Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

THS XDDCQNN QUẬN ủy HAI bà TRƯNG, THÀNH PHỐ hà nội LÃNH đạo CÔNG tác GIÁO dục đạo đức hồ CHÍ MINH CHO cán bộ, ĐẢNG VIÊN TRÊN địa bàn QUẬN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.99 KB, 96 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) là người con ưu tú nhất của dân
tộc Việt Nam và là một vĩ nhân của thời đại. Cả cuộc đời và sự nghiệp cách
mạng của Người là tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa u nước chân chính,
tinh thần quốc tế vơ sản, và một nhân cách đạo đức cao đẹp.
Tư tưởng đạo đức của Người ln giữ vai trị quan trọng trong nền tảng
tinh thần xã hội và trở thành nguồn động lực sức mạnh tinh thần to lớn để
toàn Đảng, toàn dân ta phát huy nội lực, vượt qua mọi khó khăn thách thức,
tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đất nước ta sau gần 30 năm tiến hành đối mới đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, nhưng cũng phải đương đầu
với vơ vàn khó khăn, thách thức. Đó là bốn nguy cơ: tụt hậu về kinh tế; chệch
hướng XHCN; quan liêu, tham nhũng và những âm mưu “diễn biến hồ bình"
của các thế lực thù địch trong nước và quốc tế. Đặc biệt là mặt tiêu cực của
nền kinh tế thị trường đang từng ngày, từng giờ gặm nhấm, làm mai một, bào
mòn các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc diễn ra trên mọi lĩnh vực,
mọi tầng lớp xã hội: đó là tình trạng vi phạm đạo đức kinh doanh (lạm dụng
hocmon tăng trưởng độc hại trong chăn nuôi, trồng trọt; sản xuất, buôn bán
hàng giả, thực phẩm giả, thuốc chữa bệnh giả ...gây hại cho sức khoẻ con
người; gian lận thương mại hàng loạt; ô nhiễm môi trường tràn lan…); đó là
thái độ bàng quan, làm ngơ, thiếu trách nhiệm của một bộ phận dân chúng với
cuộc sống cộng đồng; đó là sự suy đồi đạo đức của một bộ phận thanh thiếu
niên khiến cho tình hình bạo lực học đường, tội phạm vị thành viên gia tăng...
đặc biệt, có một nguy cơ bên trong, tiềm ẩn đe dọa trực tiếp tới sự tồn vong
của Đảng, của dân tộc đó chính là sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang diễn ra với tính chất và mức độ ngày càng
phức tạp ở nhiều tổ chức cơ sở Đảng ở nước ta, trong đó quận Hai Bà Trưng
cũng khơng ngoại lệ: đó là sự yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; tính




2

chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình; một bộ phận chưa thể
hiện vai trị tiền phong gương mẫu, cịn nói nhiều làm ít, hoặc nói nhưng
khơng làm, trung bình chủ nghĩa, thờ ơ, vơ cảm và thiếu trách nhiệm trước
những vụ việc tiêu cực, muốn làm theo cách cũ, không chịu đổi mới; bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân, tình thương u đồng chí trong Đảng giảm sút; tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy vị trí cơng tác, chạy tội, chạy bằng cấp...
cịn xảy ra ở nhiều nơi; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, làm suy giảm lịng tin của nhân dân đối với Đảng…
Trong lúc đó, công tác kiểm tra, giám sát đảng viên nhiều nơi còn thiếu
chặt chẽ; cấp uỷ, chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm chất đạo
đức của đảng viên, nhất là những đảng viên hoạt động phân tán, cơng tác ở
nơi xa... Nhiều đảng viên có khuyết điểm, vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật
của Nhà nước nhưng tổ chức đảng không biết, hoặc phát hiện chậm; việc giáo
dục, xử lý đối với đảng viên vi phạm ở nhiều nơi thiếu kịp thời và chưa
nghiêm túc. Trình độ năng lực của một bộ phận không nhỏ đảng viên, nhất là
đảng viên giữ chức vụ trong Đảng, chính quyền, đồn thể cấp xã, phường cịn
thấp; cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên gặp nhiều khó khăn, chất
lượng hạn chế; tư tưởng cục bộ địa phương, dòng họ còn nặng. Trong các đơn
vị sự nghiệp, nhiều đảng viên còn thờ ơ, chưa coi trọng việc học tập lý luận
chính trị. Nhiều đảng viên trong các doanh nghiệp, nhất là ở các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước chỉ quan tâm, chú ý đến sản xuất kinh doanh, lợi ích
kinh tế, chưa quan tâm đúng mức đến cơng tác xây dựng Đảng, phát huy vai
trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên…
Trước yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình mới, Hội
nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã quyết định triển khai
chỉ đạo điểm cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh" trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đúc rút kinh nghiệm để tiến hành
cuộc vận động lớn trong toàn Đảng về vấn đề này sau Đại hội X của Đảng.
Đây là một chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình


3

hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua đợt làm điểm ở một số cơ
quan Trung ương và địa phương, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội X của Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong tồn Đảng,
tồn dân từ Chỉ thị 06-CT/TW ngày 07/11/2007 của Ban chấp hành Trung
Ương. Tiếp đó, ngày 14/5/2011, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương
khóa XI đã ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW "Về tiếp tục đẩy mạnh học tập và
làm theo tấm gương đạo đức hồ Chí Minh". Tuy mới chính thức được phát
động trong thời gian 7 năm song cuộc vận động thật sự có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn vơ cùng sâu sắc đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên của các tổ chức cơ sở Đảng trong cả nước nói chung cũng
như quận Hai Bà Trưng nói riêng.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi đã quyết định lựa chọn
đề tài cho luận văn thạc sỹ ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước
là: “QUẬN ỦY HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN HIỆN NAY”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục đạo đức cách mạng, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ,
đảng viên ln là một chủ đề được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Với
tinh thần khiêm tốn học hỏi, tác giả của luận văn xin phép được kế thừa, tiếp thu

những thành tựu của các nhà khoa học, lấy đó làm những gợi ý quan trọng để
phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hồn thiện luận văn của mình.
2.1. Sách chuyên khảo
- Tác giả: Phạm Ngọc Anh và Hoàng Trang đồng chủ biên, tác phẩm
"Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục cán bộ, đảng viên hiện
nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
Cuốn sách được tập thể tác giả do PGS, TS. Phạm Ngọc Anh và PGS, TS.
Hoàng Trang đồng chủ biên đã đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở
hình thành, đặc điểm, vị trí và những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ


4

Chí Minh. Từ đó khẳng định giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ cách mạng đời sau.
Nội dung cuốn sách cũng tập trung làm rõ điểm khác biệt về nội dung,
bản chất và giá trị của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với chủ nghĩa nhân
văn của giai cấp tư sản. Nếu như tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lấy triết học
Mác – Lênin và chủ nghĩa cộng sản khoa học làm cơ sở lý luận với bản chất
giải phóng hồn tồn con người thốt khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất cơng thì
chủ nghĩa nhân văn tư sản lấy chủ nghĩa cá nhân và hệ tư tưởng tư sản làm cơ
sở lý luận cho lý tưởng nhân văn của họ với bản chất chống lại con người bị
áp bức, bóc lột. Chính vì thế, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một bước
tiến so với hệ tư tưởng nhân đạo tư sản trong vấn đề giải phóng con người
khỏi áp bức, bóc lộc.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn hành động với
các nội dung biểu hiện như: Tình yêu thương, quý trọng quan tâm đến con
người và quan niệm về bản chất tốt đẹp của con người; Quan niệm về vai trò
và sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong quá trình phát triển lịch sử trong tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; Tin tưởng ở con người, tin ở nhân dân, đấu

tranh giải phóng con người và vì hạnh phúc của nhân dân và Tinh thần khoan
dung Hồ Chí Minh. Thế giới sẽ thay đổi nhưng tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh với những giá trị cách mạng, khoa học và tiến bộ sẽ còn sống mãi. Đẩy
mạnh giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên là một
yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới hiện nay. Trên cơ sở phân tích tình
hình và bối cảnh mới, các tác giả cuốn sách cũng đã chỉ ra phương hướng, nội
dung và các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên
theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
- Tác giả: Hồng Chí Bảo, tác phẩm "Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh",
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
Nội dung cuốn sách gồm tập hợp một số bài viết, bài nói về văn hóa
đạo đức Hồ Chí Minh của GS, TS. Hồng Chí Bảo – một chuyên gia nghiên
cứu về tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Qua đó, tác giả khẳng định văn hóa
đạo đức Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu về văn hóa đạo đức; học tập, làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người là chúng ta học tập cách hành xử


5

trong lối sống, nếp sinh hoạt, với con người với cơng việc với thiên nhiên của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, cuốn sách cũng đề cập tới giá trị và ý nghĩa của hai tác phẩm
cuối đời của Bác là "Sửa đổi lề lối làm việc" và "Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Hai tác phẩm này càng là minh chứng
sinh động về tư tưởng, triết lý, phương pháp thực hành đạo đức của Người.
- Tác giả: Thành Duy, tác phẩm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức",
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Tác phẩm đã chỉ ra giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối
với việc giáo dục đạo đức cho con người trong chế độ xã hội mới, đồng thời
nhấn mạnh quan điểm của Đảng xác định tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là

nền tảng đạo đức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, việc giáo dục rèn
luyện đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay.
- Tác giả: Vũ Khiêu, tác phẩm "Hồ Chí Minh ngơi sao sáng mãi trên
bầu trời Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.
Cuốn sách "Hồ Chí Minh ngơi sao sáng mãi trên bầu trời Việt
Nam" của Giáo sư, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới Vũ Khiêu là một cơng
trình chun khảo tập hợp những kết quả nghiên cứu công phu trong nhiều
năm cũng như những trải nghiệm của Giáo sư Vũ Khiêu về cuộc đời, sự
nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tư
tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là những tư tưởng lớn, được coi là điểm nhấn của
cuốn sách. Nội dung chính của cuốn sách gồm năm phần: Hồ Chí Minh qua
cuộc hành trình tìm đường cứu nước; Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức; Hồ
Chí Minh với vấn đề văn hóa và con người; Hồ Chí Minh với các vấn đề nghệ
thuật và tơn giáo; Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sĩ. Kèm theo là một số
văn bia, hoành phi, câu đối, bài tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các anh
hùng, liệt sĩ.
Thơng qua nguồn tư liệu phong phú, được chắt lọc, văn phong trong
sáng, giản dị mà sâu sắc, cuốn sách đã mang lại cho người đọc những cảm
nhận mới về con người, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều bình
diện: q khứ và hiện tại, truyền thống và hiện đại, lịch sử và văn hóa, triết lý


6

nhân sinh, nghệ thuật, thẩm mỹ, từ đó thấy rõ hơn tầm vóc, ảnh hưởng và giá
trị nhiều mặt của nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh đối với dân tộc và thời đại.
- Tác giả: Nguyễn Chí Mỳ, tác phẩm "Sự biến đổi của thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ
quản lý ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.

Cuốn sách của PGS, TS Nguyễn Chí Mỳ đã phân tích, đánh giá một
cách sắc bén thực trạng về sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trước tác
động của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra hết sức
phức tạp. Các bậc thang giá trị đạo đức đang bị đảo lộn. Những cái tiêu cực,
cái xấu, cái đáng lên án cũng đang xâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp
xã hội đặc biệt là đang từng ngày, từng giờ làm phai mờ lý tưởng, thối hóa
đạo đức của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên... và cuộc đấu tranh
giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống lành mạnh, trung thực, có lý
tưởng, có tinh thần bảo vệ và xây đựng đất nước... với lối sống sa đọa, ích kỷ,
thực dụng, bạo lực; giữa cái thiện và cái ác vẫn đang diễn ra không ngừng.
Cuốn sách nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho người cán bộ, đảng viên trước những thời cơ và thách thức mới.
2.2. Tài liệu, báo chí
- Tác giả: Hà Đăng, bài viết "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư", Báo điện tử Tạp chí
Cộng sản, số ra ngày 19/12/2008;
- Tác giả: Đoàn Thế Hanh, bài viết "Để việc học và làm theo tấm
gương Bác trong những năm tới có chất lượng, hiệu quả", Báo điện tử Tạp
chí Cộng sản, số ra ngày 30/12/2011;
- Tác giả: Ngô Minh Giang, bài viết "Nhận diện mặt suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống", Báo điện tử Tạp chí Xây dựng Đảng, số ra
ngày 06/9/2012;
- Tác giả: Nguyễn Thế Thắng, bài viết "Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
người cán bộ, đảng viên theo Di chúc Hồ Chí Minh", Báo điện tử Tạp chí Xây
dựng Đảng, số ra ngày 02/9/2009...
Tất cả các bài viết đều đi sâu phân tích những giá trị tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn; khẳng định vai trò to lớn của di sản


7


đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc vận dụng vào công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, dảng viên trong điều kiện hiện nay.
2.3. Các đề tài khoa học, luận án, luận văn
- Tác giả: Phạm Huy Kỳ, Luận án tiến sĩ triết học "Quan hệ cá nhân xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ quản lý lãnh đạo hiện nay", Hà Nội, 2001;
- Tác giả: Trương Thế Thắng, Luận văn Thạc sĩ triết học "Vấn đề xây
dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở
tỉnh Hà Giang hiện nay", 2003;
- Tác giả: Nguyễn Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ triết học "Vấn đề xây
dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh Đăk Lăk
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", 2003...
Có thể nói rằng các cơng trình nghiên cứu về đề tài với nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Thể hiện rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong điều kiện hiện nay; phân tích, đánh giá những yếu tố tác động và nhu
cầu đặt ra đối với công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Từ đó, đưa ra những kết luận, những giải pháp, phương hướng có
giá trị sâu sâu sắc cả về cơ sở lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những giá trị cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh được quận
ủy Hai Bà Trưng vận dụng vào công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên trên địa bàn quận hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ nội hàm một số khái niệm có liên quan đến đề tài luận văn;
- Khái quát những giá trị của di sản đạo đức Hồ Chí Minh, bao gồm các
quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo đức của Người;
- Đánh giá thực trạng cơng tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho cán

bộ, đảng viên của quận ủy Hai Bà Trưng những năm gần đây;


8

- Đề xuất một số phương hướng và biện pháp để nâng cao chất lượng
công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên quận Hai Bà
Trưng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong các bài viết, bài phát biểu,
các tác phẩm và hoạt động thực tiễn của Người.
- Thực trạng công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên quận của Quận ủy Hai Bà Trưng, Hà Nội hiện nay: thành tựu,
hạn chế, nguyên nhân, giải pháp...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về mặt không gian: Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho cán
bộ, đảng viên quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội (thông qua khảo sát số
liệu của một số đơn vị phường điển hình).
- Giới hạn về mặt thời gian: các số liệu thống kê được lấy từ công tác
giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội từ
năm 2007 đến năm 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên các nguyên tắc phương pháp luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức
cách mạng và giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong việc nghiên cứu là: thống
kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, lôgic - lịch sử. Đặc biệt, đề tài chú trọng

phương pháp liên ngành để tiếp cận một cách đầy đủ các vấn đề về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội của địa bàn nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài còn áp dụng
một số phương pháp khác như: phỏng vấn chuyên gia, khảo sát thực tiễn....
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
- Hệ thống hóa những giá trị cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh, khẳng
định tính phổ biến, sức hấp dẫn, lan tỏa của những giá trị đó đối với cách
mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Chỉ ra những biểu hiện hạn chế trong đời sống đạo đức của cán bộ,
đảng viên, từ đó đề xuất các giải pháp mang tính thực tiễn góp phần nâng cao


9

hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn
quận Hai Bà Trưng, Hà Nội phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế.
7. Ýnghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức Hồ
Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay.
- Luận văn không chỉ được áp dụng trong nghiên cứu, giảng dạy, trong
tuyên truyền giáo dục mà cịn có thể áp dụng như một nguồn tài liệu tham
khảo cho các nhà nghiên cứu sau này về cơng tác giáo dục đạo đức Hồ Chí
Minh cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề
tài được triển khai theo nội dung gồm 03 chương và 09 tiết:
Chương 1. Đảng lãnh đạo công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh
cho cán bộ, đảng viên - một số vấn đề lý luận.
Chương 2. Quận ủy Hai Bà Trưng, Hà Nội lãnh đạo cơng tác giáo

dục đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên của hiện nay - thực
trạng, nguyên nhân và một số bài học kinh nghiệm.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tăng cường sự lãnh đạo
của Quận ủy Hai Bà Trưng, Hà Nội đối với cơng tác giáo dục đạo đức Hồ
Chí Minh cho cán bộ, đảng viên.


10

CHƯƠNG 1

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói,
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lí” thường
xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là
lề thói; tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi nói đến đạo đức, tức là nói
đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và
người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này, người ta thường phân
biệt hai khái niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những
phạm trù quan trọng nhất của triết học trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con
đường, đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ

con đường của tự nhiên. Đạo cịn có nghĩa là con đường sống của con người
trong xã hội.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ
đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói
đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa,
là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi
người phải tuân theo.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm


11

điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau và quan hệ với xã hội; chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
1.1.2. Đạo đức cách mạng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức cách mạng chính
là đạo đức mới - đạo đức xã hội chủ nghĩa - đạo đức cộng sản. Đạo đức cộng
sản là nền đạo đức có giá trị phổ biến và nhân đạo. Theo V.I. Lênin, xét về
bản chất, đạo đức mới là những gì "góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc
lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô
sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản..." [35, tr. 369].
Đạo đức cộng sản biểu hiện sự sáng tạo mang tính quần chúng rộng rãi. Các
giá trị đạo đức cộng sản chủ nghĩa mang đầy ý nghĩa cao cả và vì con người.
Những giá trị ấy nói lên bản chất sáng tạo của trí tuệ, của ý thức danh dự, của
lòng dũng cảm và những phẩm chất cao quý của con người. Nền đạo đức ấy
vừa là sản phẩm của nền sản xuất xã hội đầy sáng tạo và nhân văn, vừa là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là: "Quyết tâm suốt
đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm
việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách
của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước
lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng,
vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao
tư tưởng và cải tiến cơng tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ". "Đạo
đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân", "ra sức phấn
đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung thành phục vụ giai cấp
công nhân và nông dân lao động, tuyệt đối không thể lưng chừng", "Đạo đức
cách mạng là vơ luận trong hồn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh,
chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu


12

khuất phục, không chịu cúi đầu"; "Đạo đức cách mạng là vơ luận trong hồn
cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu
khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá
nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng"; "Đạo đức cách mạng là hịa
mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lấy
nghe ý kiến của quần chúng..." [50, tr. 282-293]. Ở Hồ Chí Minh, khái niệm
đạo đức cách mạng được vận dụng một cách khá linh hoạt, mềm dẻo - điều
này phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể.
Xuất phát từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về đạo đức
cách mạng như sau:
Đạo đức cách mạng là đạo đức phản ánh thực tiễn cách mạng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động; là sự thống nhất hữu cơ giữa những
phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của người cách mạng; là

động lực thúc đẩy người cách mạng trong quá trình hoạt động cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
1.1.3. Đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh là di sản của sự kế thừa sâu sắc truyền thống văn
hóa dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại, trên cơ sở vận dụng và
phát triển một cách sáng tạo, có chọn lọc hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hướng tới những giá trị nhân văn
trong sáng, cao đẹp của con người.
Đạo đức Hồ Chí Minh khơng chỉ là tư tưởng về đạo đức cách mạng, mà
còn là thực tiễn đời sống đạo đức của Người. Tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh được thể hiện thông qua hoạt động, hành vi và lối sống, qua các mối
quan hệ với con người, với công việc, trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày.
Đạo đức Hồ Chí Minh chính là sự nhất qn giữa nói và làm, tính trung
thực và sự khiêm tốn; tính kiên định về nguyên tắc và niềm tin gắn liền với
tính linh hoạt và uyển chuyển trong phương pháp đối nhân xử thế; lòng dũng
cảm, sự sáng suốt, đức hy sinh và nghị lực phi thường vượt lên mọi khó khăn,
thử thách; sự ân cần, chu đáo, lòng khoan dung, độ lượng đầy tính nhân ái, vị


13

tha với con người; sự nhạy cảm và rất mực tinh tế đối với mỗi con người, mỗi
cảnh đời và những số phận khác nhau của họ.
1.1.4. Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lớn, một nhà mácxít sáng
tạo lớn của cách mạng Việt Nam. Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam một
di sản vô giá về tư tưởng và lý luận, về tấm gương đạo đức cao đẹp của người
chiến sỹ cộng sản chân chính.
Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh chính là phương thức thực hành tấm
gương đạo đức và lý luận tư tưởng của Người. Nói một cách cụ thể hơn thì:
Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh là phương thức và q trình chuyển tải

di sản đạo đức của Người vào sâu, rộng trong các tầng lớp, giai cấp xã hội,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tác động làm chuyển biến tích
cực nhận thức và hành động vừa góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
cách mạng, vừa hướng con người vươn tới những giá trị nhân văn cao đẹp.
1.2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một vĩ nhân, một
lănh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là
tấm gương đạo đức của một người bình thường, ai cũng có thể học theo, để
làm theo, để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt trong xã hội.
Tấm gương đạo đức của Người thể hiện tập trung trong các điểm sau:
1.2.1. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người và nhân loại
Ngay từ thủa thiếu thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ
ràng mục tiêu phấn đấu cho cả cuộc đời mình là "vì nước, vì dân". Trên con
đường thực hiện mục tiêu đó, Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian
nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực
hiện bằng được mục tiêu đó.
Sự kiên định mục tiêu phấn đấu trước sau như một trong suốt cuộc đời của
Người đã được nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới thừa nhận và kính phục.
Trong bức điện chia buồn gửi Đảng ta khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Đảng
Cộng sản Cuba viết: "Hiếm có một nhà lãnh đạo nào, trong những giờ phút thử


14

thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên định và dũng cảm một
cách phi thường như vậy".
1.2.2. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần
to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng

Cuộc đời Người là một chuỗi năm tháng đấu tranh vơ cùng gian khổ. Vượt
qua bao khó khăn, người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững
quan điểm, khí phách; bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Ngay trong
những hoàn cảnh bị tù đầy giam cầm, Người vẫn ln tự răn mình:
"Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao" [42, tr. 265].
1.2.3. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức
mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân
Hồ Chí Minh ln dành cho nhân dân một tình u bao la. Người cũng đặt
trọn vẹn niềm tin vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Người quan niệm Đảng
phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, người cán bộ, đảng viên phải là "người đầy tớ
trung thành của nhân dân".
1.2.4. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị
tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người
Trong tâm hồn Hồ Chí Minh chứa đựng một nhân cách lớn về lòng
nhân ái, khoan dung, nhân hậu khơng chỉ với đồng bào của mình mà còn đối
với nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Người nói "mỗi
người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau
khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tơi" [51,
tr. 560-561].
Nói về lịng nhân ái của Hồ Chí Minh, một trong những học trò xuất
sắc nhất của Người, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: "Những tư
tưởng lớn của Hồ Chủ tịch là những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chủ tịch, cũng như trong đời sống hàng ngày của mình, Hồ Chủ
tịch đối xử với người ln có lý, có tình. Bác Hồ mn vàn u thương đối
với đồng chí, đồng bào. Trong tình u đó, có chỗ cho mọi người, khơng qn



15

sót một ai và sắp xếp cho mỗi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng chu
đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc địi hỏi,
vừa thương u dìu dắt...Đối với kẻ lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn
rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đưa
con vì cảnh ngộ mà lạc bầy. Chúa Jêsus nói: gặp một người có lỗi mà hối cải
thì trên trời vui mừng hơn gặp 99 vị tu hành. Cụ Hồ nói rằng người Việt Nam
ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập; ta khéo nhen chút than
hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa..."...cảm động hơn nữa là lời nói của
Montaron viết trên báo Bằng chứng Thiên Chúa giáo của Pháp, rằng "Cụ Hồ
Chí Minh là một trong những chiến sỹ đầu tiên của thế giới thứ ba, của các
dân tộc nghèo đói thèm khát cuộc sống cho ra người. Cụ đã dạy họ rằng muốn
được giải phóng thì phải dựa vào sức mình là chính, và một dân tộc chỉ có thể
sống cịn khi mà dân tộc ấy không chịu sống nô lệ..."
1.2.5. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường
Chủ tịch Hồ Chí Minh sống cuộc đời thật sự vì nước, vì dân, thật sự
giản dị, trong sạch, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức
trang trọng. Người khác biệt hẳn với hầu hết các nhà lãnh đạo cách mạng khác
cả trong và ngoài nước. Năm 1924, khi V.I.Lênin từ trần, Hồ Chí Minh đã khẳng
định "các dân tộc phương Đơng sở dĩ kính mến Lênin vì vị thầy của cách mạng
giải phóng sinh tiền là một người khinh thường xa hoa, yêu lao động, đời tư
trong sáng, nếp sống giản dị". Năm 1925, khi mở lớp huấn luyện cán bộ đầu
tiên, Người đã đặt ra 23 điều tư cách người cách mạng lên trang đầu cuốn
"Đường cách mệnh".
Tuy là người lãnh đạo tối cao, được nhân dân kính mến nhưng đời sống của
Hồ Chí Minh lại rất bình thường, vơ cùng giản dị, khiêm tốn cũng như đức qn
mình vì mọi người. Nói về Người, Chủ tịch Allendé của Chilê nhận xét: "không bao
giờ chúng ta thấy sự giản dị và sự vĩ đại đi liền với nhau như vậy". Nhà lãnh đạo

M.Khali của Cộng hòa Ảrập Thống nhất khẳng định "thiên thần thoại của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là cuộc sống giản dị, khiêm tốn".


16

Cả dân tộc Việt Nam, và nhân dân thế giới đều biết đến bộ quần áo kaki sờn,
đôi dép cao su mịn, ngơi nhà sàn gỗ đơn sơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người
ln dặn dị cán bộ phải "ít lịng ham muốn vật chất, "khơng háo danh kiêu ngạo"
và cuộc đời Người đã hành động đúng như những điều mình nói. Trong Di chúc,
Người viết "sau khi tơi qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền
bạc của nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài tơi được đốt đi, nói chữ là "hỏa táng". Tôi
mong rằng cách "hỏa táng" dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người
sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại khơng tốn đất...Tro xương thì tìm một quả đồi mà
chơn. Trên mộ, nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những
người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi" [51, tr. 501-502].
Bao nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cao thượng tuyệt vời. Nhưng cũng chính từ sự
kết hợp của những đức tính đó, Người đã trở thành tấm gương cụ thể, gần gũi mà
mọi người đều có thể noi theo.
1.3. Đảng lãnh đạo cơng tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh
Trong hơn 3 năm thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW, ngày 27-3-2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng khố IX, tồn Đảng, tồn dân ta đã tổ chức đợt
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng của Người trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội
nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã quyết định triển khai chỉ
đạo điểm cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đúc rút kinh nghiệm để tiến hành
cuộc vận động lớn trong toàn Đảng về vấn đề này sau Đại hội X của Đảng.
Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua đợt làm điểm ở một số cơ

quan Trung ương và địa phương, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội X của Đảng, Bộ Chính trị quyết định tổ chức cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong tồn Đảng,
tồn dân từ ngày kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng (03-02-2007) tới hết nhiệm
kỳ Đại hội X của Đảng.


17

Ngày 14-5-2011 Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành
Chỉ thị số 03-CT/TW, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh đến năm 2015.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác giáo dục đạo
đức Hồ Chí Minh đã được cụ thể hố thành những nhiệm vụ cụ thể, phù hợp
với mọi lĩnh vực, mọi đối tượng thể hiện tập trung ở một số điểm sau đây:
1.3.1. Tiếp tục tổ chức học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh
Nội dung và phương thức thực hiện là: Các cấp ủy đảng tổ chức nghiên
cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh trong sinh hoạt thường xuyên của các chi bộ, đảng bộ (theo hướng
dẫn thống nhất của Ban Tuyên giáo Trung ương).
Trên cơ sở hướng dẫn chung của Ban Tuyên giáo Trung ương, các cấp
ủy chủ động xây dựng nội dung nghiên cứu, học tập sát hợp với ngành, địa
phương, đơn vị, cơ quan mình, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
quan hệ với nhân dân, đồng chí, đồng nghiệp. Tuyên truyền rộng rãi về các
nội dung học tập trên các phương tiện thông tin đại chúng.
1.3.2. Tiếp tục xây dựng và thực hiện những chuẩn mực đạo đức theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phù hợp với đặc điểm hoạt
động của từng ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trong giai đoạn hiện nay
Nội dung và phương thức thực hiện là: Các cấp ủy đảng rà soát, bổ sung,

chỉ đạo thực hiện những chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
Ban cán sự đảng các bộ, ngành xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chỉ đạo thực hiện theo
ngành dọc.
Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, các bộ chủ quản các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề chỉ đạo xây
dựng và triển khai giáo dục chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, đảng
viên, học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, các
trường dạy nghề theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.


18

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh xây dựng và triển
khai giáo dục chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, đảng viên trong hệ thống học
viện, các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
1.3.3. Xác định rõ trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành, các địa
phương, cơ quan, đơn vị
Nội dung và phương thức thực hiện là: Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp phát huy vai trò nêu gương trong học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Các ban đảng Trung
ương giúp Ban Bí thư ban hành các quy định về vai trò nêu gương của cán bộ,
đảng viên, cán bộ chủ chốt trong học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.
1.3.4. Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
thành một nội dung sinh hoạt thường xuyên của các tổ chức đảng, gắn với
thực hiện tốt chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của

Đảng, giải quyết những vấn đề tư tưởng, đạo đức gây bức xúc, trong ngành,
địa phương, đơn vị
Nội dung và phương thức thực hiện là: Các tổ chức đảng bổ sung nội
dung học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh vào chương trình hành động tồn khóa và kế hoạch hoạt động hằng năm
phù hợp với điều kiện và đặc thù của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị.
Xác định một số nội dung cụ thể, một số vấn đề tư tưởng, đạo đức gây
bức xúc trong ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị để tập trung chỉ đạo mang lại
kết quả cụ thể, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tùy điều kiện cụ thể, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị chọn điểm
để tập trung chỉ đạo, rút kinh nghiệm cho việc chỉ đạo chung.
1.3.5. Tiếp tục xây dựng và thực hiện chương trình giảng dạy và học
tập tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho học sinh,
sinh viên, cán bộ, đảng viên


19

Nội dung và cơ quan tổ chức thực hiện là: Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục
và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo việc giảng dạy, học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trong các cấp học, bậc học; hồn thành việc xây dựng
chương trình, giáo trình về đạo đức Hồ Chí Minh để giảng dạy trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh sớm hồn thành
việc xây dựng chương trình, giáo trình về tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, giảng dạy trong hệ thống Học viện, trường chính trị, trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp.
1.3.6. Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Nội dung và phương thức thực hiện là: Các cấp ủy, Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam xây dựng kế
hoạch cụ thể về giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Bác Hồ. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh phát động các phong trào thanh niên làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách của Bác, tổ chức các hình thức đa dạng, phong
phú, lôi cuốn thanh niên.
1.3.7. Công tác kiểm tra định kỳ, sơ kết 6 tháng, tổng kết năm việc học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Nội dung kiểm tra, sơ kết, tổng kết là: Đánh giá công tác tổ chức triển
khai và kết quả thực hiện của cấp ủy các cấp theo hướng dẫn của Trung ương
và của cấp ủy cấp trên; ảnh hưởng tích cực của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tới đời
sống chính trị - kinh tế - xã hội và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; phát hiện những mơ hình hay, cách làm
hiệu quả; biểu dương những điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tại địa phương, đơn vị;
phê bình, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, các việc làm thiếu gương mẫu,
nói khơng đi đơi với làm; kiến nghị với thường vụ cấp ủy, với Ban Bí thư về


20

nội dung, hình thức tổ chức có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Báo cáo tổng kết gửi về ban tuyên giáo cấp ủy cấp trên và Ban Tuyên giáo
Trung ương để tổng hợp, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Phương thức thực hiện: Hằng năm, Ban Bí thư sẽ thành lập các đồn
kiểm tra, tổ chức giao ban, sơ kết 6 tháng, tổng kết năm việc học tập và làm
theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở các ngành, địa
phương, đơn vị. Hội nghị tổng kết năm về học tập và làm theo tư tưởng, tấm

gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh kết hợp với biểu dương các tập thể
và cá nhân điển hình tiên tiến. Các cấp ủy đảng định kỳ tổ chức giao ban và
kết hợp kiểm tra, chú ý ở các nơi tiến hành làm điểm, sơ kết 6 tháng, tổng kết
năm về học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; Báo cáo kết quả kiểm tra với cấp
ủy cấp trên theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương.
1.3.8. Đẩy mạnh tuyên truyền về việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn
Nội dung, phương thức thực hiện là: Tiếp tục đẩy mạnh và thường
xuyên tuyên truyền về tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, về tình hình triển khai thực hiện, các điển hình tiên tiến trong học tập
và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Bác Hồ với các hình
thức đa dạng, phong phú và thuyết phục.
Các cơ quan truyền thơng, thơng tấn, báo chí xây dựng chuyên trang,
chuyên mục, chương trình thường xuyên tuyên truyền về học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Bác Hồ đồng thời với tuyên truyền
các ngày lễ, các ngày kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước.
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Bộ Nội vụ phối hợp với Ban
Tuyên giáo Trung ương xây dựng hướng dẫn về các hình thức biểu dương tập
thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, tiêu biểu, điển hình trong học tập và làm
theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trình Ban Bí thư
ban hành.


21

Vào dịp sinh nhật Bác 19-5 hằng năm, tổ chức gặp mặt các tập thể và cá
nhân tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh ở cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương, giới thiệu một số tập
thể, cá nhân tiêu biểu cho địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị, tham dự Hội nghị

gặp mặt điển hình về học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh của Trung ương. Ban Tuyên giáo Trung ương xây dựng
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, trình Ban Bí thư thơng qua.
Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Giao Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ
quan có liên quan tổ chức Giải thưởng về sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn
học, nghệ thuật và báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”.
Gắn “xây” với “chống”; trong cơng tác tun truyền cần chủ động phê
bình, uốn nắn các nhận thức lệch lạc, việc làm thiếu gương mẫu, nói khơng đi
đơi với làm, đấu tranh với các quan điểm sai trái, xuyên tạc lịch sử, phê phán
các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Đẩy mạnh tuyên truyền và triển khai các hoạt động học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng
viên, học sinh, sinh viên, người lao động làm việc, học tập ở nước ngoài và
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo và hướng dẫn công tác tuyên
truyền về việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh.


22

CHƯƠNG 2
QUẬN ỦY HAI BÀ TRƯNG, HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, ĐẢNG
VIÊN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu đặt ra đối với vấn đề giáo

dục đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên quận Hai Bà
Trưng trong điều kiện hiện nay
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội, tổ chức
đảng quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Trước đây, vùng đất Hai Bà Trưng thuộc các tổng Hậu Nghiêm (sau đổi
là Thanh Nhàn), Tả Nghiêm (sau đổi là Kim Liên), Tiền Nghiêm (sau đổi là
Vĩnh Xương) thuộc huyện Thọ Xương cũ; một số xã của huyện Thanh Trì,
thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Từ năm 1961-1981, vùng đất được gọi là khu
Hai Bà (sau gọi là khu Hai Bà Trưng). Tháng 6/1981, khu Hai Bà Trưng chính
thức gọi là quận Hai Bà Trưng. Đến nay, quận có 20 phường trực thuộc.
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Quận Hai Bà Trưng nằm ở tọa độ 21°B, 105°Đ, với diện tích 14,6 km²,
dân số khoảng hơn 400.000 người. Phía Đơng giáp với sơng Hồng, qua bờ
sơng là quận Long Biên; phía Tây chủ yếu giáp với quận Đống Đa, một phần
nhỏ giáp với quận Thanh Xn; phía Nam giáp quận Hồng Mai; phía Bắc
giáp quận Hồn Kiếm.
Địa giới hành chính được chia thành 20 phường: Nguyễn Du, Lê Đại
Hành, Bùi Thị Xuân, Phố Huế, Ngơ Thì Nhậm, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân,
Đống Mác, Bạch Đằng, Thanh Lương, Thanh Nhàn, Cầu Dền, Bách Khoa,
Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh Mai, Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương Định, Đồng
Tâm với hơn 100 tuyến phố chính.
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội


23

- Về kinh tế: Trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có nhiều nhà máy, xí
nghiệp của Trung ương và Hà Nội như: Dệt Kim Đồng Xuân; cảng Hà Nội;
cụm cơng nghiệp Minh Khai-Vĩnh Tuy với hàng chục xí nghiệp nhà máy, chủ
yếu thuộc các ngành dệt, cơ khí, chế biến thực phẩm.

Kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn quận phát triển nhanh. Hiện nay,
trên địa bàn quận có hơn 3.300 doanh nghiệp, trong đó 70% là thương mại, dịch
vụ, cịn lại là hoạt động cơng nghiệp. Năm 2008, giá trị sản xuất cơng nghiệp
ngồi quốc doanh tăng 14,5%; doanh thu thương mại, du lịch, dịch vụ tăng
hơn15%; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quận đạt 933,841 tỷ đồng.
- Về công tác xã hội: Hơn 5 năm qua quận đã hỗ trợ sửa chữa và xây dựng
167 nhà đại đoàn kết, hỗ trợ cho 1.201 hộ gia đình thốt nghèo, trên 33.000 lao
động được giới thiệu việc làm. Đến nay, số hộ nghèo trong toàn quận cịn 1.022
hộ (chiếm 1,35%).
- Cơng tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình; cơng tác giáo dục đào tạo;
công tác thông tin tuyên truyền và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể
dục thể thao tiếp tục giữ vững và đạt kết quả tốt trong nhiều năm qua.
- Về văn hóa:
Quận Hai Bà Trưng có 91 di tích lịch sử, văn hóa và cách mạng (đã có
33 di tích đã được xếp hạng). Trong đó có những di tích nổi tiếng như: Chùa
Hương Tuyết, Chùa Liên Phái, Chùa Thiền Quang-Quang Hoa-Pháp Hoa,
Đền Hai Bà Trưng, Đình Tương Mai, Di tích cách mạng 152 Bạch Mai, Khu
tưởng niệm đồng chí Hồng Văn Thụ, Khu tưởng niệm nạn đói năm 1945, Di
tích lịch sử cách mạng kháng chiến 18 Nguyễn Du v.v...
Trên địa bàn quận cịn có hai công viên lớn là Công viên Thống
Nhất và Công viên Tuổi trẻ. Trong những năm tới, các công viên này sẽ được
cải tạo theo hướng hiện đại và đa dạng các hoạt động, góp phần nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần cho dân cư trên địa bàn quận và thu hút khách du lịch
ở các nơi khác.
2.1.1.3. Đặc điểm tổ chức đảng quận Hai Bà Trưng
Đảng bộ quận Hai Bà Trưng được thành lập ngày 09/6/1961 theo Nghị
quyết số 123-NQ/ĐBHN ngày 09/6/1961 của Thành ủy Hà Nội. Ban Chấp


24


hành đảng bộ lâm thời khu phố Hai Bà Trưng gồm 19 đồng chí. Hiện nay,
Ban Chấp hành đảng bộ quận khố XXIV gồm 47 đồng chí. Ban Thường vụ
quận ủy gồm: 13 đồng chí, Ủy ban kiểm tra quận ủy gồm: 07 đồng chí.
Đảng bộ quận bao gồm 109 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 63 tổ chức
đảng trực thuộc, 46 chi bộ đảng trực thuộc, 714 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ
sở, với tổng số 16.282 đảng viên.
Chặng đường phát triển 50 năm qua của đảng bộ quận Hai Bà Trưng đã
khẳng định rõ dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết chung sức, chung lịng
của tồn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân đẫ giành được những thành tựu quan
trọng. Với truyền thống đấu tranh cách mạnh vẻ vang, tự hào với danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân - một tài sản tinh thần vô giá; phát huy
những kinh nghiệm, thành tựu quan trọng đạt được, với sức mạnh nội lực của
mình, đảng bộ và nhân dân quận Hai Bà Trưng tin tưởng và quyết tâm sẽ đạp
bằng khó khăn, thử thách để thực hiện thắng lợi những mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội giai đoạn 2010 - 2015, để quận
Hai Bà Trưng phát triển nhanh và bền vững trong thế kỷ XXI và trở thành một
trung tâm đô thị phát triển năng động của Thủ đô Hà Nội. Trong nhịp bước khẩn
trương và khí thế của tiến trình đổi mới, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ Thành
phố Hà Nội, đảng bộ và nhân dân Quận Hai Bà Trưng đã, đang và nhất định sẽ
viết tiếp những trang sử vẻ vang hào hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, góp phần
xây dựng Thủ đô xứng tầm với vị thế là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của
đất nước; đưa quận Hai Bà Trưng chủ động hội nhập và phát triển hướng tới mục
tiêu giàu đẹp, văn minh, công bằng, dân chủ trong thời kỳ mới, xứng đáng với
niềm tin của cả nước và Thủ đô về quận Hai Bà Trưng Anh hùng.
2.1.2. Những yếu tố tác động
2.1.2.1. Sự tác động của tình hình quốc tế
Hiện nay, xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng. Nhờ sự tích cực, chủ động, Việt Nam đã tham gia thành viên của nhiều



25

tổ chức quốc tế và khu vực, thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao đối
tác với các nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế giới. Đảng ta
nhận định: "Tồn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển" [16, tr. 73]. Trước xu thế tồn cầu hóa,
địi hỏi Việt Nam phải đẩy nhanh tiến độ cải cách hành chính, xóa bỏ dần
những rào cản hội nhập theo cam kết quốc tế và định chế đa phương, tạo điều
kiện thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch,
dịch vụ... trong điều kiện đó, cán bộ, đảng viên quận Hai Bà Trưng có nhiều
thuận lợi để tiếp thu những tri thức, thành tựu khoa học - cơng nghệ hiện đại,
tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại. Theo đó, lớp cán bộ đảng viên trẻ có
trình độ chun mơn cao, năng động sáng tạo từng bước được Thành ủy Hà
Nội, quận ủy Hai Bà Trưng đào tạo và phát triển trở thành lực lượng nòng cốt
trong việc thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương. Đó
cũng chính là điều kiện rất thuận lợi để nâng cao hơn nữa chất lượng bồi
dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên của quận Hai Bà Trưng trong tình hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động thuận lợi, quá trình tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế sẽ làm gia tăng những thách thức không nhỏ đối với các
giá trị văn hóa, đạo đức ở nước ta. Các nấc thang giá trị đạo đức có sự biến
đổi sâu sắc, làm cho việc phân biệt tốt - xấu, đúng - sai trong nhiều trường
hợp trở nên rất phức tạp. Những nọc độc văn hóa, đạo đức, lối sống thực
dụng, cá nhân chủ nghĩa có điều kiện xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con
đường, với nhiều hình thức, biểu hiện khác nhau làm cho các tiêu cực và tệ
nạn xã hội...có chiều hướng gia tăng; sự suy giảm đạo đức, lối sống đang phá
hoại hạnh phúc nhiều gia đình, làm suy giảm nguồn nhân lực, gây hậu quả rất

lớn về kinh tế do không hát huy được nguồn lực con người để phát triển đất
nước. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ nhất là
trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã mở ra những khả năng to lớn, tạo điều


×