Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh thương mại từ thực tiễn các tòa án nhân dân tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
NGUYỄN HUY BIÊN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ THU HÀ

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ luật học “Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn tại các tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang” là kết quả
của quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của bản thân với sự hướng dẫn tận tình
của PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà - người hướng dẫn khoa học. Các số liệu, kết quả,
trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách
nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận văn


Nguyễn Huy Biên

năm 20


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban lãnh đạo trường Đại học Mở
Hà Nội, các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã luôn động viên, tạo điều
kiện giúp đỡ nhiệt tình tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, với tất cả lòng chân thành, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc
nhất tới cô giáo - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà đã hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy
trách nhiệm, cô đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành luận văn một
cách tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của các Tòa án nhân dân trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang, đặc biệt là Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tạo điều kiện cung
cấp tài liệu, số liệu, tạo thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Mặc dù đã cố gắng để hoàn thành luận văn, tuy nhiên do trình độ hiểu biết của
bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 20

Tác giả luận văn


Nguyễn Huy Biên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

BLDS

: Bộ luật dân sự

LTM

: Luật Thương mại

LDN

: Luật Doanh nghiệp

KDTM

: Kinh doanh thương mại

TAND

: Tòa án nhân dân



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN
KINH DOANH THƯƠNG MẠI ................................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại ....7
1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại ..........................................7
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại...................................15
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại ......................................17
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thụ lý vụ án kinh doanh thương mại ..............19
1.2.1. Khái niệm thụ lý vụ án kinh doanh thương mại ..............................................19
1.2.2. Đặc điểm thụ lý vụ án kinh doanh thương mại ...............................................22
1.2.3. Ý nghĩa thụ lý vụ án kinh doanh thương mại ..................................................23
1.3. Cơ sở của việc quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án kinh doanh thương mại.....26
1.3.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án kinh
doanh thương mại .....................................................................................................26
1.3.2. Cở sở thực tiễn của việc xây dựng các quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án kinh
doanh thương mại .....................................................................................................29
Kết luận Chương 1 ....................................................................................................31
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI
CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN ....................................................................................32
2.1. Quy định về khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại ........................................32
2.1.1. Quy định về điều kiện khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại ......................32
2.1.2. Phạm vi khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại............................................42
2.1.3. Hình thức và thủ tục khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại .......................44
2.2. Quy định về thụ lý vụ án kinh doanh thương mại..............................................46
2.2.1. Nhận đơn khởi kiện .........................................................................................46
2.2.2. Xem xét đơn khởi kiện .....................................................................................47
2.2.3. Thụ lý vụ án .....................................................................................................52



Kết luận Chương 2 ....................................................................................................56
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VIỆC KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC
GIANG VÀ KIẾN NGHỊ..........................................................................................57
3.1. Thực tiễn thực hiện việc khởi kiện, thụ lý vụ án kinh doanh thương mại tại các
Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ...........................................................57
3.1.1. Một số kết quả đạt được trong thực tiễn khởi kiện, thụ lý vụ án kinh doanh
thương mại tại tỉnh Bắc Giang ..................................................................................57
3.1.2. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định về khởi kiện, thụ
lý vụ án kinh doanh thương mại tại Bắc Giang và nguyên nhân của những khó khăn,
vướng mắc .................................................................................................................64
3.1.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trên .......................................76
3.2. Hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật khi nhận đơn khởi kiện vụ án
kinh doanh thương mại .............................................................................................78
3.3. Một số kiến nghị về khởi kiện, thụ lý vụ án kinh doanh thương mại từ thực tiễn
tại tỉnh Bắc Giang ......................................................................................................79
Kết luận Chương 3 ....................................................................................................84
KẾT LUẬN ...............................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................86


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số lượng tiếp nhận và giải quyết đơn khởi kiện vụ án KDTM của TAND
hai cấp .......................................................................................................................59
Bảng 3.2: Số lượng thụ lý và giải quyết các vụ án KDTM sơ thẩm từ năm 2016 - 2018
...................................................................................................................................60


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, chúng ta phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết.
Một trong những vấn đề đó là sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và tính chất phức
tạp của các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động và các tranh chấp, các yêu cầu của người
dân yêu cầu Tòa án giải quyết ngày một gia tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp.
Từ năm 2005 trở lại đây, Tòa án áp dụng chủ yếu là Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, Luật Thương mại
2005, Luật Doanh nghiệp 2014…cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành và mới
nhất là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, một số các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM vẫn còn tồn tại những
hạn chế và bất cập. Sự thiếu cụ thể, rõ ràng của một số quy định của pháp luật đã làm
cho đương sự khó khăn khi xác định các điều kiện khởi kiện để nộp đơn khởi kiện,
khó khăn cho Tòa án khi thụ lý các đơn khởi kiện. Thực tiễn vận dụng pháp luật để
xác định các điều kiện khởi kiện, điều kiện thụ lý cũng nảy sinh nhiều vướng mắc,
bất cập, tình trạng có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề dẫn tới
sự thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật vẫn còn tồn tại.
Việc nghiên cứu sâu lý luận về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM giúp cho ta có
nhận thức sâu sắc hơn về các quy định của pháp luật hiện hành, phát hiện những
khiếm khuyết, hạn chế để hoàn thiện. Ngoài ra, việc nghiên cứu thực tiễn tố tụng tại
các Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM - nơi học viên
đang công tác sẽ giúp học viên có thể đánh giá chân thực hơn về thực trạng thực hiện
pháp luật, từ đó có thể giúp học viên rút ra những đề xuất, kiến nghị có giá trị tham
khảo cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về khởi kiện,
thụ lý vụ án tại các Tòa án nói chung và đặc biệt là tại các Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Giang nói riêng.

1



Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu về khởi kiện và thụ lý vụ án KDTM tại
Tòa án sẽ có ý nghĩa về lý luận cũng như thực tiễn. Nhận thức đúng vai trò của Tòa
án, nắm vững các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM và tìm ra
các biện pháp thúc đẩy hình thức tài phán này phát triển là một việc làm thiết thực
góp phần hoàn thiện khung pháp luật kinh tế. Pháp luật kinh tế không thể hoàn thiện
nếu không có một chế định pháp luật hoàn chỉnh về khởi kiện, thụ lý và giải quyết
tranh chấp KDTM, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, yêu cầu phát triển kinh tế của thời
kỳ hội nhập.
Từ thực tiễn trên và với vị trí là một cán bộ của ngành Tòa án, tôi chọn đề tài:
“Khởi kiện và thụ lý vụ án KDTM từ thực tiễn tại các tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc
Giang” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp chương trình cao học Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến KDTM luôn thu hút được sự quan tâm không chỉ giới
kinh doanh mà còn của giới nghiên cứu. Việc giải quyết tranh chấp KDTM thông qua
Tòa án không phải là một vấn đề mới lạ trong khoa học pháp lý Việt Nam. Đáng kể
đến là đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau và ở nhiều khía cạnh
khác nhau, cả về khía cạnh pháp lý, cả về cơ chế thực hiện. Ví dụ như khóa luận tốt
nghiệp đại học với đề tài “Giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong KDTM tại Tòa
án - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Bùi Thái Hà; luận văn thạc sỹ của Cung
Mỹ Anh với đề tài “Giải quyết tranh chấp KDTM theo quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự - Những vướng mắc và giải pháp khắc phục” (2008); đề tài “Giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án nhân dân - Thực trạng và giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động” (2012) luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Ban; luận văn
thạc sĩ luật học “Thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM - Thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân
dân huyện Ứng Hòa thành phố Hà Nội” của Tưởng Thị Lan (2014)…
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề còn vướng mắc khi áp dụng pháp luật tố tụng dân sự
trong thực tiễn giải quyết các vụ án KDTM cũng được các bài viết trên các tạp chí
khoa học pháp lý đề cập, trao đổi như: “Áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong

2



giải quyết tranh chấp về KDTM tại Tòa án - Những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện
BLTTDS” của tác giả Nguyễn Thị Hoài Thương đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 3/2010; bài “Một số kiến nghị liên quan đến quy định về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp KDTM tại Tòa án theo Điều 29 BLTTDS” của tác giả Nguyễn Thị Vân
Anh đăng trên tạp chí Nghề luật số 3/2010; bài viết “Thực tiễn áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM tại Tòa án” của tác giả Triệu Thị Quỳnh
Hoa đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 19/2012. Tuy nhiên, các công trình trên
chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM, nhất là gắn
với một địa phương cụ thể như Bắc Giang. Chính vì vậy, đề tài “Khởi kiện và thụ lý
vụ án KDTM từ thực tiễn tại các tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang” không trùng lặp
với các công trình đã công bố cả về ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu để đạt được những mục đích cơ bản sau: Trên cơ sở nghiên
cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận về khởi kiện, thụ lý tranh chấp về
KDTM, phân tích thực trạng quy định của pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật về
khởi kiện, thụ lý tranh chấp KDTM trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Từ đó kiến nghị đưa
ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
trong khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM tại tòa án.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài tập trung vào một
số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM như khái niệm,
đặc điểm và ý nghĩa, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định khởi kiện và thụ lý
vụ án KDTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM.


3


- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về khởi
kiện, thụ lý vụ án KDTM tại các Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; những vướng mắc,
bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định đó tại Tòa án.
- Kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM nhằm góp phần giải quyết nhanh
chóng, chính xác các vụ án KDTM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận về khởi kiện, thụ lý vụ án
KDTM, quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM và
thực tiễn thực hiện các quy định đó tại các toà án nhân dân ở tỉnh Bắc Giang. Qua đó
thấy được những sai sót trong quá trình khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM tại Tòa án
thông qua các vụ án cụ thể trong thực tiễn, để từ đó đưa ra những phương hướng, giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM tại các tòa án nhân
dân ở tỉnh Bắc Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Từ đối tượng nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định như
sau:
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM dưới góc độ là
hoạt động tố tụng. Do giới hạn về thời gian nghiên cứu, thực hiện cũng như dung
lượng cho phép luận văn nên luận văn không nghiên cứu sâu về thủ tục khởi kiện, thụ
lý vụ án KDTM mà chỉ nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản của
khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM như: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở của khởi
kiện, thụ lý vụ án KDTM, nội dung các quy định của BLTTDS và các văn bản hướng
dẫn về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM và giới hạn thực tiễn thực hiện việc khởi kiện,
thụ lý đó trong phạm vi các tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Giang.


4


- Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn tại các tòa án trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang trong việc nhận đơn khởi kiện, thụ lý giải quyết tranh chấp KDTM.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2014
đến nay tại các tòa án trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền. Quá trình nghiên cứu có sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học như:
- Phương pháp phân tích nghiên cứu luật viết dùng để tìm hiểu các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.
- Phương pháp phân tích chứng minh, so sánh, đối chiếu, vận dụng các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về quá trình khởi kiện và thụ lý vụ án KDTM.
- Phương pháp tổng hợp thống kê sử dụng các trang web để tìm kiếm và sưu
tầm tài liệu đồng thời vận dụng các tài liệu của các nhà nghiên cứu, các tạp chí chuyên
ngành về vấn đề nghiên cứu và những vấn đề có liên quan nhằm bổ sung kiến thức
về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra những vướng mắc trong việc
áp dụng pháp luật ở lĩnh vực nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Như đã trình bày ở trên, các công trình nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về khởi
kiện, thụ lý vụ án KDTM hiện nay vẫn còn hạn chế. Vì vậy, đây có thể coi là một
trong những công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu chế định này.
Luận văn đã hệ thống một cách có chọn lọc một số vấn đề lý luận cơ bản về
khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM, đồng thời góp phần bổ sung kết quả nghiên cứu mới
so với các công trình khoa học trước đây về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM.

5



Góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác chuyên môn của hệ thống tòa án
nhân dân - nơi tác giả công tác trong lĩnh vực giải quyết các vụ án KDTM. Đồng thời,
luận văn cũng có thể được sử dụng phục vụ cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu
tại các Viện, Trường và các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Khóa luận được kết cấu gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội
dung của đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về khởi kiện, thụ lý vụ án KDTM.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về khởi kiện và thụ lý vụ án KDTM tại các tòa án nhân dân.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện việc khởi kiện và thụ lý vụ án KDTM tại các tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Giang và kiến nghị.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ
VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại
1.1.1.1. Khái niệm vụ án kinh doanh thương mại
Hiện nay, chúng ta được nghe đề cập đến nhiều khái niệm như: Tranh chấp kinh
tế, tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh, thương mại. Mỗi khái niệm đều
có nội hàm rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung, chúng đều được hiểu là những xung đột,
bất đồng lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thương mại.
Kinh doanh, thương mại xuất hiện là kết quả của sự phát triển lực lượng sản
xuất xã hội và phân công lao động xã hội, sự mở rộng trao đổi và lưu thông hàng hoá.
Phân công lao động xã hội phát triển dẫn tới sự chuyên môn hoá trong khâu trao đổi,

lưu thông hàng hoá, kết quả là hàng hoá được đáp ứng đúng nhu cầu khách hàng về
số lượng, chất lượng, chủng loại hàng, tiến độ giao hàng, điều kiện thanh toán vv.
Kinh doanh, thương mại đóng vai trò là khâu trung gian giữa một bên là sản
xuất, phân phối và một bên là tiêu dùng. Đối với lĩnh vực sản xuất, sự xuất hiện của
các doanh nghiệp kinh doanh, thương mại trên thị trường với vai trò cung ứng các
yếu tố đầu vào cho sản xuất sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra thường xuyên,
liên tục, nhịp nhàng. Còn đối với lĩnh vực tiêu dùng, mọi tầng lớp dân cư sẽ dễ dàng,
thuận lợi trong việc thoả mãn nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng nhờ sự xuất hiện của
hàng loạt các cửa hàng, các siêu thị, trung tâm mua sắm…
Ở góc độ ngôn ngữ phổ thông, “kinh doanh” là tổ chức, sản xuất, buôn bán sao
cho sinh lời, “kinh tế” là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình

7


thái kinh tế - xã hội nhất định, “thương mại” là thực hiện lưu thông hàng hóa bằng
mua bán1.
Theo cách hiểu này, nội hàm tranh chấp kinh tế rộng hơn, bao gồm cả tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Có thể bao quát tranh chấp kinh tế bao gồm các tranh
chấp kinh doanh, thương mại: Tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi,
tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư, tranh chấp
giữa các quốc gia trong việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại song phương
và đa phương, tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong
việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương. Kinh tế có sự bao hàm yếu
tố quản lý và yếu tố chính trị khác.
Trong hoạt động kinh doanh, thương mại thường xảy ra nhiều bất đồng dẫn đến
những tranh chấp. Tranh chấp KDTM là một trong những hệ quả của hoạt động
thương mại. Tranh chấp KDTM là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra
trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu

quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh
tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt
động này cũng như các phương thức giải quyết. Tranh chấp KDTM là thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới
được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây và ngày càng
chiếm giữ vị trí “thống lĩnh” bởi sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế một khái niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư
duy pháp lý của người Việt Nam.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền
lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan2. Những bất đồng, mâu thuẫn này có
Phạm Thị Ban (2012), giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân – Thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.7
2
Nguyễn Thị Lan Phương (2018), Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện khoa học xã hội, tr.8
1

8


thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng được
gọi theo ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lương giữa người lao động và người
sử dụng lao động được gọi là tranh chấp lao động. Tương tự như vậy, tranh chấp dân
sự, tranh chấp đất đai... đều là những tranh chấp có liên quan đến lợi ích kinh tế của
các bên. Do đó chúng có thể được gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc
trưng của các tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan
hệ này không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp KDTM là tranh
chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành viên
WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó của WTO

bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành viên khác áp dụng một biện
pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi phạm); hoặc khi
việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu hoặc suy giảm quyền lợi
thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên bất kể là biện pháp này có
trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu kiện không có vi phạm); hoặc khi có
bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp định
(khiếu kiện tình huống). Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của
WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO. Như vậy, trong khuôn
khổ WTO, tranh chấp KDTM được hiểu là bất đồng giữa các thành viên WTO liên
quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của
WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO. Như vậy,
tranh chấp KDTM trong khuôn khổ WTO có một số đặc điểm sau: (i) TCKD, TM
trong khuôn khổ WTO là tranh chấp KDTM quốc tế liên quốc gia, liên Chính phủ;
(ii) các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, pháp
nhân… không thể là một bên của tranh chấp; (iii) khách thể của tranh chấp luôn liên
quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của

9


WTO và (iv) tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO (DSM)3.
Tại Việt Nam, khái niệm tranh chấp KDTM lần đầu tiên được quy định trong
LTM năm 1997. Tại Điều 238 LTM quy định: Tranh chấp KDTM là tranh chấp phát
sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động
thương mại. Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của LTM năm
1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao
gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ thương mại và các
hoạt động xúc tiến thương mại. Tranh chấp KDTM và hoạt động thương mại theo
quy định của LTM năm 1997 đã loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì

các tranh chấp đó có thể được coi là các tranh chấp KDTM. Vì vậy đã dẫn đến các
xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành
viên (Công ước New York năm 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực
tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Trong LTM năm 2005 không đưa ra khái niệm về tranh chấp thương mại, mà
đưa ra khái niệm hoạt động thương mại là “hoạt động nhẳm mục đích sinh lời, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Khoản 1 Điều 3 LTM năm 2005).
Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại cũng đã được mở
rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của LTM
2005 cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã được mở rộng tương đồng với
khái niệm kinh doanh trong LDN 2014 “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (Khoản 16 Điều
4 LDN năm 2014).
Nguyễn Thị Lan Phương (2018), Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện khoa học xã hội, tr.9
3

10


Theo Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì không có khái niệm cụ thể về tranh chấp
KDTM mà chỉ liệt kê các loại tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh
thuương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Từ những dẫn liệu trên, có thể định nghĩa tranh chấp KDTM là: Tranh chấp
trong kinh doanh (hay tranh chấp KDTM) là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh

doanh hoặc có liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Tranh chấp KDTM diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân với nhau. Tuy nhiên
trong một số trường hợp, các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân cũng có thể
là chủ thể của tranh chấp KDTM. Điều này xuất phát từ đặc điểm của từng mối quan
hệ thương mại cụ thể. Có mối quan hệ thương mại phải được giao kết giữa các thương
nhân với nhau, tuy nhiên cũng có những mối quan hệ thương mại có thể được giao
kết giữa thương nhân với các nhân, tổ chức không phải là thương nhân. Khoản 3 Điều
29 BLTTDS 2015 có quy định về một loại tranh chấp không diễn ra giữa các thương
nhân với nhau. Đó là tranh chấp giữa các công ty và thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Hiện nay, đối với các vụ việc KDTM được giải quyết ở Toà án theo thủ tục tố
tụng dân sự thì pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định hai loại trình tự tố tụng
hoàn toàn khác nhau đó là trình tự giải quyết vụ án KDTM và thủ tục giải quyết những
yêu cầu về KDTM. Vậy vụ án KDTM là gì và nó có gì khác so với yêu cầu về KDTM.
Để hiểu hơn về vấn đề này, tác giả sẽ làm rõ khái niệm vụ án KDTM và yêu cầu
KDTM.
- Yêu cầu KDTM: Do trước đây pháp luật tố tụng không phân biệt giữa vụ án
dân sự và việc dân sự nên dù có tranh chấp hay không có tranh chấp đều được gọi là
vụ án và được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chung. Tuy nhiên, qua thực tiễn về
giải quyết các vụ việc về KDTM cho thấy nếu áp dụng thủ tục phiên tòa cho một số
loại việc không có tranh chấp, việc xác nhận một sự kiện pháp lý nào đó thì vừa rườm

11


rà, mất thời gian, tốn kém cho các bên và nhà nước. Vì vậy, BLTTDS năm 2004,
BLTTDS năm 2015 đã xác định đối với các vụ việc KDTM mà cá nhân, cơ quan, tổ
chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận
một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ từ quan hệ KDTM của

mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác như: Yêu cầu liên quan đến việc Trọng
tài thương mại Việt Nam giải quyết các tranh chấp theo quy định của pháp luật về
Trọng tài thương mại hay yêu cầu công nhận và cho thi hành án tại Việt Nam bản án,
quyết định KDTM của Tòa án nước ngoài…
- Vụ án KDTM là việc nguyên đơn và bị đơn tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
của các bên phát sinh trong quá trình hoạt động KDTM. Trong đó, nguyên đơn là
người yêu cầu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án khi cho rằng quyền và
lợi ích của mình bị xâm phạm. Như vậy, căn cứ quan trọng nhất để phân biệt giữa vụ
án KDTM và yêu cầu về KDTM là giữa các bên có tranh chấp hay không? Nếu không
có tranh chấp thì xác định là việc dân sự về KDTM, nếu các bên đương sự có tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ thì là vụ án KDTM.
Tóm lại, vụ án KDTM là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ KDTM được quy định
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, do cá nhân, tổ
chức kinh doanh hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Vụ án KDTM được giải quyết ở Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, đương sự trong vụ án KDTM chủ yếu là thương nhân
Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc
giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là
tranh chấp KDTM khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngoài ra cũng có một số
trường hợp, các cá nhân tổ chức khác không phải là thương nhân cũng có thể là chủ
thể của tranh chấp KDTM như: Tranh chấp giữa công ty - thành viên công ty; tranh
chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
12


hợp nhất, giải thể, chia, tách…công ty. Do đó, đương sự trong vụ án KDTM chủ yếu
là thương nhân.
Thứ hai, nội dung của vụ án KDTM là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ

của các chủ thể phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Cụ thể là những
tranh chấp phát sinh từ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại
lý...Các tranh chấp kinh tế luôn gắn liền với các hoạt động kinh tế, gắn liền với việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ kinh tế.
Thứ ba, vụ án KDTM có thể được giải quyết ở Toà án theo thủ tục tố tụng dân
sự khi có yêu cầu của các chủ thể
Tranh chấp KDTM đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi
của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần ngăn ngừa
sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương
xã hội. Hiện nay,tranh chấp KDTM được giải quyết bằng các phương thức: thương
lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi phương thức có sự khác nhau về
tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa
chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức có thể mang
lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính chất của tranh chấp và
thiện chí của các bên. Do đó, nếu các bên lựa chọn giải quyết vụ án KDTM ở Toà án
thì Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án KDTM theo thủ tục tố tụng dân sự.
1.1.1.2. Khái niệm khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại
Thủ tục giải quyết vụ án KDTM là thủ tục tố tụng dân sự được áp dụng cho
trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên chủ thể tham gia quan hệ KDTM. Khi đó,
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì một hoặc các bên chủ thể sẽ nộp
đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để thực hiện quyền khởi kiện vụ
án KDTM. Chính vì vậy, để hiểu khởi kiện vụ án KDTM là gì trước hết cần phải hiểu
khái niệm khởi kiện vụ án dân sự. Khởi kiện vụ án dân sự là việc thực hiện quyền
dân sự của các chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền dân sự cho mình, cho Nhà nước
hoặc cho người khác và là cơ sở để Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết. Việc xem xét,
13


thụ lý yêu cầu khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức chính là sự bảo đảm cho đương
sự thực hiện được quyền khởi kiện của mình. Khi yêu cầu khởi kiện của cá nhân, cơ

quan, tổ chức đáp ứng đầy đủ các điều kiện về nội dung, hình thức khởi kiện, về tạm
ứng án phí thì Tòa án thụ lý và vụ án dân sự được hình thành.
Ngay từ thời Cổ luật La Mã đã ghi nhận quyền khởi kiện của công dân La Mã,
theo đó, người có quyền lợi bị xâm phạm có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo
vệ quyền lợi của mình. Người bị vi phạm có thực hiện quyền khởi kiện hay không,
điều này pháp luật không bắt buộc mà phụ thuộc vào ý chí của người đó. Trong xã
hội ngày nay, khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền con
người. Ở Việt Nam, trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các văn bản khác đã cụ thể
hóa và ghi nhận quyền khởi kiện của đương sự. Cụ thể là quyền khởi kiện được ghi
nhận trong các văn bản pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Trước khi BLTTDS
năm 2004 ra đời, theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động thì khi các đương sự có nhu cầu đưa các vụ việc dân sự, kinh
tế, lao động để giải quyết theo thủ tục tố tụng thì tất cả các vụ việc, tranh chấp hay
không tranh chấp vẫn gọi chung là vụ án.
Thực tiễn giải quyết các loại việc về dân sự, kinh tế, lao động…cho thấy nếu áp
dụng một thủ tục tố tụng chung với những trình tự nghiêm ngặt như nhau, thông qua
phiên tòa với những thủ tục như thẩm vấn, tranh luận, đối chất.. cho một số loại việc
không có tranh chấp, chỉ đơn giản là việc xác nhận một sự kiện pháp lý nào đó…thì
lại dẫn đến sự rườm rà, kéo dài việc giải quyết, gây mất thời gian vừa gây tốn kém
cho công dân và Nhà nước, không bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự. Vì vậy, khi soạn thảo BLTTDS năm 2004, nhà làm luật đã xây dựng
hai loại thủ tục riêng biệt là thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có tranh chấp và thủ
tục giải quyết việc dân sự không có tranh chấp. Theo đó, năm 2004, BLTTDS ra đời,
khái niệm vụ án dân sự đã có sự thay đổi, khái niệm vụ việc dân sự đã thay thế cho
khái niệm vụ án dân sự trước đây, nếu các cá nhân, cơ quan, tổ chức có tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ thì gọi là vụ án dân sự, nếu các cá nhân, cơ quan tổ chức không có
14



tranh chấp về quyền và nghĩa vụ nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền
về dân sự thì là việc dân sự. Vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình, KDTM và lao động. Đến năm 2015, BLTTDS ra đời đã có sự kế
thừa các quy định tại Điều 162 và Điều 406 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đồng thời có
những sửa đổi, bổ sung về quyền khởi kiện của tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ
chức xã hội tham gia bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu dùng…về quyền khởi kiện
vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng
và lợi ích của Nhà nước.
Như vậy, khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động của cá nhân, cơ quan, tổ chức
hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo vệ lợi
ích công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó đang bị xâm phạm hay
có tranh chấp với chủ thể khác.
Với khái niệm khởi kiện VADS như vậy, có thể hiểu:
Khởi kiện vụ án KDTM là hoạt động của cá nhân, tổ chức kinh doanh hoặc các
chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm
hay có tranh chấp với chủ thể khác trong quá trình hoạt động KDTM.
Khởi kiện vụ án KDTM là hoạt động đầu tiên của tố tụng dân sự, là hành vi tố
tụng đầu tiên của nguyên đơn làm phát sinh các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Việc thực hiện quyền khởi kiện VADS thể hiện bằng việc nguyên đơn nộp đơn yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ án, được xác định là sự kiện thực tế có ý nghĩa pháp lý làm
phát sinh quá trình tố tụng. Khởi kiện vụ án KDTM là giai đoạn đầu tiên để bắt đầu
thủ tục tố tụng.
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại
Khởi kiện vụ án KDTM được xem là công cụ hữu hiệu nhất trong toàn bộ các
phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng để giải quyết các tranh chấp và
15



mâu thuẫn lợi ích trong quá trình hoạt động KDTM. Hoạt động khởi kiện vụ án
KDTM có những đặc điểm sau:
- Khởi kiện vụ án KDTM được pháp luật ghi nhận là hoạt động bảo vệ quyền
dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Xuất phát từ yêu cầu
của việc cần đảm bảo quyền con người, khi quyền hay lợi ích bị xâm phạm chủ thể
có quyền cần phải có một công cụ để bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người khác
mà phương tiện hiệu quả nhất chính là nhờ vào quyền lực cũng như sự công minh của
Nhà nước và pháp luật thông qua việc làm đơn khởi kiện. Việc làm đơn khởi kiện là
bước đầu tiên trong hoạt động khởi kiện, từ việc làm đơn gửi Tòa án sẽ phát sinh
những thủ tục tố tụng tiếp theo như đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý hay không thụ
lý, nếu đơn được chấp nhận Tòa án sẽ ra các quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ
án…Chính vì vậy, khởi kiện được coi là hoạt động không thể thiếu để làm phát sinh
vụ án KDTM.
- Khởi kiện vụ án KDTM là hoạt động do các chủ thể kinh doanh có quyền lợi
hoặc được pháp luật trao quyền thực hiện theo quy định của pháp luật nội dung và
pháp luật tố tụng quy định. Các hoạt động khác do cơ quan tố tụng thực hiện ví dụ
như: Tòa án thực hiện việc thụ lý, việc chuẩn bị xét xử, hòa giải, phiên tòa, Chi cục
thi hành án dân sự thực hiện việc thu tạm ứng án phí, lệ phí…Trừ các trường hợp đặc
biệt mà pháp luật có quy định thì chủ thể có quyền khởi kiện vụ án KDTM thường là
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh. Đó là các cá nhân, tổ chức đã được cơ quan
có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật. Điều đó có nghĩa là khi nộp đơn khởi kiện, người nộp đơn
khởi kiện thường nộp kèm theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Điều lệ hoạt
động của pháp nhân để chứng minh tư cách chủ thể của mình.
- Khởi kiện vụ án KDTM là tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo trong
quá trình giải quyết vụ án KDTM. Khởi kiện vụ án KDTM được thực hiện ở thời
điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Hoạt động ngay sau việc nộp đơn khởi kiện là
hoạt động xem xét đơn khởi kiện. Tòa án sau khi nhận đơn khởi kiện sẽ xem xét đơn


16


và trong thời hạn luật định phải ra một trong các quyết định thụ lý nếu thuộc thẩm
quyền; chuyển đơn nếu không thuộc thẩm quyền và trả lại đơn. Khởi kiện chính là
hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nhau tham gia vào quan
hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân
sự.
- Khởi kiện vụ án KDTM là hoạt động trong đó các đương sự được tự do định
đoạt, theo đó, cá nhân, tổ chức kinh doanh và các chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm hại có quyền thực hiện hoặc không thực hiện hoạt động khởi kiện vụ án
KDTM để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền
phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc theo thỏa thuận của các
bên. Đây là đặc điểm đặc trưng của hoạt động này. Việc khởi kiện được thực hiện
trên cơ sở tự nguyện và quyền tự do cá nhân, đồng thời pháp luật cũng ghi nhận việc
tự định đoạt và tự thỏa thuận của các chủ thể. Điều này xuất phát từ bản chất dân sự
của quan hệ KDTM nên trong tố tụng dân sự các đương sự có quyền tự định đoạt về
việc bảo vệ quyền lợi của mình. Các đương sự được tự do lựa chọn các phương thức
để bảo vệ quyền, lợi ích của mình như trung gian hòa giải, trọng tài hoặc yêu cầu sự
can thiệp của Tòa án bằng việc thực hiện hoạt động khởi kiện.
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại
Thứ nhất, khởi kiện vụ án KDTM là một biện pháp được pháp luật quy định
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Pháp luật ghi nhận khởi kiện là hoạt động của chủ thể pháp luật dân sự nhằm
bảo vệ quyền hay lợi ích của mình hay của người khác khi bị tranh chấp hay bị vi
phạm đồng nghĩa với việc trao cho người dân một phương thức bảo vệ hữu hiệu quyền
dân sự của mình. Bằng việc thực hiện hoạt động khởi kiện chủ thể có quyền khởi kiện
có thể nhờ tới sự can thiệp kịp thời của Tòa án, thông qua hoạt động xét xử Tòa án
để bảo vệ các quyền hay lợi ích hợp pháp của đương sự, ngăn chặn được các thiệt hại,
chấm dứt hành vi trái pháp luật và khôi phục lại các quyền của các chủ thể…Một khi

chủ thể lựa chọn việc khởi kiện vụ án KDTM tại Tòa án có nghĩa là họ mong muốn

17


được Nhà nước sử dụng quyền lực đặc biệt để phán xét, khôi phục quyền hay lợi ích
mà họ đã bị tranh chấp hay bị vị phạm, quyết định của Tòa án mang tính cưỡng chế,
bắt buộc thi hành đối với người vi phạm. Do đó, pháp luật ghi nhận vấn đề khởi kiện,
trao quyền khởi kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng có nghĩa là trao trách nhiệm
cho những người thực thi pháp luật, điều đó thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối
với đời sống nhân dân, thể hiện đúng đường lối của Đảng và Nhà nước đó là “Nhà
nước của dân, do dân và vì dân”.
Thứ hai, khởi kiện vụ án KDTM là hoạt động tố tụng tại Tòa án
Bản chất của việc khởi kiện là triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một
trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của
người khác khi các quyền hay lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp. Khởi kiện
được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Chủ thể thực hiện hoạt
động khởi kiện nhằm bảo vệ quyền hay lợi ích của mình hoặc của người khác bằng
việc nộp đơn, chứng cứ và tài liệu đi kèm nếu có tại Tòa án. Khi đơn được nộp tại
Tòa án thì người có thẩm quyền sẽ thực hiện việc tiếp nhận đơn và xem xét trong thời
hạn do pháp luật quy định để đưa ra quyết định thụ lý hay không thụ lý. Khi có quyết
định thụ lý Tòa án sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo. Nếu chủ thể có quyền
khởi kiện không thực hiện hoạt động khởi kiện thì sẽ không có những hoạt động tiếp
theo và vụ án KDTM cũng không được phát sinh kéo theo tranh chấp sẽ không được
giải quyết triệt để. Vì vậy, có thể thấy khởi kiện là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự; là cơ sở pháp
lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, hoạt động khởi kiện là hoạt động
tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án KDTM.
Thông qua hoạt động khởi kiện chủ thể có quyền khởi kiện đã nhờ tới sự can
thiệp của một chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp

của mình. Nhà nước sử dụng quyền lực mang tính chất cưỡng chế không những khôi
phục lại quyền hay lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm mà đồng thời chịu
những chế tài, trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc của pháp luật. Vì vậy, cơ chế khởi

18


×