Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Ths XDDCQNN nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường của thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.4 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
1.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
PHƯỜNG.............................................................................................................................................7
2.2. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM..............................................................48
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................82

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đảng ta khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng của đất nước và chế độ, là khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng. Như vậy, trong tất cả các giai đoạn cách
mạng cán bộ, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị (HTCT) và thắng lợi của cách mạng. Mỗi giai
đoạn cách mạng cần có đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng tốt, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ, điều này phụ thuộc và được quyết định bởi công tác cán bộ.
Phường là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Đội ngũ
công chức ở phường có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã xác định: xây dựng đội ngũ cán bộ ở
cơ sở xã, phường, thị trấn là một trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập
trung giải quyết, trong đó yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực
tổ chức vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham
nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi
dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.


1


Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, phường, thị
trấn nói chung và đội ngũ cán bộ công chức phường nói riêng đã có bước phát
triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ những yếu kém, bất cập
về kiến thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ
mới. Vì vậy, một số cán bộ gặp khó khăn, lúng túng, thậm chí va vấp, vi phạm
trong thực thi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, một bộ phận công chức cấp phường suy thoái về phẩm chất đạo đức,
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí... bị kỷ
luật, thậm chí bị truy tố, xét xử theo pháp luật. Những điều đó đã làm ảnh hưởng
không nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải đổi
mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ công chức ở
phường.
Trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh luôn
khẳng định vai trò là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của
cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba
vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước và cũng là vùng động lực cho công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn Nam Bộ và cả nước theo chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên,
đòi hỏi thành phố Hồ Chí Minh phải có một đội ngũ cán bộ công chức nói
chung, đội ngũ công chức cấp phường nói riêng vững mạnh, có phẩm chất,
năng lực, phương pháp, phong cách công tác tốt, nhạy bén, năng động, đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của tình hình mới.
Trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
kinh tế, đội ngũ cán bộ công chức phường trên địa bàn thành phố còn bộc lộ
những hạn chế, yếu kém về năng lực, trình độ, hiệu quả quản lý nhà nước ở
cấp cơ sở… Còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu sâu để từ đó đề ra

những giải pháp thiết thực góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã, phường trong giai đoạn sắp tới. Chính vì những lý do trên

2


mà đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường của
Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ là một đề tài phù hợp và mang tính ứng dụng
vào thực tiễn cao sau khi được hoàn thiện. Vì điều kiện thời gian hạn chế và
tiếp cận số liệu, khảo sát thực tế, bản thân em đặt trọng tâm và giới hạn đề tài
trong phạm vi đội ngũ cán bộ công chức phường.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nói chung và
cán bộ ở cấp cơ sở nói riêng đã có rất nhiều công trình, bài báo, sách, đề tài
nghiên cứu khoa học đề cập đến. Năm 2002, Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã ban hành Nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn. Năm 2013, Ban chấp hành Trung ương ban hành kết
luận về tiếp tục đổi mới hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ s ở.
Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần
thứ IX đề ra 6 chương trình đột phá trong đó có chương trình nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị thành phố. Sau 3 năm triển khai
thực hiện, thành phố đã có báo cáo đánh giá kết quả thực hiện trong đó có đánh
giá về chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức xã, phường, thị trấn.
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, khảo sát, tổng
kết về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đã được triển khai tiêu biểu là các đề
tài: KX.01-BĐ-03 năm 1998 của Ban Tổ chức Trung ương: Điều tra thực
trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; Đề tài KHĐB(2004)09 về “Nâng cao phẩm chất, năng lực của người cán bộ đứng đầu tổ chức
đảng và chính quyền cấp cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa
IX”. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề lý
luận chung liên quan đến công tác cán bộ trong tổng thể hoạt động xây dựng

hệ thống chính trị, tổ chức đảng các cấp, xây dựng đội ngũ đảng viên, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở… Ngoài ra, còn có kết quả nghiên cứu,
đánh giá, khảo sát thực tiễn về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của nhiều

3


nước trên thế giới cũng cung cấp những kinh nghiệm về công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ trong điều kiện mới. Năm 2013 UBND tỉnh Đồng Tháp có đề
án “Nâng cao năng lực cán bộ, công chức chính quyền xã, phường, thị trấn
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng đến năm
2020”.
- Th.S Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên:Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
- GS.TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ
cán bộ cơ sở, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002;
- PGS Hà Quang Ngọc: Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: Thực trạng
vàgiải pháp,Tạp chí Cộng sản số 2/1999;
- Nguyễn Duy Hùng, Vũ Văn Phúc (năm 2012), Phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng
đội ngũ cán bộ công chức cấp phường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,
đề tàiđưa ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức phường đủ số lượng, chất lượng, đồng bộ
về cơ cấu, có năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức, đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ chính trị, phục vụ có hiệu quả cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức phường, chất lượng công chức phường của thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn hiện nay.

4


- Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
phường của thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giái pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức phường của thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường của Thành phố
Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức phường của Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến nay và đề xuất
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
phường của Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường của Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng. Luận văn có kế thừa những kết quả nghiên cứu lý luận của các công
trình khoa học đã công bố.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng
thời sử dụng các phương pháp chuyên ngành và liên ngành: lôgíc - lịch sử,
phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, điều tra, thống kê, so sánh, chuyên gia.
6. Đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Đóng góp của luận văn

5


- Làm sáng tỏ thêm về lý luận chất lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức phường của Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất những phương hướng, những giải pháp chủ yếu nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường của Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
giảng dạy ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện cho đội ngũ cán bộ
công chức cấp xã, phường, thị trấn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liêu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

6


Chương 1
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BÔ,
CÔNG CHỨC PHƯỜNG CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


1.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH VÀ CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ PHƯỜNG
1.1.1. Đặc điểm của các phường ở thành phố Hồ Chí Minh
*Điều kiện tự nhiên:
Thành phố Hồ Chí Minh có tổng diện tích tự nhiên 2.093,7 km 2. Khu
vực nội thành gồm 12 quận: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Phú Nhuận, Bình Thạnh,
Gò Vấp và Tân Bình; với diện tích 140,3 km 2 (6,7% tổng diện tích tự nhiên
thành phố). Khu vực nội thành mở rộng, gồm 7 quận mới: 2, 9, 7, 12, Thủ
Đức, Tân Phú và Bình Tân; với diện tích 353,7 km2 (16,9% tổng diện tích tự
nhiên thành phố và rộng gấp 2,5 lần nội thành). Trong đó có 322 đơn vị hành
chính cấp xã, bao gồm 259 phường, 58 xã và 5 thị trấn.
Thành phố Hồ Chí Minh với địa bàn đa dạng, nằm trong vùng chuyển
tiếp giữa miền Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình tổng
quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây và chia thành
3 tiểu vùng với quỹ đất nông nghiệp hạn chế độ phì nhiêu kém trong đó có
trên 50% là đất nhiễm phèn, mặn và 20% là đất xám, đồi gò, bạc màu; là đầu
mối giao thông lớn, nối liền với các tỉnh trong vùng Nam Bộ, Nam Trung bộ
và Tây nguyên; là cửa ngõ của cả nước với quốc tế, có bờ biển ở phía Nam
huyện Cần Giờ dài 20 km.
*Tình hình kinh tế - xã hội:
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt
Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam nhưng
7


chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trịsản xuất công nghiệp và 34,9%
dự án nước ngoài. Vào năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.966.400 lao
động có độ tuổi từ 15 trở lên, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao
động nhưng vẫn đang tham gia làm việc. Năm 2008, lực tượng lao động có độ
tuổi từ 15 trở lên trên địa bàn thành phố gồm có 3.856.500 người, năm 2009

là 3.868.500 người, năm 2010 đạt 3.909.100 người, nhưng đến 2011 còn số
này đạt 4.000.900 người. Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2012, GDP đạt
404.720 tỷ đồng, tăng khoảng 8,7%. Năm 2012, GDP đạt khoảng 9,2%, trong
đó khu vực dịch vụ đạt khoảng 10,8%, công nghiệp vàxây dựng đạt khoảng
9,2%, nông lâm và thủy sản đạt 5%. GDP bình quân đầu người đạt
3.700 USD. Thu ngân sách năm 2012 ước đạt 215.975 tỷ đồng, nếu không
tính ghi thu chi là 207.000 tỷ đồng, đạt 92,42% dự toán, bằng 105,40% so với
cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa đạt 109.500 tỷ đồng, bằng 88,81% dự toán, thu
từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 70.000 tỷ đồng, bằng 88,72% dự toán.
Bên cạnh đó Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã
trình Hội đồng nhân dân Thành phố 29 chỉ tiêu về kinh tế và xã hội trong năm
2013, đặt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người năm 2013. Trong đó có một
số chỉ tiêu kinh tế gồm có GDP bình quân đầu ngườiđạt khoảng 4.000
USD/người, tổng sản phẩm trong nước (GDP) dự kiến tăng 9,5-10%, tốc độ
kim ngạch xuất khẩu là 13%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dự kiến
khoảng 248.500-255.000 tỷ đồng, bằng 36-37% GDP, chỉ số giá tiêu dùng
thấp hơn tốc độ tăng của cả nước
Là một trong hai trung tâm truyền thông của Việt Nam, Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay có 38 đơn vị báo chí thành phố và 113 văn phòng đại diện
báo chí trung ương và các tỉnh, 3 nhà xuất bản của thành phố và 21 chi nhánh
nhà xuất bản trung ương cùng mạng lưới thông tấn xã, các đài phát thanh,
truyền hình địa phương và trung ương. Tổng cộng, trên địa bàn thành phố
hiện nay có trên một nghìn người hoạt động trong lĩnh vực báo chí.

8


Toàn Thành phố Hồ Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng người
nước ngoài sinh sống. Trong đó, nhiều nhất là người Kinh có 6.699.124
người, các dân tộc khác như người Hoa có 414.045 người, người Khmer có

24.268 người, người Chăm 7.819 người, người Tày có 4.514 người,người
Mường 3.462 người, ít nhất là người La Hủ chỉ có 1 người
1.1.2. Chính quyền cơ sở Phường
Chính quyền cơ sở liên quan trực tiếp đến việc quản lý, điều hành các
hoạt động kinh tế - xã hội cũng như mọi mặt đời sống của nhân dân, nên tổ
chức bộ máy và phương thức hoạt động phải hướng vào phục vụ dân, sát với
nhân dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của
chính quyền cơ sở. Chính quyền cơ sở có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở; thực hiện việc quản lý nhà nước
trên địa bàn theo thẩm quyền được giao; hướng dẫn và giám sát các hoạt động
tự quản của dân, tạo thuận lợi cho dân và doanh nghiệp kinh doanh theo pháp
luật. Cấp trên phân cấp rành mạch cả nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và
phương tiện thực hiện cho chính quyền cấp cơ sở trong việc thu, chi ngân
sách, sắp xếp và quản lý cán bộ, công chức, quản lý đất đai, quản lý hộ tịch,
quản lý các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách và vốn huy động trong dân,
quản lý cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hóa phục vụ cho nhân dân trong
xã, phường, thị trấn. Chính quyền cấp cơ sở được cấp trên ủy quyền thực hiện
trên địa bàn việc thu một số loại thuế, quản lý tài nguyên, thực hiện chính
sách xã hội bằng kinh phí ngân sách, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Chính quyền địa phương ở Việt Nam được gọi là Ủy ban Nhân dân, bao gồm
các cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã, phường, thị trấn (dưới đây gọi chung là cấp
phường). Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và

9



cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Điều 114 Hiến pháp năm 2013). Ủy
ban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước
hoạt động thường xuyên ở địa phương, thực hiện việc chỉ đạo, điều hành hàng
ngày công việc hành chính nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân cấp
phường là chính quyền của các đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn.
Chính quyền phường không quản lý toàn diện các hoạt động sản xuất, đời
sống dân cư trên địa bàn như chính quyền xã, thị trấn, song có nhiệm vụ rất
quan trọng trong quản lý đô thị, đặc biệt trong việc quản lý thực hiện quy
hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, hộ tịch, vệ sinh môi trường, trật tự đô thị. Khu
phố hoặc tổ dân phố (tổ chức dưới phường) là địa bàn quan trọng để phát huy
các hình thức tự quản của cộng động dân cư như giúp đỡ nhau sản xuất, giảm
nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, phòng chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật
tự, vệ sinh, môi trường,…Khu phố, tổ dân phố không phải là một cấp hành
chính; trưởng khu phố hoặc tổ trưởng dân phố do dân trực tiếp bầu vừa là
người đại diện cho dân vừa là người đại diện cho chính quyền phường để thực
hiện một số nhiệm vụ hành chính tại phường.
Chính quyền cơ sở là cầu nối, là nơi giao lưu trực tiếp giữa Nhà nước
và nhân dân, đồng thời cấp cơ sở là nơi biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất
những ưu việt hay hạn chế của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy: “Cấp xã là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được thì mọi việc đều xong xuôi”. Chính vì vậy, chất lượng hoạt động
của chính quyền cấp cơ sở ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, lòng tin của nhân
dân với Đảng và Nhà nước. Chính quyền cơ sở là nơi thể hiện tính hiệu lực,
hiệu quả của chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Đây là nơi trực tiếp thực thi, kiểm nghiệm và phản ánh tính hiệu lực,
hiệu quả của hệ thống thể chế, chính sách. Do đó, chất lượng của hệ thống thể
chế chính sách phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ
sở.

10



Chính quyền cơ sở trực tiếp quản lý các hoạt động kinh tế xã hội của
địa phương. Những vấn đề của địa phương mà chính quyền cơ sở có thẩm
quyền giải quyết thì chính quyền cơ sở đại diện cho nhân dân địa phương trực
tiếp giải quyết. Chính quyền cơ sở là nơi thể hiện đồng thời phản ánh tâm tư
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân địa phương. Mọi chủ trương, đường lối,
chính sách đều được xuất phát từ cơ sở và hướng về cơ sở. Không ai khác
ngoài chính quyền cơ sở hiểu rõ và đảm nhận vai trò thu thập, phản ánh tâm
tư nguyện vọng của nhân dân địa phương; đồng thời giúp Nhà nước đề ra các
biện pháp tổ chức, quản lý phù hợp với đặc điểm của một địa phương, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân địa phương.
Ủy ban nhân dân phường là cấp chính quyền cơ sở gần dân nhất. Ủy ban
nhân dân phường có từ 4 đến 5 thành viên, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, 1
ủy viên quân sự và 1 ủy viên công an. Người đứng đầu Ủy ban nhân dân
phường là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân phường đồng thời là một Phó Bí thư Đảng ủy của phường đó. Bộ máy giúp
việc của Ủy ban nhân dân phường có các công chức sau đây: Trưởng Công an;
Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị
và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây
dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn
hóa - xã hội. Công chức cấp phường do cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh quản lý (theo Điều 61 chương V Luật cán bộ công chức).
Ngoài ra cấp phường còn có từ 19 đến 22 người hoạt động không chuyên
trách (không đề cập trong phạm vi đề tài này).
1.2. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – QUAN NIỆM,
VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
1.2.1. Quan niệm và những yếu tố ảnh hường đến việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường ở thành phố Hồ Chí Minh


11


1.2.1.1. Quan niệm
* Cán bộ và cán bộ phường:
Theo Điều 4 Luật cán bộ công chức đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11
năm 2008
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ cấp phường là cán bộ giữ chức vụ bầu cử theo nhiệm kỳ ở cấp
phường, gồm bí thư, phó bí thư đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân
dân (nơi có hội đồng nhân dân); chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ
tịch ủy ban mặt trận tổ quốc, bí thư đoàn thanh niên, chủ tịch hội liên hiệp
phụ nữ, chủ tịch hội nông dân (nơi có tổ chức hội nông dân), chủ tịch hội cựu
chiến binh.
* Công chức và công chức phường:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức

trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được

12


bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật.
Công chức cấp phường công chức giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp phường, trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước bao gồm các chức danh: trưởng công an, chỉ huy
trưởng quân sự, văn phòng thống kê, địa chính xây dựng và môi trường, tài
chính kế toán, tư pháp hộ tịch, văn hóa xã hội.
*Khái niệm về xây dựng đội ngũ cán bộ:
Xây dựng đội ngũ cán bộ là việc định đường lối, chính sách cán bộ; đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp, quản lý, sử dụng cán bộ. Nó liên quan chặt chẽ
với đường lối, nhiệm vụ chính trị, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ chế và phương
hức công tác. Nó phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm và phương pháp công tác
cán bộ.
* Chất lượng cán bộ công chức phường
Chất lượng cán bộ, công chức không hoàn toàn giống với chất lượng
của các loại hàng hoá, dịch vụ, bởi con người là một thực thể phức tạp.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, công chức có chất lượng thì
phải hội đủ các tiêu chuẩn đức và tài, phẩm chất và năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt trong đó phẩm chất,
đạo đức là yếu tố hàng đầu. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải luôn rèn
luyện người cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, vừa hồng và vừa chuyên.
Người luôn quan tâm, động viên và dìu dắt đội ngũ cán bộ, đảng viên để họ
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô
tư. Đặt chữ “Đức” lên hàng đầu, nhưng Bác Hồ vẫn luôn coi trọng cái “Tài”.
Người nhìn nhận “Đức” và “Tài” trong mối quan hệ biện chứng, như hai mặt

không thể tách rời trong một nhân cách hoàn thiện: “Có tài mà không có đức
là người vô dụng”, nhưng “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.

13


Theo đó, chất lượng cán bộ, công chức ở đây được xem xét một cách
toàn diện từ trình độ, năng lực; kỹ năng, phương pháp làm việc; hiệu quả thực
thi công vụ; phẩm chất, đạo đức cán bộ, công chức; văn hoá ứng xử cho đến
sức khoẻ (thể chất, tâm lý) của họ. Trong đó, yếu tố trình độ, yếu tố hiệu quả
thực thi công vụ và yếu tố phẩm chất, đạo đức cán bộ, công chức được xem là
quan trọng nhất để xem xét chất lượng cán bộ, công chức. Có thể hiểu rõ hơn
khái niệm về chất lượng cán bộ, công chức phường qua việc tìm hiểu các hình
thức biểu hiện chất lượng cán bộ công chức cấp cơ sở dưới đây.
* Quan niệm về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường
ở thành phố Hồ Chí Minh:
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường ở thành phố Hồ
Chí Minh là mọi hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở nhằm tác
động vào từng cán bộ, công chức phường, để nâng cao chất lượng từng cán
bộ, công chức phường nhằm để có đội ngũ cán bộ, công chức ở thành phồ Hồ
Chí minh có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, cơ cấu đồng bộ đảm đương và
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
1.2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ công chức
phường
* Công tác tuyển dụng
Tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên trong quy trình quản lý công
chức, có tính quyết định cho sự phát triển một cơ quan, tổ chức, đơn vị của
nhà nước. Trong quá trình vận hành của nền công vụ, việc tuyển dụng được
những công chức giỏi thì nhất định nền công vụ sẽ hoạt động đạt kết quả cao
hơn vì công chức nhà nước là nhân tố quyết định đến sự vận hành của một

nền công vụ, như Bác Hồ đã từng nói: “cán bộ là gốc của mọi công việc”. Cơ
chế tuyển dụng, bổ nhiệm công chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc của
cơ quan. Cán bộ, công chức phải có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được tiêu

14


chuẩn chuyên môn nghiệp vụ. Công tác tuyển dụng, bổ nhiệm ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả công tác của công chức. Vì vậy, khi tuyển dụng phải đảm
bảo tính dân chủ, công khai, chú ý đến việc sắp xếp sao cho “đúng lúc, đúng
người, đúng việc, đúng ngành nghề, đúng sở trường” thì mới phát huy năng
lực công tác của từng công chức. Nếu công tác tuyển dụng thực hiện không
tốt sẽ làm cho những cá nhân có trình độ năng lực bất mãn, không muốn phấn
đấu vươn lên. Mặt khác, những công chức không có năng lực mà phải đảm
nhiệm công việc quá sức mình thì hiệu quả công việc không cao. Vì vậy, công
tác tuyển dụng phải được thực hiện một cách chặc chẽ bằng hình thức thi
tuyển, xét tuyển; đồng thời dựa trên thời gian công tác, đổ tuổi, học vấn, trình
độ, năng lực, kinh nghiệm chuyên môn…
*Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo bồi dưỡng công chức là quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng
về chuyên môn, nghiệp vụ dưới các hình thức khác nhau cho công chức phù
hợp với yêu cầu giải quyết có chất lượng công việc được giao. Năng lực của
công chức phụ thuộc vào lượng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ đã được
trang bị. Chính vì vậy chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng ảnh hưởng lớn
đến chất lượng công chức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa công chức
là “công việc gốc” của chính quyền cơ sở. Phải kịp thời đào tạo đội ngũ công
chức có đủ phẩm chất và năng lực, vừa có đức, vừa có tài, mà đức là gốc. Chú
trọng bồi dưỡng đào tạo cả về chính trị lẫn chuyên môn. Vì vậy công tác đào
tạo, bồi dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công chức trong thời kỳ mới.
Nếu làm tốt công tác này thì sẽ tạo ra một đội ngũ công chức có thể thích ứng

với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Ngược lại nếu công tác này không được quan
tâm đầu tư thì trình độ năng lực của công chức sẽ bị tụt hậu. Điều này đồng
nghĩa với hiệu quả công việc không cao và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, đến các hoạt động của cơ quan trong thời kì mới.
* Công tác luân chuyển, sắp xếp công tác

15


Công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm nhiều nội dung,
công việc với các khâu: tuyển dụng, sử dụng, bố trí, giám sát, đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, sử dụng, thực hiện chính sách chế độ
đối với cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và
trọng dụng, đãi ngộ nhân tài, thu hút nhân tài vào nền công vụ. Trong các nội
dung này, có những khâu theo trình tự, nhưng cũng có những khâu tiến hành
song song, đan xen nhau, có quan hệ tương hỗ với nhau.... Tuy nhiên, khâu
luân chuyển, sắp xếp công tác cho công chức là nhiệm vụ đòi hỏi lãnh đạo
quản lý cần phải xem xét nhiều khía cạnh, đánh giá đúng công chức để luân
chuyển, sắp xếp cho phù hợp với nhiệm vụ công tác. Vì nếu luân chuyển một
công chức không phù hợp, có thể dẫn đến tình trạng cục bộ trong cơ quan,
đơn vị; nếu luân chuyển, sắp xếp công tác đúng theo quy định, phù hợp với
khả năng làm việc của công chức và nhu cầu của đơn vị sẽ giúp công chức
phát huy sáng tạo, tích cực góp phần nâng cao hiệu quả trong công việc được
giao, phát huy đoàn kết trong cơ quan, đơn vị. Do đó, khi luân chuyển, sắp
xếp công tác đòi hỏi công tác quản lý, kiểm tra, giám sát công chức về các
mặt nhận thức tư tưởng, năng lực công tác, các mối quan hệ xã hội, đạo đức,
lối sống…. Vì mỗi công chức có hoàn cảnh công tác, mối quan hệ xã hội khác
nhau. Tuy nhiên nếu làm tốt công tác này thông qua các hình thức kiểm tra,
giám sát, đánh giácông chức thì sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức.

* Chế độ đãi ngộ
Chế độ đãi ngộ bao gồm chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đối
với công chức. Trong cơ chế thị trường hiện nay thì chế độ, chính sách ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ công chức. Thực tế cho thấy khi thu
nhập của con người không tương xứng với công sức của họ bỏ ra hoặc không
có chế độ chính sách đãi ngộ thoả đáng ngoài tiền lương đối với công chức
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao thì họ dễ sinh ra chán nản, thiếu

16


trách nhiệm với công việc, thậm chí có khi còn là nguyên nhân dẫn đến các tệ
nạn như tham nhũng, hối lộ. Vì vậy nếu chế độ tiền lương là hình thức đầu tư
trực tiếp cho con người, đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội thì chắc chắn sẽ
góp phần nâng cao chất lượng công chức. Khen thưởng là biện pháp nhằm
kích thích về tinh thần và vật chất đối với công chức nhà nước, phát huy tinh
thần chủ động sáng tạo, tận tâm, tận tụy của công chức đối với nhiệm vụ được
giao. Khen thưởng là sự đánh giá chính thức của nhà nước và xã hội đối với
kết quả hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Đây là một biện pháp tích
cực mang tính thuyết phục cao nhằm tạo ra sự thi đua, cạnh tranh giữa các
công chức và nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức.
*Tự rèn luyện của cán bộ, công chức phường
Nhu cầu tự hoàn thiện bản thân, năng lực con người nói chung và đội
ngũ công chức nói riêng luôn có nhu cầu hoàn thiện bản thân mình, mong
muốn và cố gắng nhận thức thế giới được nhiều hơn, tạo cho mình các năng
lực, kỹ năng làm việc và sử dụng nó một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, mỗi công chức có khả năng tiếp thu kiến thức khác nhau xuất phát từ
năng lực thể chất và hoàn cảnh lịch sử, điều kiện khác nhau. Đây là yếu tố
quan trọng để bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức.
1.2.2. Vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của cán bộ công chức

phường và tiêu chí đánh giá
1.2.2.1 Vị trí, vai trò cán bộ công chức phường
Cấp phường là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà
nước Việt Nam, là nền tảng của hệ thống chính trị. Cấp phường giữ một vai
trò, vị trí hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách,
pháp luật và nhiệm vụ cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến
đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân. Qua từng thời
kỳ lịch sử, chính quyền cấp phường không ngừng được xây dựng và củng cố,
bảo đảm cho chính quyền nhà nước vững mạnh từ cơ sở. Đội ngũ công chức
17


là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố chính quyền
phường vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính quyền vững
mạnh thì phải xây dựng đội ngũcông chức có đủ năng lực và phẩm chất để
thực hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm rất cụ thể, cán bộ là "người
đem đường lối chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
được rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng". Cán bộ là lực
lượng nòng cốt của Đảng và Nhà nước làm nhiệm vụ triển khai, hướng dẫn, tổ
chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước trong hoạt động
thực tiễn; là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX
khẳng định: "xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo
việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp
dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và
đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở". Đại hội X của Đảng tiếp tục đề ra
mục tiêu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo

đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo
có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức
kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể gắn bó với
nhân dân dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải
đồng bộ có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý”.
Ở thời điểm hiện tại và trong chặng đường sắp tới, trước yêu cầu nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới đất nước; yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

18


trước những âm mưu của các thế lực thù địch; yêu cầu củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc... công
tác cán bộ càng trở nên vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, một trong những
nội dung trọng tâm của công tác cán bộ đó là nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ công chức. Chất lượng đội ngũ công chức được hình thành bằng nhiều con
đường khác nhau, trong đó con đường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng là yếu tố
chính không thể thiếu. Vì vậy, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công
chức trước hết phải được bắt đầu từ việc chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng,
công chức, trong đó vấn đề chất lượng đào tạo, bồi dưỡng là điều kiện quan
trọng góp phần thực hiện thắng lợi công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức nói
chung, đặc biệt là đội ngũ công chức phường nói riêng vì đây là những người
gần dân nhất, thực hiện những nhiệm vụ chính trị tại cơ sở, nơi mà đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được triển khai.
Công vụ là loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà
nước, thực hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống, nhằm bảo đảm an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội; quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài sản

chung và ngân sách nhà nước; phát triển và ổn định nền kinh tế xã hội; bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhân danh quyền lực Nhà nước,
phục vụ nhân dân, thực hiện lý tưởng phụng sự Tổ quốc và lòng tự hào của
người công chức được hoạt động trong nền công vụ đất nước. Người công
chức trong bộ máy hành chính nhà nước cấp phường được trao quyền để thực
thi công vụ, đồng thời họ có bổn phận phục vụ xã hội, công dân và chịu sự
ràng buộc nhất định do liên quan đến chức trách đang đảm nhiệm. Họ có thể
phải từ chức, bị truy cứu hoặc phải bồi thường thiệt hại nếu không hoàn thành
trách nhiệm, sai phạm do quyết định hành chính làm tổn hại lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức ở cấp phường.
Công chức phường là yếu tố cơ bản cấu thành nền hành chính nhà nước
cấp phường, thông qua hoạt động của công chức các chức năng và nhiệm vụ

19


của nhà nước mới được thực hiện, cơ quan nhà nước không thể hình thành và
hoạt động nếu không có công chức. Do vậy công chức phường đóng vai trò
then chốt trong việc đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đến với dân, trực tiếp chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, là
những người trực tiếp, chủ yếu góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương,
đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước tại địa phương; trực
tiếp tiếp xúc với người dân, có vai trò trong việc hướng dẫn nhân dân thực
hiện các chủ trương, đường lối của Nhà nước theo đúng pháp luật; công chức
phường là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân phường, bảo đảm sự ổn định phát
triển xã hội phát triển kinh tế văn hóa xã hội, y tế, giáo dục, giao thông – vận
tải, an ninh quốc phòng, vì vậy công chức phường là người chủ động nghiên
cứu, đề xuất tham mưu thực hiện nhiều chính sách, giải pháp mới mang tính
đột phá sáng tạo về cải cách hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ hành

chính công của địa phương; là người trực tiếp hay gián tiếp tác động tới
quyền, tự do, lợi ích công dân hay cả cộng đồng, kịp thời phát hiện và xử lý
những hành vi vi phạm pháp luật nhằm giữ gìn kỷ cương, trật tự tại cơ sở, tạo
lòng tin của người dân vào chính quyền và cơ quan quản lý Nhà nước nơi
mình đang sinh sống và lao động; động viên nhân dân tham gia vào hoạt động
quản lý nhà nước, thúc đẩy mọi người hoàn thành tốt các nghĩa vụ đối với
Nhà nước và xã hội; là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chính
trị ở cơ sở bảo đảm thắng lợi mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết chủ trương của cấp trên.
Cán bộ, công chức cấp cơ sở là một bộ phận không thể thiếu trong đội
ngũ cán bộ, công chức nước ta. Mọi hoạt động của chính quyền cơ sở đều do
cán bộ, công chức cấp cơ sở thực hiện. Đảng ta luôn coi cán bộ có vai trò
quyết định đối với sự nghiệp cách mạng. Nghị quyết hội nghị Trung ương 3
(khoá VII) khẳng định trong công cuộc đổi mới đất nước thì: “Cán bộ cũng có
vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới.
20


Cán bộ nói chung có vai trò rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí
nền tảng cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong thực tế. Pháp luật của
Nhà nước có được thực thi tốt hay không, có hiệu quả hay không hiệu quả
một phần quyết định là ở cơ sở. Cấp cơ sở trực tiếp gắn với quần chúng; tạo
dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã, phường, thị trấn mạnh hay
yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ xã,
phường, thị trấn”. Do địa bàn hoạt động, tính chất công việc và nhiệm vụ
được giao nên người cán bộ, công chức cấp cơ sở phải thường xuyên tiếp xúc
với nhân dân để triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước cũng như trực tiếp lắng nghe, tìm hiểu tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân địa phương. Như vậy, cán bộ, công chức cấp cơ sở

là mắt xích, là chất keo gắn kết nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Thực tiễn cho thấy rằng đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò cực kỳ quan
trọng. Nơi nào quan tâm đầy đủ và làm tốt công tác cán bộ, có đội ngũ cán bộ
cơ sở vững mạnh thì nơi ấy tình hình chính trị xã hội ổn định, kinh tế, văn hoá
phát triển, quốc phòng an ninh được giữ vững, cán bộ được dân tin, mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai có kết quả. Ngược
lại, ở đâu đội ngũ cán bộ cơ sở không được quan tâm, đội ngũ cán bộ không
đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, có những biểu hiện về tham ô, tham nhũng,
lãng phí, hống hách, cửa quyền với dân thì ở đó tình hình sẽ gặp khó khăn
thậm chí còn bị kẻ xấu kích động, gây rối trở thành những điểm nóng phức
tạp, kéo dài. Đội ngũ cán bộ cơ sở cần thiết và có vai trò quan trọng như vậy
nhưng không phải tự nhiên mà có. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ cơ
sở tuỳ thuộc vào quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tự rèn luyện
một cách chủ động sáng tạo của từng cá nhân và các cấp bộ Đảng, chính
quyền đoàn thể. Quan điểm này được thể hiện rõ trong các nghị quyết của
Đảng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh: “Dành kinh

21


phí thoả đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở, chú ý kiện
toàn và tăng cường đội ngũ cán bộ cốt cán”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX tiếp tục khẳng định: “Tăng cường cán bộ cho cơ sở, có chế độ chínhsách
đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn để họ hoạt
động ngày càng hiệu quả góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”. Do đó, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền
cấp cơ sở thì trước hết phải nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán
bộ, công chức chính quyền cấp cơ sở. Họ không những chỉ cần có nhiệt tình
cách mạng, có phẩm chất đạo đức tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực công tác để hoàn thành nhiệm vụ Đảng,

Nhà nước và nhân dân giao phó. Vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp cơ sở vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong
sạch về lối sống, trong đó nâng cao trình độ của đội ngũ này để họ có trí tuệ,
kiến thức và năng lực hoạt động thực là yếu tố quyết định của việc nâng cao
chất lượng đội ngũ này.
1.2.2.2. Chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức phường
1. Chức trách, nhiệm vụ của cán bộ phường: (Theo Quyết định
số04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ)
* Bí thư, Phó Bí thư, Thường trực Đảng uỷ phường:
- Chức trách: là cán bộ chuyên trách công tác đảng ởđảng bộphườngcó
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
đảng bộ, cùng tập thể đảng uỷ lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị ở
cơ sở trong việc thực hiện đường lỗi, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước trên địa bànphường.
- Nhiệm vụ của Bí thư:
+ Nắm vững Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và đường lối,chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết vàchỉ thị của cấp trên

22


và chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ cấp mình; nắm vững nhiệm vụ trọng
tâm, giải quyết có hiệu quả công việc đột xuất; nắm chắc và sát tình hình đảng
bộ, tổ chức đảng trực thuộc và của nhân dân trên địa bàn; chịu trách nhiệm
chủ yếu về các mặt công tác của đảng bộ.
+ Chủ trì cuộc họp của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ vàchỉ đạo việc
chuẩn bị xây dựng nghị quyết của đảng bộ, của Ban Chấp hành, Ban Thường
vụ và tổ chức chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nghị quyết đó.
+ Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo,chỉ đạo hoạt
động và giữ vai trò trung tâm đoàn kết giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối

với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở phường.
+ Lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
cấp trên, của đảng bộ, của Ban Chấp hành và Ban Thườngvụ Đảng uỷ.
- Nhiệm vụ của Phó Bí thư, Thường trực Đảng uỷ:
+ Giúp Bí thư đảng bộ chuẩn bị nội dung các cuộc họp và dự thảo nghị
quyết của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ về các mặt công táccủa Đảng bộ.
+ Tổ chức việc thông tin tình hình và chủ trương củaBan chấp hành, Ban
thường vụ cho các Uỷ viên Ban chấp hành và tổ chức đảng trực thuộc.
+ Tổ chức kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên,
của Ban Chấp hành và Ban Thường vụ.
* Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông
dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh:
- Chức trách: là cán bộ chuyên trách đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở phường; chịu trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của điều lệ
của tổ chức đoàn thể, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước.
23


- Nhiệm vụ:
+ Chuẩn bị nội dung, triệu tập và chủ trì các kỳ họpcủa tổ chức mình.
+ Cùng tập thể Ban Thường trực (Uỷ ban Mặt trận Tổquốc), Ban Thường
trực (4 tổ chức đoàn thể) xây dựng chương trình kế hoạchcông tác, hướng dẫn
hoạt động đối với Ban Công tác Mặt trận, các chi hội đoàn thể ởkhu phố, tổ
dân phố.
+ Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể cùng cấp vận động, hướng dẫn
cán bộ, đoàn viên, hội viên tổ chức mình, các tầng lớp nhân dân tham gia thực
hiện các chương trình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, hiệp thương bầu

cử xây dựng chính quyền, thực hiện quy chế dân chủtại phường và các phong
trào thi đua của tổ chức mình theo chương trình, nghị quyết của tổ chức chính
trị - xã hội cấp trên tương ứng đề ra.
+ Tổ chức, chỉ đạo việc học tập chủ trương, đườnglối, chính sách của
Đảng và pháp luật Nhà nước; các chủ trương, nghị quyết đối với đoàn viên,
hội viên của tổ chức mình.
+ Chỉ đạo việc lập kế hoạch kinh phí, chấp hành, quyết toán kinh phí
hoạt động và quyết định việc phân bổ kinh phí hoạt động doNhà nước cấp đối
với tổ chức mình.
+ Tham mưu đối với cấp uỷ Đảng phườngtrong việc xây dựng đội ngũ
cán bộ của tổ chức mình.
+ Bám sát hoạt động các phong trào, định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá
và báo cáo với cấp uỷ cùng cấp và các tổ chức đoànthể cấp trên về hoạt động
của tổ chức mình.
+ Chỉ đạo việc xây dựng quy chế hoạt động của ban thường vụ, ban chấp
hành cấp cơ sở tổ chức mình; chỉ đạo hoạt động của ban thường vụ, ban chấp
hành đảm bảo theo đúng quy chế đã xây dựng.

24


2. Chức trách nhiệm vụ của công chức phường (theo Thông tư số
06/2012/TT-BNV ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về
chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường,
thị trấn).
- Chức trách:
Công chức phườnglàm công tác chuyên môn thuộc biên chế của ủy ban
nhân dân cấp phường, có trách nhiệm tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp
phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được
phân công và thực hiện các nhiệm vụ khác do chủ tịch ủy ban nhân dân cấp

phường giao.
- Nhiệm vụ:
Trưởng Công an phường: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân phường tổ
chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân phường trong lĩnh
vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về công an
phường và các văn bản có liên quan của cơ quan có thẩm quyền. Thực hiện
các nhiệm vụ khác do chủ tịch ủy ban nhân dân phường giao.
Chỉ huy trưởng Quân sự: Tham mưu, giúp ủy ban nhân dân phường tổ
chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân cấp phường trong
lĩnh vực quốc phòng, quân sự trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Trực
tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về dân quân tự vệ,
quốc phòng toàn dân, nghĩa vụ quân sự và các văn bản có liên quan của cơ
quan có thẩm quyền. Thực hiện các nhiệm vụ khác do chủ tịch ủy ban nhân
dân cấp phường giao.
Công chức Văn phòng - Thống kê: Tham mưu, giúp ủy ban nhân dân
phường tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân cấp
phường trong các lĩnh vực: văn phòng, thống kê, tổ chức, nhân sự, thi đua,

25


×