Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tư tưởng nho giáo về giáo dục và ý nghĩa của nó đối với việc phát triển giáo dục việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.55 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*****************

HOÀNG THU TRANG

TƢ TƢỞNG NHO GIÁO VỀ GIÁO DỤC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS DƢƠNG VĂN THỊNH

Hà Nội, 2008


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... ..1
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ ..7
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG NHO GIÁO VỀ GIÁO DỤC ................................. ..7
1.1. Bối cảnh và tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng Nho giáo về giáo dục ..... ..7
1.2. Nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Nho giáo về giáo dục ............................... .19
1.3. Những ƣu điểm nổi bật và hạn chế chính trong tƣ tƣởng Nho giáo về
giáo dục ........................................................................................................ .35
CHƢƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA TƢ TƢỞNG NHO GIÁO VỀ GIÁO DỤC


ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY ............ .42
2.1. Thực trạng của nền giáo dục ở Việt Nam trong những năm gần đây. ..... .42
2.2. Ý nghĩa của tƣ tƣởng Nho giáo về giáo dục với việc phát triển giáo
dục Việt Nam hiện nay ............................................................................... .56
KẾT LUẬN ............................................................................................................ .77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. .82


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, giáo dục - đào tạo giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ
gìn, phát triển và truyền bá nền văn minh nhân loại. Trong thời đại của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật ngày nay, khi tiềm năng trí tuệ trở thành động lực chính
của sự phát triển, giáo dục - đào tạo đang thật sự là nhân tố quyết định sự thành
bại của mỗi quốc gia và sự thành đạt của con người trong cuộc sống. Đối với đất
nước ta, trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cả dân
tộc đang dồn mọi nguồn lực để tiến hành công cuộc đổi mới, thì việc đào tạo, sử
dụng nguồn nhân lực càng có ý nghĩa quyết định. Vấn đề đào tạo và sử dụng con
người luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã
nêu rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững” [15;108-109].
Như vậy, phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những nhiệm vụ cấp thiết
của toàn Đảng, toàn dân, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đổi mới đất nước
trong giai đoạn hiện nay. Quán triệt tư tưởng trên của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta cần phải tập trung huy động toàn bộ lực lượng xã hội tham gia công tác giáo dục
và đào tạo, trong đó việc phát huy truyền thống hiếu học và tiếp thu một cách sáng
tạo văn hoá, giáo dục của nhân loại là điều cần thiết. Một trong những tư tưởng
quý báu trong kho tàng kinh nghiệm giáo dục của nhân loại, thấm đẫm truyền

thống phương Đông, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nền giáo dục Việt
Nam thời phong kiến chính là tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Ở nước ta, Nho giáo có lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm. Là một
học thuyết chính trị, đạo đức lấy con người làm trọng tâm, Nho giáo đã đáp ứng
-3-


yêu cầu xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam qua nhiều thế kỉ. Với vị trí, vai
trò là hệ tư tưởng, là công cụ cai trị của các triều đại phong kiến Việt Nam, Nho
giáo đã ảnh hưởng, tác động trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị cho đến
văn hoá, giáo dục.
Tư tưởng giáo dục là một trong những tư tưởng cơ bản của Nho giáo. Các
nhà Nho thời kì nào, theo khuynh hướng nào cũng ít nhiều đề cập đến vấn đề này.
Không chỉ phát huy vai trò của mình trong xã hội phong kiến, tư tưởng giáo dục
của Nho giáo vẫn còn có vai trò quyết định và có nhiều ý nghĩa thiết thực trong
việc phát triển nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Nền giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu to lớn
đã đạt được, còn bộc lộ nhiều hạn chế về cả quy mô, tổ chức, quản lý, nội dung,
phương pháp…Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân làm cho nền
giáo dục chưa đáp ứng kịp thời và có hiệu quả những đòi hỏi của công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Những hạn chế còn tồn tại một phần vì chúng
ta chưa cập nhật đầy đủ những nội dung, phương pháp giáo dục hiện đại. Một
nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là trong nhiều năm gần đây, do quá
coi trọng và hướng theo những thành tựu của nền giáo dục hiện đại mà dường như
chúng ta đã lãng quên, chưa có sự khai thác một cách triệt để, có hiệu quả những
nhân tố, những giá trị hợp lý trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo. Nếu bỏ qua
những hạn chế về điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, biết kế thừa một cách có
chọn lọc những nhân tố và giá trị trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo, chúng ta
sẽ rút ra được những bài học quý báu trong việc giáo dục - đào tạo con người,
nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Với ý

nghĩa đó, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài cho luận văn thạc sĩ triết học của
mình là: “Tư tưởng Nho giáo về giáo dục và ý nghĩa của nó đối với việc phát triển
giáo dục Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
-4-


Như chúng ta đã biết, tư tưởng Nho giáo về giáo dục, sự hình thành và phát
triển của nền giáo dục Nho giáo trong chế độ phong kiến Việt Nam cũng như ý
nghĩa của nó đối với nền giáo dục Việt Nam đương đại là một đề tài thu hút được
nhiều học giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ và phương pháp tiếp cận
khác nhau.
Các công trình nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Nho giáo phải kể đến như:
Nho giáo của Trần Trọng Kim; Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm; Bàn về đạo
Nho của Nguyễn Khắc Viện; Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử của Nguyễn
Thế Long…Nhìn chung, các công trình này đều đi sâu và nghiên cứu một cách bao
quát về tư tưởng giáo dục của Nho giáo. Tuy vậy, các công trình này chủ yếu vẫn
dừng lại ở việc xem xét, đánh giá những tư tưởng giáo dục của Nho giáo như một
bộ phận trong toàn bộ hệ tư tưởng Nho giáo nói chung. Ngoài các công trình này,
còn phải kể đến nhiều bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí như: “Đôi điều
suy nghĩ về đối tượng và nội dung giáo dục giáo hóa của Nho giáo” đăng trên tạp
chí Giáo dục lý luận, (số 10), năm 2001 của tác giả Nguyễn Thanh Bình; “Một số
suy nghĩ về đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hùng Hậu
đăng trên tạp chí Triết học, (số 5) năm 1998…Tuy nhiên, một cách khái quát nhất,
các bài viết này cũng mới chỉ đề cập và đánh giá một cách khái quát nhất từng nội
dung cụ thể trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo như: mục đích, đối tượng hay
nội dung, phương pháp mà chưa đi sâu nghiên cứu và đánh giá chung về toàn bộ
các vấn đề trong hệ tư tưởng giáo dục của Nho giáo cùng với những hạn chế và
tính tích cực của nó.
Về ý nghĩa của tư tưởng giáo dục Nho giáo đối với việc phát triển giáo dục Việt

Nam hiện nay, cũng được nhiều tác giả nghiên cứu. Như cuốn sách: Quan niệm
của Nho giáo về giáo dục con người của hai tác giả Nguyễn Thị Nga và Hồ Trọng
Hoài. Ở cuốn sách này, hai tác giả chủ yếu phân tích, trình bày và đánh giá những
tư tưởng cơ bản của Nho giáo về con người và đào tạo con người, từ đó phân tích
-5-


những ảnh hưởng của Nho giáo đối với việc xây dựng con người Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. Hay là ở cuốn sách
Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp của Đặng Quốc Bảo
và Nguyễn Đắc Hưng. Trong cuốn sách này, hai tác giả đã dành một phần dung
lượng nhất định để khái quát thực trạng nền giáo dục Nho học Việt Nam trong thời
kì phong kiến, đồng thời cũng đưa ra những nhận xét về hạn chế và khẳng định
những điểm tích cực và hợp lý trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo đối với sự
nghiệp giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay. Ngoài ra về vấn đề này, còn có rất
nhiều bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí như: “Về ảnh hưởng của Nho
giáo ở Việt Nam” của Lê Ngọc Anh đăng trên tạp chí Triết học, (số 3), năm 1999;
“Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn thiện con người” của tác giả
Nguyễn Thanh Bình đăng trên tạp chí Giáo dục lí luận, (số 5), năm 2000; “Tư
tưởng về giáo dục của Nho giáo với con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay”
của Nguyễn Thị Nga đăng trên tạp chí Nghiên cứu lý luận, (số 3), năm 2000…
Tuy nhiên, các công trình trên đây mới chỉ nghiên sứu một cách khái lược về ý
nghĩa của tư tưởng giáo dục Nho giáo đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay mà
chưa đi sâu phân tích những ảnh hưởng nổi bật của từng nội dung trong tư tưởng
Nho giáo về giáo dục như mục đích, đối tượng, nội dung cho đến phương pháp
giáo dục đối với công cuộc đổi mới và phát triển nền giáo dục Việt Nam, từ đó
thấy được những điểm tích cực và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
đối với sự nghiệp trồng người và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của đất nước hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Nho giáo và
ý nghĩa của nó đối với việc phát triển giáo dục Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những nội dung chủ yếu trong tư tưởng
Nho giáo về giáo dục, từ đó luận văn làm rõ ý nghĩa của nó đối với việc phát triển
giáo dục Việt Nam hiện nay.
-6-


Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ cơ bản của luận văn là:
- Trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của
Nho giáo.
- Làm rõ ý nghĩa của tư tưởng Nho giáo về giáo dục đối với việc phát triển
giáo dục Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người và về
chiến lược giáo dục con người.
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của triết
học Mác - Lênin trong nghiên cứu xã hội, con người và nghiên cứu lịch sử triết
học. Đồng thời, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học
như các phương pháp: phân tích - tổng hơp; lôgíc - lịch sử; đối chiếu - so sánh…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng của Nho giáo về giáo dục và nền giáo dục
Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số nội dung chủ yếu trong nội dung tư tưởng
giáo dục của Nho giáo và vai trò của nó đối với sự phát triển giáo dục ở Việt Nam
hiện nay.

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ và hệ thống hoá những nội dung căn bản trong tư
tưởng Nho giáo về giáo dục, đào tạo con người và ý nghĩa của nó đối với sự phát

triển của nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu Nho học nói chung và tư tưởng

-7-


giáo dục Nho giáo nói riêng, đặc biệt là ý nghĩa của tư tưởng Nho giáo về giáo dục
đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần
Nội dung gồm có 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Tư tưởng Nho giáo về giáo dục, gồm 3 tiết.
Chương 2: Ý nghĩa của tư tưởng Nho giáo về giáo dục đối với việc phát
triển giáo dục Việt Nam hiện nay, gồm 2 tiết.

-8-


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG NHO GIÁO VỀ GIÁO DỤC
1.1. Bối cảnh và tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng Nho giáo về giáo dục
1.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội cho sự hình thành tư tưởng Nho giáo về giáo dục
Nho giáo còn gọi là đạo Nho do Khổng Tử sáng lập vào thời Xuân thu Chiến Quốc. Nho giáo là một trong những học thuyết lớn của Trung Quốc không
chỉ trong thời cổ đại mà còn phát triển mạnh ở những thời kì về sau. Cũng như bất
kỳ một học thuyết chính trị xã hội nào khác, Nho giáo trong đó có tư tưởng giáo
dục cũng được nảy sinh, tồn tại và phát triển trên một cơ sở kinh tế - xã hội, chính
trị nhất định.
Trên lĩnh vực kinh tế: xã hội Trung Quốc vào thời kỳ Xuân Thu - Chiến
Quốc đang trong quá trình chuyển biến từ việc sử dụng công cụ sản xuất bằng
đồng sang công cụ sản xuất bằng sắt. Điều này đã đem lại sự phát triển vô cùng

mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Với sự phát triển của
nông nghiệp và thủ công nghiệp đã thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Thời kì này,
Trung Quốc xuất hiện nhiều thành thị thương nghiệp, những trung tâm buôn bán
hết sức nhộn nhịp ở các nước Hán, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở kinh tế
tương đối độc lập và từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị, thị tộc của quý tộc đã
dần trở thành những đơn vị, khu vực kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên.
Những diễn biến mới trong lĩnh vực kinh tế đã có ảnh hưởng to lớn đến mọi
mặt của đời sống chính trị - xã hội. Điều này đã làm xuất hiện một cục diện mới
trong xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc, đó là tình trạng các nước chư hầu nổi
lên lấn át địa vị và quyền lực của nhà Chu. Các nước chư hầu của nhà Chu không
những không phục tùng mệnh lệnh, không chịu cống nạp mà ngược lại còn phát
động chiến tranh, tranh giành địa vị, quyền lợi, địa vị bá chủ thiên hạ của ngôi vua
thiên tử. Xã hội Trung Quốc vì thế mà rơi vào cảnh loạn lạc triền miên. Đây được
coi là thời kì "Lễ hoại nhạc tan", cảnh bề tôi giết vua, con hại cha, chồng vợ bất
-9-


hoà diễn ra thường xuyên, trật tự, kỉ cương xã hội bị đảo lộn, các mối quan hệ giữa
con người và con người bị biến dạng,v.v.
Cũng chính do những biến động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế,
chính trị cho đến văn hoá xã hội đã dẫn đến sự thay đổi tất yếu về mặt tư tưởng.
Thời đại lịch sử đã đặt ra những vấn đề triết học, chính trị, xã hội, luân lý đạo đức
kích thích tầng lớp tri thức, kẻ sĩ đương thời quan tâm lí giải, mong tìm ra lời giải
đáp và biện pháp để ổn định trật tự xã hội. Đó cũng là lý do vì sao mà vào thời kì
này ở Trung Quốc, lại xuất hiện nhiều trào lưu triết học trong đó có Nho giáo. Quá
trình phát triển của tư tưởng Nho giáo có thể hình dung qua hai giai đoạn lớn:
Giai đoạn thứ nhất là Nho giáo nguyên thuỷ hay còn gọi là Nho giáo Tiên
Tần với các đại biểu nổi tiếng như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân tử…Do ra đời trong
bối cảnh xã hội Trung Quốc trong quá trình giải thể xã hội chiếm hữu nô lệ và tiến
nhập vào xã hội phong kiến (thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc) nên Nho giáo thời

điểm này ít nhiều mang đậm tính nhân văn, nhân bản, ít tính thần bí và khắc
nghiệt. Nhưng đến giai đoạn sau kể từ nhà Hán trở đi, Nho giáo được giai cấp
phong kiến sử dụng làm hệ tư tưởng là một trong những cơ sở lí luận để kiến tạo
và duy trì bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, như một thứ vũ khí
đắc lực để bảo vệ, duy trì địa vị thống trị và lợi ích của giai cấp phong kiến, để
thiết lập trật tự, kỷ cương của chế độ và xã hội phong kiến phù hợp với yêu cầu và
quyền lợi của giai cấp phong kiến. Do vậy lúc này, Nho giáo đã trở nên thần bí
hoá, là sự kết hợp chặt chẽ giữa thần quyền với quân quyền và phụ quyền nhằm
phục vụ cho những mục đích chính trị trên đây. So với thời kì trước, Nho giáo trở
nên hà khắc, khắc nghiệt hơn về mặt chính trị - xã hội và thần bí, duy tâm về
phương diện triết học.

- 10 -


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Ngọc Anh (1999), “Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Triết
học, (số 3), tr 19-21.
[2] Hoàng Chí Bảo (2001), “Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cách mạng
giáo dục – đào tạo trong các nhà trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã
hội, (số 5), tr 61-67.
[3] Nguyễn Ngọc Bảo (1997), Bước đầu suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh về học
đi đôi với hành, lí luận đi đôi với thực tế, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (số 5), tr 79.
[4] Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới
tương lai vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Nguyễn Thanh Bình (2000), “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn
thiện con người”, Tạp chí Giáo dục lí luận, (số 5), tr 35-38.
[6] Nguyễn Thanh Bình (2001), “Đôi điều suy nghĩ về đối tương giáo dục giáo hoá
của Nho giáo”, Tạp chí Giáo dục lí luận, (số 10), tr 50-54.
[7] Nguyễn Văn Bình (1999), “Cách xem xét đánh giá con người thông qua các

mối quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo - một giá trị cần kế thừa và phát triển”,
Tạp chí Triết học, (số 3), tr 22-24.
[8] Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (1966), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Cáo
Thơm, Sài Gòn.
[9] Phan Đại Doãn (1999), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[10] Đinh Xuân Dũng chủ biên (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Ban tư
tưởng - văn hoá trung ương, Hà Nội.
[11] Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

- 11 -


[12] Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Nghị Quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[13] Đảng cộng sản Việt Nam(1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[14] Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[15] Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[16] Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[17] Phạm Văn Đồng (1994), “Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực - Một
phương pháp vô cùng quý báu”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (số 12), tr 1-2.
[18] Phạm Văn Đồng (1999), Vấn đề giáo dục – đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
[19] Lê Văn Giang (2003), Lịch sử giáo dục giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[20] Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng

nhân cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học. Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[21] Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ
phát triển - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[22] Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[23] Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỉ XXI, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[24] Phạm Minh Hạc (2003), Về giáo dục, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

- 12 -


[25] Đỗ Thị Hoà Hới (1998), “Tìm hiểu một số đặc điểm nhân văn Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Triết học, (số 4), tr 8-12.
[26] Nguyễn Sinh Huy (1995), “Tiếp cận xu thế đổi mới phương pháp dạy học
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (số 3), tr 4-9.
[27] Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng triết học phương Đông gợi những điểm nhìn
tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.
[28] Đặng Hữu (2008), “Phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trên cơ sở tiếp tục đổi mới giáo dục - đào tạo”, Tạp chí Khoa học xã hội,
(số 1), tr 8-16.
[29] Trần Đình Hượu (1999), Văn học Việt Nam và Nho giáo Việt Nam trung cận
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[30] Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch, Nxb Văn hoá - Thông
tin, Hà Nội.
[31] Trần Hậu Khiêm (1994), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
[32] Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.

[33] Phạm Văn Khoái (2004), Khổng phu tử và Luận ngữ, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[34] Nguyễn Quang Kính (2005) chủ biên, Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[35] Trần Trọng Kim (2001), Đại cương triết học Trung Quốc - Nho giáo, Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
[36] Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
[37] Nguyễn Thu Lan (2003), Giải pháp về giáo dục - đào tạo với việc xây dựng
đội ngũ tri thức ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Thông
tin tư liệu chuyên đề: Giáo dục - đào tạo và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ tri thức
- 13 -


trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, (số 3), Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[38] Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
[39] Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
[40] Mạnh Tử phần hạ (1996), Đoàn Trung Còn dịch, Nxb Thuận Hoá, Huế.
[41] Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
[42] Hà Thúc Minh (2001), Đạo Nho và văn hoá phương Đông, Nxb Giáo dục,
Thành phố Hồ Chí Minh.
[43] Hà Thúc Minh (1996), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
[44] Nguyễn Thị Nga - Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm của Nho giáo về giáo
dục con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[45] Luận ngữ (1950), Đoàn Trung Còn dịch, Nxb Trí Đức, Sài gòn
[46] Lê Khả Phiêu (1995), “Một số vấn đề cần giải quyết trong giáo dục – đào tạo
để thực hiện thật tốt Nghị Quyết TW II”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (số 4), tr 120.

[47] Lê Đức Phúc (1994), “Con người trước yêu cầu phát triển trong thế kỉ XXI”,
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (số 9), tr 3-4.
[48] Bùi Thanh Quất chủ biên (2001), Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[49] Trần Xuân Sầm (1990) “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ”, Tạp chí
Giáo dục lí luận, (số 6), tr 1-3.
[50] Lê Thanh Sinh (2003), “Khổng giáo với vấn đề hiện đại hoá xã hội”, Tạp chí
Khoa học xã hội, (số 1), tr 41-46.
[51] Lê Sỹ Thắng chủ biên (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
- 14 -


[52] Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
[53] Lê Xuân Tùng (2008), Xây dựng đội ngũ tri thức trẻ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Thông tin tư liệu chuyên đề: Giáo dục - đào tạo
và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ tri thức trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (số 3), Hà Nội.
[54] Tứ Thư (2006), Trần Trọng Sâm - Kiều Bách Vũ Thuận (biên dịch), Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
[50] Mạnh tử phần hạ (1996), Đoàn Trung Còn (dịch), Nxb Thuận Hoá, Huế.
[55] Nguyễn Khắc Viện (2003), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội.
[56] Lã Trấn Vũ (1958), Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc, Nxb Sài
Gòn, thành phố Hồ Chí Minh.
[57]Lê Xuân Vũ (1994), Mấy ý kiến về giáo dục và rèn luyện đạo đức Hồ Chí
Minh, Tạp chí Cộng sản, (số 4), tr 14-17.
[58] Trịnh Xuân Vũ (1998), “Phương pháp dạy học của Khổng Tử”, Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục, (số 2), tr 28 - 29.
[59] Nguyễn Hữu Vui chủ biên (2003), Giáo trình lịch sử triết học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.


- 15 -



×