Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

[Bài điểm 9] Điều kiện thụ lý vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.23 KB, 14 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KÌ
MÔN: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỀ SỐ : 14

1

HỌ VÀ TÊN

: PHẠM MINH ĐỨC ANH

LỚP

: N03 - TL2

MSSV

: 421555

NHÓM

: 03


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................................1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ..............................................................................................1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ.......................1


II. NỘI DUNG CÁC QUY PHẠM ĐỊNH LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ VỤ
ÁN DÂN SỰ.............................................................................................................3
1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện......................................................................3
2. Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án...........................................................4
3. Điều kiện về thời hiệu khởi kiện...................................................................6
4. Điều kiện về hình thức đơn khởi kiện..........................................................7
5. Điều kiện liên quan đến sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc
đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhưng người khởi kiện có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật
TTDS..................................................................................................................... 7
6. Điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí...........................................................8
III. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ VỤ ÁN
DÂN SỰ.................................................................................................................... 9
1. Về điều kiện thẩm quyền theo cấp và theo lãnh thổ của Tòa án................9
2. Về điều kiện nộp tiền tạm ứng án phí.........................................................11
KẾT LUẬN................................................................................................................ 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................12

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự phát triển của xã hội, khi Nhà nước và pháp luật ra đời thì việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận bằng pháp luật và bảo đảm thực
hiện thông qua các thiết chế do Nhà nước thiết lập. Theo đó, quyền khởi kiện của tổ chức,
cá nhân đã được pháp luật quy định và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình thông qua việc khởi kiện. Khi đơn khởi kiện của các chủ thể đáp ứng đủ
các điều kiện do pháp luật quy định thì Tòa án có trách nhiệm thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án

dân sự (VADS) đúng có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm được quyền tiếp cận công lý của
chủ thể khi có tranh chấp dân sự, đồng thời tránh được việc phải giải quyết hậu quả của
việc thụ lý vụ án không đúng dẫn đến tốn kém về công sức, tiền của đương sự. Do đó,
việc nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hiện hành về
điều kiện thụ lý vụ án dân sự có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đồng thời có thể
đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực này là một hoạt động cần thiết. Với nhận thức đó, em xin lựa chọn đề
bài số 14: “Điều kiện thụ lý vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề
này” làm đề tài bài tập học kỳ của mình.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ

1. Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
Pháp luật Tố tụng dân sự (TTDS) Việt Nam hiện hành không đưa ra một khái
niệm cụ thể về thụ lý VADS mà tại khoản 1 Điều 195 BLTTDS chỉ quy định sau khi
nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ
đến Tòa án làm thủ tục nộp tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng
án phí và Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng án
phí; trường hợp họ được miễn hoặc không phải nộp thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án
khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo. Các hoạt động đó của
toàn án được gọi là thụ lý vụ án dân sự.
Vì vậy ta có thể hiểu Thụ lý vụ án là việc tòa án nhận đơn khởi kiện của người
khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết.1
2. Đặc điểm của thụ lý vụ án dân sự
Thứ nhất, thụ lý VASD là việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân.
Trên thế giới, có rất nhiều quốc gia quy định quyền tiếp cận công lý của con
người thông qua những quy định về việc Thẩm phán không được từ chối xét xử. Có

1 Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội.

1


thể nói đây là một trong những bảo đảm quan trọng giúp cho quyền khởi kiện VADS
được thực thi có hiệu quả trên thực tế.
Thứ hai, thụ lý VADS là hoạt động đầu tiên của quá trình TTDS xác nhận
trách nhiệm giải quyết VADS của Tòa án.
Thụ lý VADS thực chất là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn
yêu cầu độc lập để xem xét, giải quyết. Khi đơn khởi kiện được nộp đến Tòa án thì
Tòa án xem xét đơn khởi kiện và có thể quyết định: trả lại đơn khởi kiện; chuyển đơn
khởi kiện đến cho Tòa án có thẩm quyền hoặc tiến hành thủ tục thụ lý vụ án. Việc Tòa
án chấp nhận tiến hành thụ lý vụ án đồng nghĩa với việc Tòa án đã xác nhận trách
nhiệm giải quyết vụ án thuộc về mình mà không phải thuộc về một cơ quan Nhà nước
nào khác. Từ đây, các mối quan hệ pháp luật tố tụng sẽ được phát sinh, các chủ thể sẽ
bị ràng buộc với nhau và mối quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bằng các quy định của
pháp luật TTDS.
Thứ ba, thụ lý VADS là hoạt động do Tòa án có thẩm quyền thực hiện.
Thụ lý VADS là một hoạt động do Tòa án có thẩm quyền thực hiện nghĩa là,
VADS đó phải thuộc thẩm quyền chung của Tòa án, đúng thẩm quyền theo cấp và
thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án. Khi thỏa mãn cả ba điều kiện về thẩm quyền thì
Tòa án mới tiến hành thủ tục thụ lý vụ án; nếu không thỏa mãn thì Tòa án sẽ phải thực
hiện chuyển đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền xem xét, giải quyết hoặc trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Thứ tư, căn cứ phát sinh thụ lý VADS là dựa trên đơn kiện của chủ thể có
quyền khởi kiện.
Khoa học pháp lý đã chứng minh rằng, thụ lý VADS là hoạt động đặc trưng
của Tòa án, nó gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tuy vậy, điều này không
có nghĩa là Tòa án tự ý thụ lý VADS, mà Tòa án chỉ thụ lý khi có người yêu cầu. Đây

là nét khác biệt của TTDS so với tố tụng hình sự, vì ở tố tụng hình sự, cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện việc giải quyết vụ án thường xuất phát từ quyết định khởi tố
của cơ quan có thẩm quyền do mối quan hệ cần giải quyết là giữa Nhà nước và người
thực hiện hành vi phạm tội. Còn trong TTDS, khi quyền và lợi ích bị xâm phạm thì
chủ thể có quyền và lợi ích đó có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem
xét giải quyết để bảo vệ cho mình, và khi đó, Tòa án mới thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình như quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức TAND.
Thứ năm, thụ lý VADS là một thủ tục tố tụng gồm nhiều bước khác nhau để đi
đến kết quả là Tòa án nhận trách nhiệm giải quyết VADS.
Thụ lý VADS bao gồm nhiều hoạt động cơ bản: nhận đơn khởi kiện, kiểm tra
các điều kiện thụ lý, trả lại đơn khởi kiện, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về trả lại
đơn khởi kiện (nếu có), dự tính tạm ứng án phí và yêu cầu người khởi kiện nộp, vào
sổ thụ lý vụ án và thông báo về việc thụ lý. Kết quả của quy trình tố tụng này là việc
Tòa án nhận trách nhiệm giải quyết VADS.
3. Vai trò, ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự
2


Việc thụ lý VADS có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó đặt trách nhiệm cho Tòa
án phải giải quyết vụ án trong thời gian luật định. Sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán
phải triệu tập các đương sự đến Tòa để xác minh và hòa giải, đối với những việc pháp
luật quy định không được giải thì phải khẩn trương hoàn thiện hồ sơ đưa vụ án ra xét
xử tại phiên tòa.
Thụ lý vụ án dân sự còn có ý nghĩa thiết thực bảo đảm việc bảo vệ kịp thời
những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh,
thương mại, hôn nhân gia đình, lao động. Bằng hoạt động xét xử, Tòa án đã góp phần
bảo vệ và củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả xét xử, giải quyết kịp
thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, tạo niềm tin của nhân dân với
chế độ, trong đó Tòa án là cơ quan trực tiếp thụ lý giải quyết vụ án.
II.


NỘI DUNG CÁC QUY PHẠM ĐỊNH LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ
VỤ ÁN DÂN SỰ

Khi khởi kiện tại Tòa án thì các chủ thể phải đáp ứng các điều kiện thời kiện
theo quy định. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, khi chủ thể khởi kiện đáp
ứng đầy đủ các điều kiện này thì thì Tòa án sẽ thụ lý VADS. Tòa án chỉ thụ lý VADS
khi việc khởi kiện đáp ứng điều kiện khởi kiện, hình thức đơn khởi kiện; bên cạnh đó
việc khởi kiện còn phải đúng thẩm quyền theo cấp, lãnh thổ và người khởi kiện phải
nộp tạm ứng án phí. Cụ thể như sau:
1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Để khởi kiện VADS, chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện và có đủ năng
lực hành vi tố tụng dân sự. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp về
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, đất đai, nhà ở. Bởi
quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự chỉ có được khi chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật nội dung: Quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động,
đất đai, nhà ở. Chủ thể không có quyền, lợi ích dân sự, không có quyền khởi kiện trừ
một số trường hợp ngoại lệ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, mặc dù người
khởi kiện có quyền, lợi ích dân sự nhưng quyền, lợi ích đó không hoặc chưa bị xâm
phạm thì cũng chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Về nguyên tắc, chỉ có cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm mới có quyền khởi kiện để yêu
cầu tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp
pháp của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh
vực phụ trách, trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật quy định quyền khởi kiện
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện trong trường hợp cần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
2. Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án

3


2.1.

Thẩm quyền theo loại việc

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo loại việc là tổng hợp các loại vụ việc về
dân sự mà Tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết theo thủ tục TTDS. Thẩm quyền
về loại việc của Tòa án sẽ phân định với những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan khác.
BLTTDS năm 2015 được xây dựng dựa trên Hiến pháp năm 2013 và theo đó
nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
được ghi nhận tại Điều 4 BLTTDS năm 2015. Đáng chú ý là sự bổ sung khoản 2 Điều
luật này: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều
luật để áp dụng”, đây có thể nói là sự thay đổi quan trọng nhất của BLTTDS năm
2015 so với BLTTDS năm 2004 nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân,
quyền tiếp cận công lý của người dân được thực hiện. Chính vì vậy cách quy định của
BLTTDS năm 2015 khác so với BLTTDS năm 2004. Theo BLTTDS năm 2004, Tòa
án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khác về dân sự khác mà pháp luật có quy
định ngoài các tranh chấp được BLTTDS quy định. Điều này có nghĩa Tòa án chỉ có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khác về dân sự nếu có một văn bản pháp khác
đang có hiệu lực thi hành quy định vụ việc đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. Khác với điều này, các điều khoản quét cuối cùng của các Điều 26, 28, 30, 32
BLTTDS năm 2015 quy định “… trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ
chức khác theo quy định của pháp luật”, điều này có nghĩa, Tòa án chỉ có quyền từ
chối thụ ý giải quyết các tranh chấp dân sự khi pháp luật quy định thuộc thẩm quyền
của cơ quan, tổ chức khác.2
Ví dụ: Về việc xác định Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất trong việc giải
quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Trước đây khi Luật Đất đai năm 2013

chưa có hiệu lực thì tranh chấp quyền sử dụng đất sẽ được giải quyết theo hướng dựa
trên việc có hay không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm căn cứ giải
quyết các tranh chấp về đất đai. Nói cách khác, nếu chủ thể có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất hoặc các giấy tờ hợp lệ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm
2013 thì Tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục TTDS. Ngược lại, nếu chủ thể không có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ hợp lệ không được khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết mà phải giải quyết ở UBND nơi có đất đang tranh chấp. Hiện
nay, khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thì đối với đất không có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ hợp lệ, các đương sự có quyền lựa chọn TAND
hoặc UBND là nơi giải quyết tranh chấp. Quy định như vậy có phần hợp lý hơn bởi
có như vậy mới đảm bảo được quyền tiếp cận công lý của công dân.
2.2.

Thẩm quyền của Tòa án các cấp

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 quy định về hệ thống tổ
chức Tòa án thì TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
2 Nguyễn Thị Hương – Khởi kiện và thụ lý VADS- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nà Nội.

4


đối với các VADS. Do vậy, việc xác định đúng thẩm quyền của Tòa án theo cấp chỉnh
là việc xác định xem đối với một VADS cụ thể TAND cấp huyện hay TAND cấp tỉnh
sẽ có thẩm quyền giải quyết. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp được quy
định tại Điều 35, 37 BLTTDS năm 2015 dựa trên tính chất phức tạp của từng loại vụ
việc, dựa vào điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực tế của đội
ngũ cán bộ Tòa án.
Theo đó, thẩm quyền của Tòa án cấp huyện hiện nay được quy định tại

BLTTDS năm 2015 như sau: Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại
Điều 26 và điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 Bộ
luật này. Tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật
này. Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 Bộ luật này. Những tranh chấp trên
mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy tác tư pháp cho cơ quan đại
diện của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền của
Tòa án cấp huyện. Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 35 “Tòa án nhân dân cấp huyện nơi
cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn,
các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con,…”, trường hợp
này xuất hiện yếu tố đương sự ở nước ngoài nhưng vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án
cấp huyện. Thực chất, đây không phải vấn đề mới được đề cập đến trong BLTTDS
năm 2015 mà khi xây dựng BLTTDS năm 2015 các nhà làm luật đã kế thừa quy định
của khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP1 nhằm hoàn thiện quy định về
các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Theo Điều 37 BLTTDS năm 2015, thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo loại việc trừ tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Có thể nhận thấy thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện và cấp tỉnh được phân định rõ ràng, tránh tình trạng vượt cấp hay thụ lý nhầm.
Các chủ thể khi khởi kiện cần nắm rõ những quy định này để xác định tranh chấp của
mình là tranh chấp gì, thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp nào như vậy mới có thể gửi
đơn khởi kiện đến đúng Tòa án đúng cấp có thẩm quyền giải quyết, từ đó giúp tiết
kiệm thời gian, công sức trong việc đi kiện.
2.3.

Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

Xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải căn cứ vào Điều 39 và
Điều 40 BLTTDS năm 2015.
Đối với tranh chấp mà đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ có Tòa án

nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Đối với các tranh chấp này, các bên
đương sự không có quyền thỏa thuận về việc yêu cầu Tòa án nơi không có bất động
sản giải quyết.
Đối với tranh chấp không phải bất động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải
quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc nơi bị đơn có trụ sở. Đối với tranh
chấp này, các bên có quyền thỏa thuận chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hay có trụ
5


sở giải quyết hoặc đối với trường hợp theo Điều 40 BLTTDS năm 2015 (quy định về
thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn) thì nguyên đơn có quyền
lựa chọn Tòa án giải quyết. Sự thỏa thuận của các đương sự phải bằng văn bản và
phải phù hợp với quy định của pháp luật. Văn bản thỏa thuận phải được nộp cho Tòa
án cùng với đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ khác để làm căn cứ xác định thẩm
quyền theo lãnh thổ của Tòa án.
Kiểm tra điều kiện về thẩm quyền của Tòa án, Thẩm phán cần đối chiếu với
địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đối tượng tranh
chấp được trình bày trong nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ người khởi
kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện.
3. Điều kiện về thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu
Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu
thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu
ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của
thời hiệu.
Nhằm tránh một chế định do hai bộ luật cùng quy định, về thời hiệu khởi kiện
đã được quy định trong BLDS năm 2015 cho nên BLTTDS năm 2015 quy định thời
hiệu khởi kiện được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu khi có yêu cầu áp dụng thời hiệu của
một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án

cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp
dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó
nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
BLTTDS năm 2015 đã có bước đột phá hết sức quan trọng, ngoài việc xác định
thời hiệu khởi kiện không phải là điều kiện để thụ lý vụ án dân sự. Như vậy, theo quy
định mới này, trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết, Tòa án vẫn giải quyết vụ án bình
thường. Nếu đương sự yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản
án, quyết định giải quyết vụ việc, mà xét thấy thời hiệu khởi kiện đã hết, thì Tòa án
đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 217 BLTTDS năm 2015). Quyền khởi kiện là quyền
cơ bản của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự và Tòa án luôn có trách nhiệm
phải thụ lý đơn khởi kiện và không được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để từ
chối thụ lý đơn khởi kiện khi có yêu cầu.
4. Điều kiện về hình thức đơn khởi kiện
Ở Việt Nam, người khởi kiện phải thực hiện quyền khởi kiện thông qua đơn
khởi kiện được làm theo đúng mẫu quy định và gửi đến Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ án bằng các phương thức do pháp luật quy định. Hình thức, nội dung đơn
khởi kiện được quy định tại Điều 189 BLTTDS năm và Điều 5 Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục
6


giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi,
bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
5. Điều kiện liên quan đến sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc
đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhưng người khởi kiện có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật
TTDS.
Để đảm bảo việc thực hiện bản án, quyết định, điểm c khoản 1 Điều 192
BLTTDS năm 2015 quy định nếu vụ án dân sự đã được giải quyết bằng bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật thì các đương sự không được quyền khởi kiện nữa, trừ
một số trường hợp sau đây:
Trường hợp Tòa án đã bác đơn yêu cầu ly hôn của người chồng yêu cầu ly hôn
vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý lại
vụ án yêu cầu ly hôn của người chồng khi đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy định
tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Trường hợp bản án, quyết định về ly hôn có giải quyết quan hệ về con, mức
cấp dưỡng. Sau khi bản án, quyết định này có hiệu lực pháp luật, nếu điều kiện nuôi
con thay đổi, thì người bố hoặc mẹ có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu thay đổi
người nuôi con. Hoặc nếu có yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng thì các bên có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong các vụ án bồi thường thiệt hại, đương sự có thể khởi kiện lại yêu cầu
Tòa án xem xét lại mức bồi thường.
Trong vụ án, đương sự yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người
quản lý di sản, thày đổi người giám hộ.
Vụ án đòi tải sản cho thuê, cho mượn; đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ
mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi
kiện lại.
Ngoài ra, trường hợp Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 bao gồm: Người khởi kiện rút toàn
bộ yêu cầu khởi kiện; nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì theo quy định tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS năm 2015 đương sự có quyền
khởi kiện lại.
Do vậy, Tòa án chỉ được giải quyết những việc trước đó chưa được giải quyết
bằng bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp được quyền khởi kiện lại. Điều
kiện này nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của pháp luật, khi xác định
điều kiện của các quan hệ xã hội. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, khi xác định
điều kiện này Tòa án phải căn cứ vào các tài liệu do đương sự cung cấp về quá trình
xảy ra tranh chấp để xác định sự việc đã giải quyết hay chưa.

7


6. Điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí
Tạm ứng án phí là khoản tiền mà người khởi kiện có nghĩa vụ phải nọp để Tòa
án thụ lý giải quyết vụ án. Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi người khởi kiện xuất trình biên
lai tạm nộp án phí dân sự sơ thẩm. Nếu người khởi kiện không nộp hoặc nộp không
đủ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm thì Tòa án không thụ lý vụ án. Qua kiểm tra đơn khởi
kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, xác định được người khởi kiện đã đáp ứng
đầy đủ các điều kiện nêu trên, Thẩm phán tiến hành thông báo nộp tạm ứng án phí sơ
thẩm cho người người khởi kiện biết (trừ trường hợp họ được miễn nộp tiền tạm ứng
án phí hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí) để họ làm thủ tục nộp tiền tạm ứng
án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Để xác định người khởi kiện có phải nộp tiền tạm ứng án phí cũng như mức
tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện phải nộp, Thẩm phán cần phải căn cứ vào nội
dung tranh chấp, yêu cầu của người khởi kiện cũng như các quy định của pháp luật về
án phí, cụ thể là Điều 143, 146, 147 BLTTDS năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án để yêu cầu người khởi kiện nọp tạm ứng án phí theo quy định.
Thông thường Tòa án căn cứ vào đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu
độc lập và các tài liệu, chứng cứ kèm theo để xác định số tiền tạm ứng án phí mà
đương sự phải nộp. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng xác định được
số tiền tạm ứng án phí cụ thể trên cơ sở tài liệu của đương sự nọp cho Tòa án, nhất là
các tranh chấp tài sản cần xác định giá trị.
Sau khi xác định nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và dự tính số tiền
tạm ứng án phí, Thẩm phán ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp
tiền tạm ứng án phí (khoản 2 Điều 195 BLTTDS năm 2015). Như vậy là cùng với
thông báo nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải có phiếu báo ghi số tiền tạm
ứng án phí để người khởi kiện làm căn cứ nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc
nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí tại cơ quan thi
hành án và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.
Đối với trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng thì thời gian do
có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng
án phí (điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015). Trở ngại khách quan “là
những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, dịch họa, nhu cầu
chiến đấu, phục vụ chiến đấu”. “Bất khả kháng” là sự kiện xảy ra một cách khách
quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Ví dụ: do ốm đau, tai nạn phải điều trị
tại bệnh viện... nằm ngoài tầm kiểm soát của người khởi kiện nên họ không thể thực
hiện được việc nộp tiền tạm ứng án phí.

8


III.

ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ VỤ ÁN
DÂN SỰ

1. Về điều kiện thẩm quyền theo cấp và theo lãnh thổ của Tòa án
Thẩm quyền theo cấp và theo lãnh thổ của Tòa án hiện nay được quy định từ
Điều 35 đến Điều 40 BLTTTDS năm 2015. Về cơ bản, các quy định này đã đáp ứng
được yêu cầu cải cách tư pháp và có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung để phù hợp với
Luật Tổ chức Tòa án và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên thực tiễn
cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập về quy định thẩm quyền theo cấp và theo
lãnh thổ của Tòa án. Cụ thể:
Thứ nhất, về quy định thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.

Thực tiễn giải quyết các VADS cho thấy, các vụ án chia thừa kế quyền sử dụng
đất, tranh chấp quyền sử dụng đất, đòi lại, ly hôn, chia tài sản chung, tranh chấp
quyền sử hữu, hợp đồng... đương sự yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện chiếm tỷ lệ
tương đối lớn. Với quy định tại Điều 34 BLTTDS hiện hành và Luật Tố tụng hành
chính thì Tòa án cấp huyện không có thẩm quyền thụ lý, giải quyết VADS có liên
quan đến việc hủy quyết định hành chính cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch
UBND cấp huyện mà thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của TAND cấp tỉnh. Theo
quy định của BLTTDS năm 2015, TAND cấp tỉnh phải thụ lý, giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm các VADS, sơ thẩm các VADS có tính chất phức tạp đồng thời phải thụ lý,
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những VADS thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện
nhưng có yêu cầu, xem xét liên quan đến việc hủy các quyết định cá biệt nêu trên sẽ
dẫn đến quá tải trong việc thụ lý, giải quyết VADS của TAND cấp tỉnh. Điều này dẫn
đến sự bất hợp lý trong phân định thẩm quyền theo cấp của TAND các cấp và dường
như đi ngược lại với yêu cầu tăng thẩm quyền của TAND cấp huyện, một trong những
nội dung quan trọng của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Để giải quyết tình
trạng bất hợp lý, quá tải trong thụ lý, giải quyết VADS của TAND cấp tỉnh có thể dẫn
đến tình trạng án quá hạn, tồn động án. Tại Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19
tháng 9 năm 2016 của TANDTC giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, TTDS
đã đưa ra giải pháp tình thế hướng dẫn thẩm quyền theo cấp của Tòa án trong thụ lý,
giải quyết VADS có xem xét đến việc hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện,
Chủ tịch UBND cấp huyện. Theo nội dung hướng dẫn của Công văn số 02, thẩm
quyền theo cấp của Tòa án xác định theo hai trường hợp sau:
+ Trường hợp việc xem xét hủy quyết định hành chính cá biệt dẫn đến thay
đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định tương ứng của của Luật tố tụng hành
chính về thẩm quyền của TAND cấp tỉnh thì TAND cấp huyện đang thụ lý giải quyết
vụ việc dân sự phải chuyển vụ việc cho TAND cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy
quyết định đó.

9



+ Trường hợp không cần thiết phải hủy quyết định cá biệt và việc không hủy
quyết định đó vẫn bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án đang thụ lý
vẫn tiếp tục giải quyết.
Như vậy, theo nội dung hướng dẫn trên, nếu người khởi kiện có yêu cầu hủy
quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trong đơn khởi
kiện thì Tòa án cấp huyện có thẩm quyền thụ lý VADS. Tòa án cấp huyện sau khi thụ
lý vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, xác minh, thu thập chứng cứ xác định chính
xác phải hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện
mới phải chuyển vụ việc cho TAND cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy quyết
định.Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng công văn của TANDTC không phải là văn bản quy
phạm pháp luật, chỉ có ý nghĩa để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình
thụ lý, giải quyết VADS. Mặt khác, việc xem xét có hủy hay không hủy quyết định
hành chính cá biệt phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của Thẩm phán. Có thể cùng
một quyết định và các tài liệu, chứng cứ thu thập được, có Thẩm phán cho rằng cần
thiết phải hủy quyết định hành chính cá biệt mới giải quyết vụ án được chính xác và
triệt để, nhưng Thẩm phán khác cho rằng không cần thiết phải hủy quyết định... Vì
vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, có căn cứ pháp lý, TANDTC cần thiết
phải ban hành nghị quyết hướng dẫn về vấn đề này
Thứ hai, quy định về tiêu chí xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án
theo nơi cư trú, làm việc, có trụ sở của bị đơn chưa cụ thể, rõ ràng.
Theo Điều 40 BLDS năm 2015 thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó
thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được nơi thường xuyên sinh
sống thì nơi cư trú là nơi người đó đang sống. Tuy nhiên, điều luật cũng như trong các
quy định khác của BLDS không đưa ra bất kỳ hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn về thế
nào là "nơi thường xuyên sinh sống". Còn theo quy định tại Điều 12 Luật Cư trú thì
nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Theo quy định này thì khó
có thể xác định được nơi cư trú của cá nhân nếu trong trường hợp họ vừa có nơi đăng
ký thường trú, vừa có nơi đăng ký tạm trú. Trên thực tế, khi đời sống giao lưu kinh tế

xã hội phát triển sâu rộng, việc một cá nhân có đăng ký thường trú tại một nơi và sinh
sống, làm việc, đăng ký tại nơi khác không còn là hiện tượng hiếm gặp. Trong trường
hợp này, nơi cư trú của họ được xác định theo nơi nào để từ đó xác định thẩm quyền
theo lãnh thổ của Tòa án trong trường hợp có tranh chấp là điều không dễ và sẽ dẫn
đến vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, hạn chế, bất cập và vướng mắc về xác định thẩm quyền theo lãnh thổ
của Tòa án khi giải quyết các tranh chấp thừa kế.
Theo Điều 39 BLTTDS năm 2015, nếu đối tượng của vụ án tranh chấp thừa kế
là bất động sản thì Tòa án nơi có bất động sản hoặc phần lớn bất động sản sẽ có thẩm
quyền giải quyết. Tuy nhiên, các tranh chấp thừa kế là một trong những loại tranh
chấp đặc thù, di sản thừa kế do người chết để lại có thể bao gồm cả động sản và bất
động sản nên việc xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết dựa trên tiêu chí nào là
vấn đề còn vướng mắc. Trước đây, khoản 4 Điều 8 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP
ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất "Những
10


quy định chung" của BLTTDS năm 2011 rong vụ án về hôn nhân và gia đình, thừa kế
tài sản...mà có tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được
xác định theo nơi cư trú, làm việc của bị đơn hoặc Tòa án nơi cư trú của nguyên đơn
(nếu các bên có thỏa thuận). Hướng dẫn này là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 35
BLTTDS năm 2011.
Khi điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 quy định: "Đối tượng tranh
chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết",
TANDTC đã ban hành Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 7/4/2017 nhưng chỉ
hướng dẫn xác định thẩm quyền theo lãnh thổ đối với vụ án về hôn nhân và gia đình
mà có tranh chấp về bất động sản mà không đề cập đến trường hợp thừa kế tài sản là
bất động sản. Như vậy, việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ đối với các tranh chấp
thừa kế nếu theo pháp luật dân sự cũng sẽ gặp vướng mắc bởi nhiều trường hợp nơi
cư trú của bị đơn, nguyên đơn và nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nơi có

toàn bộ hoặc phần lớn di sản là khác nhau nên việc xác định thẩm quyền tương đối
khó khăn. Còn nếu xác định theo đường lối Tòa án nơi có bất động sản giải quyết như
quy định của BLTTDS cũng gặp bất cập trong trường hợp di sản thừa kế vừa có bất
động sản, vừa có động sản. Do đó, để khắc phục hạn chế, bất cập này, trước mắt
TANDTC cần sớm có hướng dẫn về nội dung này. Về lâu dài, phải tiếp tục nghiên
cứu và sửa đổi, bổ sung quy định của BLTTDS về thẩm quyền của Tòa án về thừa kế.
Nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp TTDS một số nước cho thấy, thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp về thừa kế của Tòa án được quy định riêng bởi một điều luật trong
BLTTDS và theo hướng Tòa án nơi mở thừa kế có thẩm quyền giải quyết.
2. Về điều kiện nộp tiền tạm ứng án phí.
Theo quy định của pháp luật TTDS, Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi người khởi
kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn
hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả
kháng. Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện nếu người khởi kiện không đáp ứng điều kiện
này. Do đó, khi xem xét các điều kiện thụ lý vụ án, ngoài việc nghiên cứu quy định về
thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong BLTTDS, Thẩm phán còn phải nghiên cứu các
quy định pháp luật khác có liên quan như Luật Phí và lệ phí Tòa án, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để
yêu cầu người khởi kiện nộp tạm ứng án phí theo quy định. Qua việc nghiên cứu cho
thấy, các quy định về nộp tiền tạm ứng án phí trong BLTTDS năm 2015 là tương đối
đầy đủ và hoàn thiện.
KẾT LUẬN
Thụ lý VADS là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp
dân sự. Những quy định về thụ lý VADS có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nếu được
quy định đầy đủ, chi tiết, rõ ràng sẽ giúp cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
11


luật tố tụng dân sự thực hiện pháp luật có hiệu quả, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội

chủ nghĩa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2015
2. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015
3. Bộ luật Lao động 2012
4. Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công ân nhân dân
5. Nguyễn Thị Hương – Khởi kiện và thụ lý VADS – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
6. Đinh Thị Thu Hương – Thụ lý VADS theo trình tự sơ thẩm trong tố tụng
dân sự Việt Nam, Luận án Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Khoa Luật.
7. Trần Anh Tuấn (2018), Tiêu chí xác định thẩm quyền dân sự của Tòa án
theo lãnh thổ trong quy định của BLTTDS năm 2015, Kỷ yếu hội thảo:
Những quy định chung của BLTTDS năm 2015

12



×