Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 2019 VÀ TRIỂN VỌNG 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.36 KB, 8 trang )

THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 2019 VÀ TRIỂN VỌNG 2020
Năm 2019, hệ thống tài chính Việt Nam đã làm tốt chức năng cung ứng và
phân bổ vốn cho nền kinh tế nhờ môi trường vĩ mô ổn định, thanh khoản dồi dào và
diễn biến tích cực của thị trường vốn. Hoạt động của thị trường tài chính ổn định với
việc các ngân hàng ngày càng đáp ứng tốt hơn các chuẩn mực về quản trị và kết quả
kinh doanh khả quan hơn. Xu hướng tài chính số đem lại những thay đổi nhanh
chóng cho mọi mặt hoạt động của ngành tài chính - ngân hàng, tạo nên diện mạo
mới, cơ hội và thách thức cho hệ thống tài chính trong tương lai… Bài viết tập trung
vào: (i) những kết quả nổi bật, thách thức, tồn tại; (ii) xu hướng thị trường tài chính
năm 2020, và (iii) một số kiến nghị.
1. Thị trường tài chính Việt Nam năm 2019
Mặc dù trong năm 2019, nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, rủi ro và bất
ổn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực. Tăng trưởng GDP đạt
7,02%, lạm phát được kiểm soát ở mức 2,79%; thâm hụt ngân sách giảm về mức
khoảng 3,5% GDP, tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài/GDP giảm dần, hoạt động xuất
khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài khả quan, tỷ giá ổn định, lãi suất có xu hướng
giảm nhẹ. Trong bối cảnh đó, hệ thống tài chính vừa là nhân tố quan trọng đóng góp
vào thành công chung, vừa nhận được động lực để phát triển với nhiều kết quả nổi
bật, nhưng vẫn còn những vấn đề then chốt cần giải quyết trong thời gian tới.
Những kết quả đáng khích lệ
Trước hết là ba lĩnh vực thuộc thị trường tài chính (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm) đều có mức tăng trưởng khá (trên 10%) và lành mạnh hơn. Khu
vực chứng khoán tăng trưởng tốt giúp cơ cấu hệ thống tài chính cân bằng hơn. Ước
tính đến hết năm 2019, quy mô vốn hoá thị trường cổ phiếu đã đạt hơn 4,4 triệu tỷ
đồng, tăng gần 12% so với cuối năm 2018, tương đương 80% GDP, vượt chỉ tiêu
70% GDP đề ra tại Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam
giai đoạn 2011-2020. Về huy động vốn từ TTCK, theo UBCK, tổng mức huy động
vốn từ thị trường cổ phiếu ước đạt khoảng 300 ngàn tỷ đồng cả năm 2019.
1



Quy mô thị trường TPDN đến nay đạt khoảng 10% GDP (cao hơn mức 8,6%
GDP của năm 2018), vượt mục tiêu 7% GDP năm 2020 của Chính phủ, quy mô thị
trường TPCP tương đương 25% GDP. Kết quả này giúp tỷ lệ vốn hóa 2 thị trường cổ
phiếu và trái phiếu đạt mức khoảng 119% GDP (vượt kế hoạch 100% GDP đến năm
2020 của Chính phủ).
Trong khi đó, khu vực các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng khá tốt và
chuẩn mực hơn: tín dụng cả năm 2019 tăng xấp xỉ 14%. Bước điều chỉnh lại trong
nhịp tăng trưởng tín dụng năm 2019 được đánh giá là cần thiết sau những năm tăng
trưởng nóng vừa qua với mức tăng bình quân 15 - 16%/năm và tỷ lệ tín dụng/GDP đã
lên đến 136% cuối năm 2019 (tương đối cao so với mức độ phát triển và thu nhập
bình quân đầu người của Việt Nam). Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích
cực, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; tín dụng đối với
lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát. Ước đến 31/12/2019, tín dụng đối với lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 11%, chiếm khoảng 25% tổng dư nợ nền
kinh tế; tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng 16%, tín dụng đối với
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng khoảng 15%. Theo báo cáo về Môi
trường kinh doanh 2020 được Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày
24/10/2019, Chỉ số Tiếp cận tín dụng của Việt Nam xếp hạng 25/190 nền kinh tế,
đứng thứ 2 trong các nước ASEAN (chỉ sau Brunei - hạng 1/190).
Quy mô khu vực bảo hiểm còn nhỏ bé song tốc độ tăng trưởng tốt. Theo
Hiệp hội Bảo hiểm, đến hết năm 2019, tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm
ước đạt 454.379 tỷ đồng, tăng 14,92%; đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 376.555 tỷ
đồng, tăng 16,13%; 160.180 tỷ đồng, tăng 20,31% so với đầu năm.
Hai là các yếu tố vĩ mô về tài khóa, tiền tệ đã và đang được củng cố, với
những tấm đệm (buffer) vững chắc hơn, được quốc tế ghi nhận. Trong năm 2019,
lãi suất liên ngân hàng, nhìn chung, ổn định với xu hướng đi xuống là chủ yếu. Lãi
suất cho vay cơ bản ổn định, lãi suất huy động có xu hướng tăng nhẹ trong 10 tháng
đầu năm và đồng loạt giảm nhẹ sau động thái hạ trần lãi suất huy động của NHNN
2



vào tháng 11/2019. Tỷ giá tiếp tục ổn định, giá trị đồng VND được nâng cao, đến hết
ngày 31/12/2019, tỷ giá giao dịch chỉ giảm 0,1%, tỷ giá trung tâm tăng 1,50% so
với đầu năm. Dự trữ ngoại hối cao kỷ lục (lên đến gần 80 tỷ USD). Khu vực TCTD
cơ cấu lại tín dụng theo hướng tăng trưởng tín dụng tập trung vào các ngành sản xuất,
lĩnh vực ưu tiên và giảm tín dụng vào những ngành rủi ro. Đồng thời, Chính phủ đã
kiểm soát khá tốt các yếu tố làm gia tăng nợ công bao gồm giảm bội chi ngân sách từ
mức cao 6,28% GDP năm 2015 và 5,52% năm 2016 xuống khoảng 3,4% GDP cuối
năm 2019). Năm 2019 tỷ lệ nợ công/GDP khoảng 56,1%, giảm so với mức 62-64%
giai đoạn 2016-2018. Nhờ đó, xếp hạng thị trường tài chính Việt Nam năm 2019 tăng
3,5 điểm và tăng 10 bậc (theo WEF).
Ba là, hệ thống tài chính hoạt động ngày càng lành mạnh, an toàn, chuẩn
mực hơn và tiệm cận thông lệ quốc tế. Đến nay, đã có 18 ngân hàng thương mại
(NHTM) được NHNN công nhận đáp ứng chuẩn Basel II về tỷ lệ an toàn vốn.
Kết quả xử lý nợ xấu tiếp tục khả quan, đặc biệt từ khi có sự ra đời của Nghị quyết 42
về thí điểm xử lý nợ xấu của Quốc hội (hiệu lực từ ngày 15/8/2017). Theo NHNN, tỷ
lệ nợ xấu nội bảng đến cuối năm 2019 là 1,89%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (gồm nợ xấu nội
bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa xử lý và nợ xấu tiềm ẩn) ở mức 4,59%, giảm
mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016 và mức 5,85% cuối năm 2018. Tính từ năm
2012 đến cuối tháng 12/2019, toàn hệ thống các TCTD ước tính đã xử lý được 1.064
nghìn tỷ đồng nợ xấu. Lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 12/2019, ước tính toàn hệ
thống TCTD đã xử lý được 305,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42
(không bao gồm sử dụng dự phòng rủi ro và khoản bán nợ cho VAMC thông qua phát
hành trái phiếu đặc biệt). Về hiệu quả hoạt động, đến hết năm 2019, giá cổ phiếu của
nhóm các NHTM và công ty chứng khoán, bảo hiểm niêm yết tăng khoảng 20%.
Bốn là, hành lang pháp lý dần được hoàn thiện. Có thể thấy, hệ thống pháp
luật chi phối lĩnh vực tài chính - ngân hàng ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ tích cực cho
sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống. Trong năm 2019, Luật chứng khoán
sửa đổi và Luật kinh doanh bảo hiểm sửa đổi đã được Quốc hội thông qua, cùng với
3



đó là Quyết định số 242/QĐ-TTg (2019) phê duyệt Đề án cơ cấu lại TTCK và bảo
hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, Chiến lược quốc gia về tài chính
toàn diện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Chỉ thị số 06/CT-TTg (2019) về
tăng cường giải pháp đảm bảo an toàn QTDND và hàng loạt các Nghị định khác,
Thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện. Hiện NHNN cũng đang trình và triển khai
Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh
vực ngân hàng (Regulatory Sandbox); Báo cáo cơ chế thí điểm quản lý hoạt động
cho vay ngang hàng (P2P Lending) tại Việt Nam; Đề án thử nghiệm các mô hình
thanh toán mới
Năm là, xu hướng tài chính số, đặc biệt là Fintech, ngân hàng số phát triển
nhanh. Theo NHNN, 94% ngân hàng Việt Nam bắt đầu triển khai hoặc xây dựng
chiến lược chuyển đổi số. Hệ sinh thái ngân hàng dần hình thành, theo đó, hệ sinh
thái ngân hàng Việt Nam tập trung vào lớp dịch vụ lõi ngân hàng và bước đầu có lớp
dịch vụ hệ sinh thái ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt phát triển nhanh với
nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, tất cả các công nghệ mới trên thế giới đã
được ứng dụng. Đến cuối tháng 10/2019, đã có trên 78 tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 47 tổ chức thực hiện qua
điện thoại di động (ĐTDĐ). Trong 10 tháng đầu năm 2019, số lượng và giá trị giao
dịch tài chính qua kênh Internet tăng tương ứng hơn 67% và trên 36%; số lượng và
giá trị giao dịch tài chính qua kênh ĐTDĐ tăng tương ứng 186% và 221% so với
cùng kỳ năm 2018. Thanh toán qua QR tăng trưởng khá.
Một số thách thức, tồn tại đối với hệ thống tài chính Việt Nam
Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài: xu hướng suy giảm kinh tế toàn cầu
sẽ ảnh hưởng đáng kế đến kinh tế trong nước do Việt Nam là nước có độ mở lớn trên
thế giới (tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 tương đương 200% GDP). Theo WB,
kinh tế thế giới tăng trưởng khoảng 2,5% năm 2019 (giảm từ mức 2,8% năm 2018),
và dự báo tăng khoảng 2,6% năm 2020.


4


Hai là, vẫn còn mất cân đối trong hệ thống tài chính Việt Nam khi khu vực
TCTD vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản hệ thống và đảm nhận cả vai trò
chính trong cung ứng vốn cho nền kinh tế, tiềm ẩn rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản và
tín dụng (do qui mô tín dụng khá lớn và gần 50% nguồn vốn trung-dài hạn vẫn từ hệ
thống TCTD).
Ba là, rủi ro tiềm ẩn từ thị trường TPDN: thị trường TPDN trong năm 2019
phát triển rất mạnh mẽ, song, tiềm ẩn nhiều rủi ro do còn thiếu minh bạch thông tin,
chưa thống nhất đầu mối quản lý, xuất hiện hiện tượng phát vỡ mặt bằng lãi suất
(nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu với lãi suất lên tới 14%, thậm chí
20%/năm).
Bốn là, thể chế hệ thống tài chính còn một số bất cập, cần sớm hoàn thiện.
Đó là, (i) chưa có Nghị định về thị trường mua - bán nợ; (ii) vẫn còn một số vướng
mắc liên quan đến giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn, nộp thuế và phí liên
quan đến sang tên tài sản bảo đảm… theo Nghị quyết 42 của Quốc Hội; (iii) chưa có
khung pháp lý quản lý, giám sát đối với tập đoàn tài chính; (iv) một số mô hình kinh
doanh mới trên nền tảng công nghệ (cho vay ngang hàng, Fintech, huy động vốn
cộng đồng, tiền kỹ thuật số, xác thực điện tử E-KYC…) chưa có hành lang pháp lý,
(v) cần hoàn thiện một số qui định pháp lý theo yêu cầu hội nhập (CPTPP, EVFTA...).
Năm là, các NHTM gặp khó khăn trong tăng vốn: theo công bố của NHNN,
hệ số an toàn vốn (CAR) của toàn hệ thống đến cuối tháng 9/2019 đạt 12,02% giảm
nhẹ so với mức 12,14% cuối năm 2018. Bắt đầu từ năm 2020 khi các NHTM cần
tuân thủ Thông tư số 41 (2016) của NHNN, khi hệ số CAR của các NHTM Việt Nam
cần tính toán đầy đủ theo chuẩn Basel II, thì hệ số CAR của các NHTM sẽ thấp hơn
khá nhiều. Trong khi đó, nhiều NHTM Việt Nam đang đối mặt với những thách thức
lớn trong tăng vốn.
Sáu là, rủi ro an ninh mạng ngày càng tăng: Theo Bộ Thông tin - Truyền
thông, trong 9 tháng đầu năm 2019, có đến gần 3.500 sự cố tấn công mạng ở Việt

Nam, tăng 104% so cùng kỳ, nhiều cuộc tấn công nhắm vào ngân hàng. Trong khi chỉ
5


có 25% tổ chức có khả năng ghi nhận tấn công mạng và có đến 30% doanh nghiệp
chi đầu tư cho an toàn thông tin dưới 10% trong tổng đầu tư về CNTT.
Bảy là, vấn đề giám sát, an toàn hệ thống còn bất cập, chủ yếu gồm: (i) giám
sát, ổn định tài chính-tiền tệ do nhiều nơi đảm trách, còn thiếu sự phối hợp giữa các
cơ quan chức năng, (ii) vai trò của Uỷ ban Giám sát tài chính Quốc gia và Bảo hiểm
Tiền gửi còn mờ nhạt, (iii) chưa có cơ chế, qui trình quản lý và giám sát các tập đoàn
tài chính và sản phẩm bán chéo, (iv) rủi ro hệ thống (có tính lan truyền) chưa được
kiểm soát chặt chẽ, chưa có cơ chế xử lý khủng hoảng, (v) hoạt động thanh tra, giám
sát vẫn chủ yếu theo phương thức giám sát hành chính, thực hiện giám sát trên cơ sở
rủi ro (risk-based supervision) chưa nhiều, (v) thiếu nguồn lực cần thiết để thực hiện,
và (vi) chế tài, cưỡng chế còn chưa đủ mạnh, dẫn đến vi phạm còn lặp lại…
2. Một số xu hướng thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2020
Trong năm 2020, thị trường tài chính Việt Nam sẽ hoạt động theo những xu
hướng chính như sau: (i) Qui định pháp lý ngày càng hoàn thiện và theo hướng
chặt chẽ hơn trong đó tập trung vào triển khai các văn bản pháp luật đã được ban
hành trong năm 2019 như: Luật Chứng khoán sửa đổi, Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa
đổi (2019), Quyết định số 242 của Chính phủ, Chỉ thị 06 của Thủ tướng, Quyết định
986/QĐ-TTg (2018), Chiến lược tài chính toàn diện, Nghị định 88 (2019) của Chính
phủ, Thông tư 22/2019/TT-NHNN, Thông tư 41/2016/TT-NHNN … (ii) Xu hướng
phát triển tài chính số, đặc biệt là ngân hàng số, Fintech mạnh mẽ hơn trong năm
2020; (iii) Xu hướng tái cơ cấu các ĐCTC được đẩy mạnh: năm 2020 là năm chốt
thực hiện các Đề án, kế hoạch 5 năm, điều này đòi hỏi công cuộc tái cơ cấu các
ĐCTC gắn với yêu cầu lành mạnh hóa hoạt động cần triển khai quyết liệt hơn và có
kết quả cụ thể; (iv) Áp lực cạnh tranh gia tăng từ nước ngoài và trong nước; (v)
Xu thế hợp tác, kết nối và liên kết gia tăng: theo đó, hợp tác giữa ngân hàng-bảo
hiểm (banca-assurance), giữa ngân hàng-chứng khoán (tăng nghiệp vụ ngân hàng đầu

tư – investment banking), ĐCTC - Fintech và Bigtech, ĐCTC - Regtech nhằm đảm
bảo hiệu quả tuân thủ, giữa ĐCTC và các tổ chức khác tạo hệ sinh thái với ĐCTC
6


làm trung tâm, trong đó môi trường ngân hàng mở (open banking) bắt đầu hình
thành…; (vi) Xu hướng tăng đầu tư cho phân tích dữ liệu lớn (big data analytics)
và an ninh mạng.
3. Một số kiến nghị
Việt Nam cần ưu tiên khẩn trương hoàn thiện thể chế hệ thống tài chính;
trong đó, cần tập trung: (i) ban hành Nghị định về thị trường mua bán nợ, tháo gỡ
vướng mắc liên quan đến xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc Hội; (ii) sửa
Luật NHNN (2010) theo hướng tăng dần tính độc lập của NHNN, sửa Luật các
TCTD (2010, 2017) nhằm tăng tính tự chủ, tính thị trường và minh bạch của các
TCTD; (iii) sửa Luật Bảo hiểm tiền gửi (2012) theo hướng tăng vai trò, trách nhiệm
của Bảo hiểm tiền gửi cũng như hạn mức đền bù cho phù hợp bối cảnh mới. Đồng
thời, (iv) bổ sung luật định chi phối hoạt động quản lý, giám sát tập đoàn tài chính,
một số mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ, kể cả khung pháp lý thử
nghiệm (Sandbox).
Chú trọng nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ
thống tài chính-tiền tệ: các cơ quan quản lý, giám sát cần độc lập và được trao
quyền nhiều hơn; chú trọng xây dựng mô hình quản lý - giám sát rủi ro hệ thống, mô
hình ổn định tài chính-tiền tệ và cơ chế xử lý khủng hoảng; làm rõ và tăng vai trò của
Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi; nâng cao năng lực của các
cơ quan quản lý, giám sát, ổn định hệ thống tài chính tiền tệ. Đồng thời, đẩy nhanh
tiến độ tái cơ cấu và nâng cao năng lực của các ĐCTC; nâng cao và phát huy vai trò
của các Hiệp hội ngành nghề.
Đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu thị trường tài chính và các ĐCTC, lành
mạnh hóa các ĐCTC hướng tới đạt chuẩn thông lệ quốc tế. Tăng cường thanh tra,
giám sát; thực thi chế tài nghiêm minh đối với các vi phạm trên thị trường. Tiếp tục

phát triển, đa dạng hóa sản phẩm - dịch vụ chứng khoán; tiếp tục nâng cao hiệu quả
phối hợp chính sách (nhất là giữa CSTT và CSTK) nhằm đạt hiệu quả trong chính

7


sách lãi suất, vốn trung dài hạn; và thúc đẩy tiến trình nâng hạng của TTCK Việt
Nam.
Thực hiện quyết liệt các biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn chủ sở hữu
cho các NHTM, đặc biệt là các NHTM có sở hữu Nhà nước chi phối, giảm thiểu thủ
tục hành chính trong xét duyệt phương án bán chiến lược, đẩy nhanh tiến độ cổ phần
hóa Agribank, cho phép giữ lại cổ tức, phát hành cổ phiếu cho CBNV (ESOP)…; xây
dựng cơ chế lâu dài về biện pháp tăng vốn cho các NHTM (thay vì xem xét từng năm
một) nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính.
Tổ chức triển khai hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện, trong đó, tập
trung vào các giải pháp như: (i) phát triển đa dạng các kênh phân phối (ii) đồng bộ và
nhất quán thực hiện các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt; (iii) tăng
cường năng lực các định chế tài chính đặc biệt như Ngân hàng Hợp tác xã, Ngân
hàng Chính sách xã hội, Quỹ TDND, Tổ chức tài chính vi mô…; (iv) phát triển cơ sở
hạ tầng tài chính; (v) xây dựng và thực thi chiến lược giáo dục tài chính…
Có khung chính sách và biện pháp cụ thể nhằm hạn chế rủi ro hệ thống và
màng lưới an toàn hệ thống: (i) nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách của các cơ
quan quản lý trong lĩnh vực này, (ii) nâng cao năng lực (nhất là về nhân lực, công
nghệ, cơ sở dữ liệu…) của các cơ quan quản lý, (iii) nâng cao năng lực, quyền năng,
tính độc lập của các cơ quan giám sát song vẫn đảm bảo tăng khả năng phối kết hợp,
trong đó cần có cơ chế xử lý khủng hoảng, và (iv) tăng khả năng chống chịu của hệ
thống tài chính đối với các cú sốc bên ngoài.

8




×