bản chất của thể thao giải trí. Phương pháp

kinh tế được dùng để nghiên cứu những quy luật về kinh tế và giá trị kinh tế của thể
thao giải trí. Phương pháp văn hóa học thường để nghiên cứu nguồn gốc văn hóa và
giá trị văn hóa của thể thao giải trí. Phương pháp mỹ học được dùng để nghiên cứu
các góc độ mỹ học, nhu cầu mỹ học, giá trị thưởng thức thẩm mỹ của thể thao giải
trí. Các phương pháp lý luận chung cũng thường dùng để nghiên cứu cơ sở lý luận
hình thành thể thao giải trí, các loại hình thể thao giải trí mới [6].
Lê Quý Phượng và cộng sự, (2017) nhận định rằng xu hướng toàn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới kéo theo sự phát triển kinh tế xã hội, đời sống
vật chất của con người ngày càng cao dẫn đến sự thay đổi lớn về quan điểm và nhu
cầu đời sống. Ngày nay, con người không những có nhu cầu thích ứng với sự phát
triển kinh tế xã hội, mà còn có quan điểm thông qua thể thao để nâng cao chất
lượng cuộc sống, lấy nó làm một trong những chuẩn mực để đánh giá trình độ văn
hóa và sự phát triển của xã hội. Với nhận thức mới, việc hiểu TTGT không chỉ để
phát triển thể chất, thỏa mãn đời sống tinh thần của con người, mà còn để phát triển
sức khỏe xã hội, tạo nên sự thân thiện trong quan hệ xã hội, hòa nhập cộng đồng.
Từ sự chuyển biến về nhận thức, hình thành động cơ, ngày càng có nhiều người tự
giác tham gia các hoạt động TTGT. Đây là một lĩnh vực đã có quá trình hình thành
và phát triển lâu dài trên thế giới. Trong những năm gần đây, TTGT cũng đã phát
triển mạnh ở một số khu vực tại Việt Nam.[27]
Tại Mỹ, TTGT, chính xác hơn là TTGT hiện đại, phát triển mạnh vào nửa cuối
thế kỷ 20. Những người tham gia chủ yếu là giới trẻ, phần nhiều tham gia các môn
thể thao mạo hiểm với thiên nhiên, nhằm mục đích tìm đến sự hiểm nguy để thử
thách bản thân, dần dần phát triển thành hoạt động thể thao. Ngành công nghiệp giải
trí (Recreation Industry) ở Mỹ phát triển rất nhanh và đa dạng. Các tổ chức, công ty,
hiệp hội giải trí cố gắng tạo ra những hình thức hoạt động trong thời gian nhàn rỗi
(leisure) với mục đích lợi ích của xã hội và con người [54],[55]. Tham gia trực tiếp
(Direct participation) là sự trực tiếp tham gia vào các hoạt động cụ thể, thí dụ: tham
gia vào 1 cuộc chạy bộ, đua xe đạp leo núi, câu cá, lớp học khiêu vũ... Trong khi



16
Tham gia gián tiếp (Indirect participation) là tham gia vào các hoạt động thể thao
giải trí với tư cách là khán giả, đây là hình thức chiến lược có tác động đến ngành
công nghiệp du lịch, như hình thức lôi kéo khách đến một địa điểm nào đó thông
qua việc tổ chức các sự kiện thể thao – giải trí.[54][55]
Trong Tôn chỉ thành lập “Hiệp hội Chấn hưng thể thao giải trí Nhật Bản” của
Cục Thể dục thể thao Nhật Bản có trình bày định nghĩa TTGT như sau: “TTGT
không phải là các môn thể thao đặc trưng, mà là những môn mang tính chất giải trí
cao, lúc chơi mang lại sự vui vẻ, thoải mái, sự cởi mở cho tâm hồn, làm tiêu tan đi
mệt nhọc thì gọi là thể thao giải trí”.[78]
Các nhà khoa học Úc thì lại định nghĩa TTGT là hoạt động thể chất mang tính
giải trí – tiêu khiển, là những hoạt động được kết hợp tổ chức nhằm mục đích thư
giãn, hoặc hưởng thụ những lợi ích từ hoạt động nỗ lực vận động, có tiêu điểm quan
trọng nhất là hoạt động của con người. Điều cơ bản của những hoạt động đó không
thể thiếu những cuộc thi đấu và khuynh hướng luật lệ chính thức (bao gồm cả
những luật lệ nhằm bảo đảm an toàn). Tại Queensland, người ta xem TTGT là một
phần quan trọng của cuộc sống và là thước đo chất lượng cuộc sống, được đánh giá
như hoạt động cộng đồng, tôn giáo. Ở đây, tình trạng hoạt động công cộng của
chính quyền là một phần chủ yếu của cuộc sống .[24]
1.1.1 Các quan điểm về giải trí
Giải trí là dạng hoạt động mang tính chất tự do hơn các dạng hoạt động khác,
không hề mang tính cưỡng bức; con người có quyền lựa chọn theo sở thích, trong
khuôn khổ chuẩn mực của xã hội. Giải trí là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa
vụ, bổn phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời là những hoạt động
không mang tính vụ lợi nhằm mục đích giải tỏa sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự
thư giãn, thanh thản trong tâm hôn và cao hơn, đó là sự rung cảm về thẩm mỹ.
Theo Đoàn Văn Chúc (1997), “giải trí là hoạt động sản xuất và tiêu dùng các
tác phẩm văn hoá, là toàn bộ những sản phẩm của các lĩnh vực thuộc nhu cầu tinh
thần. Theo nghĩa rộng nhất, giải trí không chỉ là viết truyện làm thơ, vẽ tranh theo
sở thích, không chỉ là hoạt động nghệ thuật không chuyên hoặc tham gia các CLB

năng khiếu, mà còn gồm cả giao tiếp, tâm sự, tổ chức những cuộc vui chơi....[3].
Theo Đinh Thị Vân Chi (2003), “giải trí là hoạt động thẩm mỹ trong thời gian
rỗi, nhằm giải tỏa căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và là điều kiện
phát triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ” [2].


17
Theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”, giải trí làm cho trí óc thảnh thơi, tâm
hồn thanh thản bằng một hoạt động gây được hứng thú. Con người có thể giải trí
qua thưởng thức văn hóa nghệ thuật, qua chơi xổ số hoặc đặt cược, và đặc biệt qua
hoạt động TDTT, du lịch sinh thái...[34].
Theo từ điển xã hội học: “Giải trí là một dạng hoạt động của con người, đáp
ứng những nhu cầu giải trí phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và
mỹ học” và “giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của
đời sống cộng đồng”.
Giải trí không phải là nghỉ ngơi thụ động mà là những hoạt động mang tính
chủ động. Tức là giải trí hoàn toàn tự do, do cá nhân lựa chọn và tham gia một cách
chủ động, không hề bị thúc bách bởi một nghĩa vụ, bổn phận nào. Tất nhiên cùng
một hoạt động, có thể là giải trí, có thể không là giải trí, tuỳ thuộc vào thời gian và
mục đích hoạt động. Ví dụ điển hình như việc chơi thể thao, đối với cầu thủ bóng
đá, đây là hoạt động nghề nghiệp, đối với công nhân là hoạt động giải trí.
Như vậy, có thể nói giải trí là hoạt động có chủ đích của con người nhầm
mang lại những lợi ích về thể chất và tinh thần cho người tham gia.
Mục đích của giải trí là có được niềm vui, mà niềm vui là một trong những
trạng thái lý tưởng của cuộc sống. Niềm vui thúc đẩy sự khỏe mạnh của tâm hồn và
thể chất. Nghiên cứu về vui chơi thư giãn từ góc độ sinh lý và tâm lý có thể thúc
đẩy hoạt động TDTT phát triển. Sự khác biệt giữa hưởng lạc và vui chơi giải trí là ở
nhân tố sáng tạo. cần tránh hưởng lạc tiêu cực, nhưng lại rất cần các hoạt động vui
chơi giải trí thư giãn tích cực, sáng tạo, trong đó có hoạt động TDTT.[27]
1.1.2 Các phương thức cơ bản của hoạt động giải trí

Theo nhận định của Lê Quý Phượng và cộng sự, (2017), hoạt động giải trí bao
gồm 3 phương thức cơ bản sau:
- Phương thức kết hợp vui chơi thư giãn với giải trí: Phương thức này là một
loại hoạt động tương đối tự do theo sự yêu thích của cá nhân để giải thoát khỏi áp
lực về hoàn cảnh văn hóa và hoàn cảnh vật chất. Hoàn cảnh văn hóa chỉ là các áp
lực nghề nghiệp, sự phục tùng lãnh đạo, quan hệ con người... hoàn cảnh vật chất là
chỉ các áp lực và nhu cầu vật chất của các cá nhân và gia đình. Phương thức này
thường bao gồm giải trí thân thế, giải trí thực dụng, giải trí văn hóa và giải trí xã
hội.
- Phương thức giải trí liên quan tới văn hóa: Phương thức giải trí này bao gồm
chiêu đãi, tiếp đón, xem ca nhạc, kịch, xiếc, điện ảnh, xem ti vi... (entertainment).


18
Phương thức này hình thành một ngành hàng sản xuất và cung ứng các sản phẩm
văn hóa giải trí. Những năm gần đây, các hoạt động của TTGT cũng được đưa vào
ngành hàng văn hóa giải trí.
- Phương thức giải trí thực hiện thông thường: Phương thức này là các hình
thức giải trí thông thường, phổ cập chủ yếu bao gồm du lịch giải trí, văn hóa giải trí,
xổ số, đặt cược, TTGT. Không gian giải trí của phương thức này rất rộng rãi, bao
gồm khách sạn, ăn ở, di động trên ô tô, cửa hàng ăn, siêu thị, quán cafe, công viên,
viện bảo tàng, ký túc xá, các di tích hoặc các danh lam thắng cảnh, núi rừng, các
loại sân thể thao, các loại rạp hát, kịch.
Đặc trưng của giải trí là vui chơi thư giãn, nó là một nhu cầu của con người.
Thỏa mãn được nhu cầu này là để đạt được niềm vui. Niềm vui và hạnh phúc càng
nhiều thì tâm lý tinh thần càng được thỏa mãn. Nó được xây dựng trên nền tảng vật
chất nhất định, đồng thời là điều kiện của niềm vui, hạnh phúc của mọi người.[27]
1.1.3. Vị trí và đặc điểm của Thể thao giải trí
Ngay từ những năm 60-70 của thế kỷ trước, thế giới đã bắt đầu nhận biết chức
năng về giải trí và hồi phục sức khoẻ của TDTT. Nhận thức này đã ảnh hưởng đến

TDTT nước ta, thể thao giải trí bước đầu được khẳng định có vị trí trong nền TDTT
nước ta tại bộ “Luật thể dục, thể thao” được Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam ký
lệnh công bố số 22/2006/L-CTN ngày 12 tháng 12 năm 2006 đã coi thể thao giải trí
như là một bộ phận cấu thành của TDTT quần chúng (chương II) và đã xác định ở
điều 18 là:
Nhà nước tạo điều kiện phát triển các môn thể thao giải trí nhằm đáp ứng nhu
cầu giải trí của xã hội.
Cơ quan quản lý nhà nước về thể dục, thể thao có trách nhiệm hướng dẫn hoạt
động thể thao giải trí.
Đồng thời tại điều 11 của Luật cũng đã xác định: “Nhà nước có chính sách đầu
tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân phát triển thể dục, thể thao quần chúng, tạo cơ
hội cho mọi người không phân biệt lứa tuổi, giới tính, sức khỏe, tình trạng khuyết
tật được thực hiện quyền hoạt động thể dục, thể thao để nâng cao sức khỏe, vui
chơi, giải trí” [19].
Vị trí của thể thao giải trí ở nước ta được khẳng định là một bộ phận cấu thành
của thể dục, thể thao, nằm trong phạm vi TDTT quần chúng. Nói cách khác, thể
thao giải trí là bộ phận hữu cơ của đa số các bộ phận cấu thành nên TDTT Việt


19
Nam. Tuy nhiên, thể thao giải trí vẫn có những đặc điểm riêng về phương tiện và
phương pháp.
Theo Dương Nghiệp Chí và cộng sự (2001), những đặc điểm đó là:
Đa số các phương tiện thể thao giải trí tương đối đơn giản, dễ sử dụng, rất
thuận tiện cho người tập. Nội dung và hình thức bài tập thể thao giải trí đơn giản,
cấu trúc buổi tập và kỹ thuật của bài tập thể lực không quá chặt chẽ.
Các phương pháp GDTC ứng dụng trong thể thao giải trí linh hoạt và không
cần định mức chặt chẽ lượng vận động, phương pháp thi đấu linh hoạt, chủ yếu theo
sự thỏa thuận của những người chơi.
Các nguyên tắc về phương pháp GDTC cũng được áp dụng đơn giản và linh

hoạt. Có lẽ nguyên tắc chủ yếu của thể thao giải trí là sự tham gia hoàn toàn tự
nguyện, người tập luyện thể thao giải trí cần hoạt động đều đặn.
Dạy học động tác trong thể thao giải trí cũng rất đơn giản, quá trình dạy học
không phức tạp. Người tập có thể bắt chước động tác, tự tập và hoàn thiện dần động
tác.
Giáo dục các tố chất thể lực chỉ là một phần mục đích cuả thể thao giải trí. Thể
thao giải trí không chỉ nhằm mục đích nâng cao sức khỏe thể chất mà còn nhằm
mục đích giải trí và nâng cao sức khỏe tinh thần.
Đa số các môn thể thao giải trí không yêu cầu cao về sân bãi, dụng cụ (trừ một
số ít môn thể thao mạo hiểm, golf, bowling). Chính vì vậy, thể thao giải trí dễ đến
với con người và xã hội, rất thuận tiện cho việc xã hội hóa [5], [6].
Henderson, K. A., Bialeschki, M. D. (2005) nhận định rằng TTGT có ba đặc
điểm chính:
Đặc điểm đầu tiên là liên quan đến thời gian nhàn rỗi (leisure time). Nếu
không có thời gian nhàn rỗi thì người dân không có cơ hội để giải trí, nghỉ ngơi và
tái tạo sức lao động. Theo sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội, các cơ sở
vật chất cũng không ngừng tăng lên, trình độ văn minh lao động xã hội của loài
người ngày càng được nâng cao, từ đó thời gian làm việc giảm đi, thời gian nhàn rỗi
nhiều hơn. Nhu cầu tham gia TTGT cũng tăng theo, tạo điều kiện quan trọng cho
TTGT phát triển.
Đặc điểm thứ hai là về kinh tế. Kinh doanh TTGT là ngành kinh doanh gắn kết
chặt chẽ với lợi ích của toàn xã hội. Nếu không có đủ điều kiện kinh tế thì dù có
thời gian nhàn rỗi, mọi người cũng không thể đến với các hoạt động thể thao giải
trí. Khi nền kinh tế xã hội phát triển, sẽ xuất hiện một bộ phận những người mạnh


20
dạn làm việc và mạnh dạn chi tiêu cho nhu cầu riêng của cá nhân. Điều này không
chỉ giới hạn ở tầng lớp trung lưu và thượng lưu trong xã hội mà mở rộng sang đối
tượng thanh niên. Do đó, nền kinh tế được thúc đẩy với nhiều loại hình kinh doanh,

trong đó TTGT được biết đến như là một trong những ngành kinh doanh đầy tiềm
năng. Khi kinh tế phát triển, nhu cầu về cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần cũng
tăng lên, tạo điều kiện cho TTGT phát triển.
Đặc điểm thứ ba là TTGT phụ thuộc vào những quan điểm, tư tưởng mới của
con người. Nếu xã hội không có những quan niệm, tư tưởng mới thích ứng với sự
phát triển thì TTGT cũng không thể nào phát triển. Ngày nay, người ta không những
có nhu cầu thích ứng với sự phát triển kinh tế xã hội mà còn có quan điểm nâng cao
chất lượng cuộc sống thông qua thể thao, lấy đó làm một trong những chuẩn mực để
đánh giá trình độ văn hóa và sự phát triển của xã hội. Do vậy, chúng ta cũng có thể
nói, khi tiến hành hoạt động TTGT là tiến hành những hoạt động tự nhiên, có lợi,
thỏa mãn nhu cầu hoạt động thể chất của con người và phù hợp với điều kiện kinh
tế [54].
Tóm lại, TTGT gắn liền với thời gian nhàn rỗi của con người, bao hàm yếu tố
kinh tế và phụ thuộc vào quan điểm, tư tưởng thích ứng của con người.
1.1.4. Sự tham gia thể thao giải trí của con người.
Qua lợi ích của thể thao trong các đề tài nghiên cứu đã tác động đến sự tham
gia vào các hoạt động thể thao của con người. Sự tham gia đóng vai trò chủ yếu
trong TTGT. Tham gia TTGT được phân loại theo hướng chủ động và thụ động.
Tham gia thụ động là hoạt động xem TT, ngược lại, tham gia chủ động là trực tiếp
hòa mình vào hoạt động thể thao đó và đòi hỏi được huấn luyện. Thể thao là một
hoạt động phổ biến được con người trên thế giới tham gia dưới dạng này hay dạng
khác [61]. Theo nghiên cứu này, các lợi ích từ việc tham gia các hoạt động thể thao
đã được xác định từ trước đây. Sự liên quan đến thể thao không chỉ là việc tham gia
trực tiếp vào các hoạt động thể thao tích cực mà còn bao gồm những đối tượng tác
động gián tiếp đến thể thao như huấn luyện viên, cán bộ quản lý, quản trị hay các
khán giả. Một vài nhóm đối tượng có thể vừa được xem như là trực tiếp tham gia
thể thao nhưng mặt khác lại là gián tiếp tác động đến trong nhiều cách khác nhau.
Trong một số nghiên cứu khác đã xem thể thao là một phạm vi rộng hơn của các
hoạt động thể chất như đi bộ nhanh, chạy bộ, khiêu vũ và một số dạng khác của thể
dục. Thể thao cũng bao gồm một số các hoạt động thể chất và giải trí như aerobics,

dance, chạy xe đạp giải trí hay vì mục đích di chuyển, tập thể hình, đua xe hơi, câu


21
cá, chạy bộ và đi bộ. Mục đích chính trong nghiên cứu của Ifedi, F. (2008b) là phát
triển kiến thức của sự tham gia thể thao tại Canada như sau:[61]
- Sự tham gia thể thao do các yếu tố nhân khẩu học – xã hội (như lứa tuổi,
ngôn ngữ chính, giới tính, thành phần gia đình, quá trình giáo dục, mức thu nhập,
nghề nghiệp và loại hình lao động)
- Sự tham gia trong thi đấu thể thao.
- Các mối liên hệ giữa các định hướng xã hội chung và sự tham gia thể thao
(như là sức khỏe, xã hội, liên lạc cộng đồng và thời gian sử dụng cho các hoạt động
giải trí).
Theo nghiên cứu của Fernando và Manuel (2007) về sự tham gia thể thao tại
châu Âu, họ đã đưa ra sự tương đồng quan trọng trong mô hình tham gia thể thao tại
các quốc gia châu Âu. Cụ thể, sự tham gia thể thao bị hạn chế bởi lứa tuổi trong hầu
hết các quốc gia, và nam sẽ tham gia nhiều hơn nữ.
Thu nhập người dân có mối quan hệ rõ ràng đến quyết định tham gia thể thao
nhưng không liên quan đến việc giải thích về mức độ tham gia. Mối quan hệ cũng
không có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu của (Brooks, 1998). Trong mối quan hệ
về nghề nghiệp, theo nghiên cứu của Gratton và Taylor (1985), các biến số đại diện
cho khả năng tham gia các hoạt động trong thời gian rảnh rỗi có tác động tích cực
đến tần suất tham gia nhưng không phụ thuộc vào bản thân đối tượng tham gia.[51]
[28].


22
Hình 1.1: Các mức độ tham gia TTGT của con người
Việc làm khán giả hoặc tham gia thụ động được phân chia thành tình trạng
hoạt động thể chất hoặc tình trạng không hoạt động thể chất, rất quan trọng đối với

TT thi đấu hoặc chuyên nghiệp vì nó mang lại lợi nhuận. Do đó, cần phải hiểu, trân
trọng và xem khán giả là đối tượng tham gia giải trí. Sự tham gia TTGT chủ động
được ví như trái tim của sân đấu [81]. Các nhà quản lý TT quan tâm đến việc lôi
cuốn người chơi TT, các nhà sản xuất và bán lẻ cần có thể nhận ra xu hướng của các
hoạt động để cung cấp quần áo và trang thiết bị phù hợp. Những công ty sáng suốt
trong lĩnh vực cung cấp hàng hóa cho nhu cầu giải trí thụ động cần biết cách thay
đổi kiểu cung cấp, ví dụ như cung cấp qua mạng [85]. Mô hình trên mô tả các mức
độ tham gia chủ động khác nhau liên quan đến các thành tố riêng biệt của TTGT.
Cần có sự linh hoạt để đáp ứng một loạt các nhu cầu và mối quan tâm cá nhân trong
hoạt động TT. Hoạt động TT không may không phải lúc nào cũng có được sự tham
gia tích cực. Đôi khi các tình huống không tích cực nảy sinh trong các điều kiện
không thuận lợi.[81][85]
Tóm lại, sự tham gia thể thao phụ thuộc bởi nhiều yếu tố như nhân khẩu học,
thời gian rảnh rỗi, tình trạng tài chính, tình trạng sức khỏe, quan điểm cá nhân hay
môi trường xung quanh.
1.1.5. Ứng dụng Tháp nhu cầu của Maslow (1954) trong TTGT.
Theo Mannell và cộng sự, (1991); Max-Neef. M (1991), các nhu cầu cơ bản
của con người được xem là mang tính bản thể, có số lượng ít, có hạn và có thể phân
loại được (khác với thuật ngữ kinh tế “nhu cầu” là vô hạn và không thể thỏa mãn
hết). Theo lý thuyết động cơ, nhu cầu là một động lực bên trong mỗi cá nhân, có thể
được xem như một trạng thái tìm kiếm sự thỏa mãn hoặc giai đoạn tâm lý không
hoàn hảo dẫn đến tìm kiếm trạng thái hoàn hảo (IFER/DART, 1976).[73][77]
Theo một cách nhìn đơn giản, nhu cầu con người là điều gì đó thiếu hụt, được
định nghĩa là “bất cứ sự thiếu hụt gì đó trong mỗi người nảy sinh do tự ý hoặc tâm
lý” (Morgan & King, 1996). Nhu cầu thường được nhắc đến ám chỉ một động cơ
hoặc trạng thái nội tâm hướng đến một động cơ, ví dụ như khi buồn ngủ thì con
người có nhu cầu ngủ. Đây là phương pháp tiếp cận của Abraham Maslow (1943
&1968), người phân tích về “nhu cầu cơ bản” nổi tiếng trên toàn thế giới. Maslow



23
phát triển học thuyết về động cơ của con người, trong đó ông đề cập đến một số nhu
cầu quan trọng và sắp xếp theo một hệ thống cấp bậc. Có mỗi một bậc nhu cầu được
đáp ứng, con người lại tìm cách thỏa mãn bậc nhu cầu tiếp theo. Các cấp bậc bao
gồm: Nhu cầu sinh lý, an toàn, xã hội, được tôn trọng và khẳng định bản thân. Vui
chơi và giải trí cũng là thành tố quan trọng thỏa mãn ít nhất là 3 bậc cao nhất trong
hệ thống nhu cầu của Maslow.[75]
Theo công trình nghiên cứu của giáo sư tâm lý học Abraham Maslow, nhu cầu
của con người có thể ra thành 5 nhóm cơ bản như sau:

Hình 1.2: Tháp nhu cầu Maslow (năm 1954)
Theo lý thuyết Maslow, mỗi cá nhân sẽ cần được thỏa mãn những nhu cầu
theo các cấp độ từ 1 tới 5. Khi đã đạt được 1 nấc nhu cầu căn bản, cá nhân sẽ mong
muốn được thỏa mãn nấc nhu cầu cao hơn.[74]
Mức 1 - Nhu cầu sinh tồn cơ bản. Đây là các nhu cầu cơ bản nhất để con
người có thể tồn tại được trong xã hội như : ăn, uống, thở - hoạt động, đi lại - ngủ,
nghỉ ngơi - suy nghĩ.
Mức 2 - Nhu cầu về an toàn cá nhân. Đây là nấc nhu cầu thứ 2 của con người,
là các điều kiện cần thiết để duy trì sự an toàn của cá nhân trong xã hội như: nhà ở giày dép, quần áo - phương tiện đi lại - công việc (thu nhập) - các kiến thức nền
tảng (đọc, viết).
Mức 3 - Nhu cầu được chấp nhận và yêu thương. Hầu hết các xúc cảm tốt
được tạo ra từ những mối quan hệ tương tác giữa người với người, do vậy cá nhân
luôn có nhu cầu được thuộc về một tập thể lớn để được chia sẻ, được yêu thương,
Hình 1.2. Tháp nhu cầu Maslow (năm 1954) được đóng góp. Mỗi cá nhân cùng lúc
có thể tham gia vào nhiều tập thể khác nhau. Tùy theo các đặc thù riêng về chủng


24
tộc, giới tính, địa phương, ngành nghề, tôn giáo mà cá nhân sẽ chọn cho mình
những tập thể phù hợp.[74]

Mức 4 - Nhu cầu được tôn trọng. Khi cá nhân đã là thành viên trong tập thể,
nấc nhu cầu kế tiếp là “được tôn trọng” - nói cách khác là “Địa vị xã hội”. Địa vị xã
hội cao sẽ cho phép cá nhân được tác động, sai khiến người khác làm công việc
thay cho họ, tuân phục họ, ca ngợi họ. Theo tư tưởng phong kiến của Châu Á thì
loại nhu cầu này được coi như nấc cuối cùng của xã hội.
Mức 5 - Nhu cầu hiện thực hóa bản thân. Nhu cầu này chính là nấc nhu cầu
cao nhất của con người - Được làm “những điều vĩ đại - có ý nghĩa lớn lao – tác
động đến xã hội” - Được xã hội ghi nhận. Trong xã hội Phương Tây, nhu cầu này
đặc biệt được coi trọng và được khuyến khích. Đây cũng chính là lý do tuy ra đời
chậm hơn nền văn minh Châu Á, nhưng xã hội Phương Tây đã có những bước phát
triển vượt bậc và vượt lên dẫn đầu trong vòng chỉ vài thế kỷ.
Các loại nhu cầu trên đây thực tế chỉ là bề nổi, là mặt bên ngoài, thể hiện các
loại ham muốn của con người để có được các cảm xúc tốt. Trên thực tế, rất khó để
tính hết được các loại nhu cầu cụ thể của con người. Năm nhóm nhu cầu theo phân
loại của Maslow giúp chúng ta thấy được những nhóm mục đích chính dẫn dắt các
hành vi con người để hướng tới sự thoả mãn theo các tiêu chí do xã hội đặt ra.
Có một số vấn đề nảy sinh khi áp dụng học thuyết của Maslow vì nhu cầu
không cần thiết phải được phân cấp hay phân nhóm, thường trùng lắp và xảy ra
đồng thời. Tuy nhiên, học thuyết cũng giúp các nhà nghiên cứu nhận định và phân
loại các kiểu nhu cầu cá nhân khác nhau [89]. Max-Neef (1991) trước đó có đề nghị
“cần hiểu nhu cầu con người là một hệ thống, chúng có tương quan và tác động lẫn
nhau. Trong hệ thống này không có cấp bậc (ngoại trừ các nhu cầu sống cơ bản),
hơn nữa, sự bổ sung và đánh đổi là các đặc điểm của quá trình thỏa mãn nhu cầu”.
Theo Torkildsen (2005), sự thảo luận về sự tham gia giải trí đã diễn ra từ rất
lâu rồi và thường đề cập đến khái niệm “nhu cầu xã hội” do Bradshaw đưa ra
(1972). Mercer (1973), McAvoy (1977) và Godbey (1976) đã áp dụng khái niệm
của Bradshaw vào nghiên cứu về giải trí của mình. Godbey và các nhà nghiên cứu
khác đã mở rộng số phân nhóm và đưa thêm vào các mục: nhu cầu được tạo ra, thay
đổi và sai lạc. Lúc bấy giờ có 7 nhóm nhu cầu được cân nhắc khi cung cấp các dịch



25
vụ giải trí. Sau Maslow, có nhiều người đã phát triển thêm tháp này như thêm các
tầng khác nhau, thí dụ:
+ Tầng Cognitive: Nhu cầu về nhận thức, hiểu biết: - Học để hiểu biết, góp
phần vào kiến thức chung.
+ Tầng Aesthetic: Nhu cầu về thẩm mỹ - có sự yên bình, ham muốn hiểu biết
về những gì thuộc nội tại.
+ Tầng Self-transcendence: Nhu cầu về tự tôn bản ngã - một trạng thái siêu vị
kỷ hướng đến trực giác siêu nhiên, lòng vị tha, hòa hợp bác ái.
Hay đưa ra mô hình Tháp nhu cầu áp dụng cho các công ty như ở đây. Tuy
nhiên, mô hình căn bản được chấp nhận rộng rãi vẫn chỉ có 5 tầng như ở trên. Do
đó, chơi thể thao hay TTGT nhằm mục đích tăng cường sức khỏe, thư giãn tinh
thần, kết bạn, ... được xem trọng trong cuộc sống con người. Nhu cầu về sức khỏe,
tinh thần và sự phát triển xã hội được giải thích rõ trong lý thuyết về tháp nhu cầu
của Maslow và được áp dụng trong việc xây dựng phiếu điều tra khảo sát.[73][79]
[78]
1.1.6. Động cơ tham gia giải trí và TTGT.
Trong TTGT và thể thao thi đấu có rất nhiều khía cạnh tạo ra sự thu hút các
đối tượng tham gia. Trong nghiên cứu này chỉ tập trung vào các vấn đề liên quan
đến TTGT. Sự tham gia trong TTGT hay giải trí đơn thuần có sự liên quan chặt chẽ
đến các động cơ của người tham gia.
Theo nghiên cứu của Kraus.R (1997), các động cơ tham gia giải trí bao gồm:
1. Con người tham gia giải trí để thư giãn hay giảm bớt áp lực công việc hay
các tình trạng căng thẳng khác. Các hoạt động giải trí có thể là khán giả xem truyền
hình, xem phim hay các dạng khác của các loại hình giải trí điện tử.
2. Đối với một số đối tượng tham gia, giải trí mang tính cạnh tranh, chủ động
có thể cung cấp một nguồn giải trí khác làm giảm bớt tranh cãi hay thù hận, hoặc
phải chống chọi lại với sự khắc nghiệt của môi trường phiêu lưu mạo hiểm.
3. Một số cá nhân tham gia các hoạt động giải trí liên quan đến dịch vụ cộng

đồng hay tạo điều kiện cho họ được lãnh đạo trong các tổ chức tôn giáo hay cá nhân
một nhóm người. Một vài người tham gia trong các hoạt động khuyến khích sử


×